QUỐC HỘI KHÓA XIV
TỔNG THƯ KÝ QUỐC HỘI
Số: 1082/TB-TTKQH
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 23 tháng 8 năm 2017
|
THÔNG BÁO
Kết luận phiên họp thứ 13 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Từ ngày 10 đến ngày 18/8/2017, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã họp phiên thứ 13 tại Hà Nội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân để cho ý kiến về 11 nội dung, thông qua 07 nghị quyết về một số vấn đề quan trọng khác, tổ chức chất vấn và trả lời chất vấn.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội, Tổng thư ký Quốc hội trân trọng thông báo kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp như sau:
1. Dự án Luật Thủy sản (sửa đổi)
- Rà soát lại các quy định để bảo đảm tính thống nhất của dự thảo Luật Thủy sản với các luật khác, nhất là Luật Đất đai, Luật Biển Việt Nam, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự… Cần có điều khoản chuyển tiếp để đảm bảo tính khả thi và thống nhất của dự thảo Luật.
- Đề nghị cân nhắc về chính sách hỗ trợ mua bảo hiểm trong nuôi trồng thủy sản, bảo hiểm thân tàu, trang thiết bị tàu khai thác thủy sản xa bờ, bảo hiểm thuyền viên… vì hiện nay nguồn lực ngân sách rất hạn chế; cần có đánh giá tác động để đảm bảo tính khả thi.
- Cân nhắc về sự cần thiết có Quỹ bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, được thành lập ở cả trung ương và địa phương.
- Nghiên cứu, rà soát kỹ nội dung về giao, cho thuê mặt nước biển cho phù hợp với Luật Đất đai, Luật Biển Việt Nam và các luật khác có liên quan. Đối với nội dung cho người nước ngoài thuê mặt biển, cần nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng, chặt chẽ, đảm bảo quốc phòng và an ninh.
- Cân nhắc về sự cần thiết thành lập Kiểm ngư ở cả trung ương và địa phương; nghiên cứu thiết kế lại Điều 90 của dự thảo Luật theo hướng quy định mang tính nguyên tắc, Chính phủ sẽ quy định cụ thể. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan quản lý nhà nước về Kiểm ngư.
Cần có tổng kết, đánh giá hoạt động của lực lượng Kiểm ngư trong thời gian qua để quy định về tổ chức, hoạt động của lực lượng này cho phù hợp.
- Nghiên cứu, xem xét những nội dung liên quan đến việc tổ chức sản xuất, hình thành các tổ đội đánh bắt, dịch vụ hậu cần trên biển, đảm bảo tính khả thi trong thực tế.
2. Dự án Luật Bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi)
- Về tên Luật, còn có ý kiến khác nhau, vì vậy cần xem xét giải trình làm rõ thêm việc đổi tên có ảnh hưởng đến phạm vi điều chỉnh của Luật và việc dẫn chiếu thực hiện sang các luật khác hay không?
- Cần rà soát để bảo đảm sự thống nhất các nội dung trong dự thảo Luật này với các luật khác như Luật Đất đai, Luật Đa dạng sinh học, dự thảo Luật Quy hoạch về vấn đề giao đất, giao rừng, phân loại rừng, quy hoạch vùng nguyên liệu, sản phẩm trong quy hoạch lâm sản… Làm rõ mối liên hệ giữa sở hữu rừng với sở hữu về đất đai.
- Cần cụ thể hơn các quy định trong dự thảo Luật, những điểm nào trong quá trình tổ chức thực hiện đã đi vào cuộc sống thì cụ thể hóa, tránh giao nhiều nội dung cho Chính phủ quy định.
- Cân nhắc thêm việc giao rừng, cho thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư, tổ chức kinh tế; làm rõ việc quy định không cho phép chủ rừng là người Việt Nam định cư ở nước ngoài (quy định khác với Luật Bảo vệ và phát triển rừng hiện hành).
- Làm rõ thêm phạm vi của Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng để hoạt động của Quỹ tách bạch với với dự toán ngân sách nhà nước, tránh trùng lặp nhiệm vụ chi.
- Chú ý nội dung phát triển dịch vụ môi trường rừng gắn với bảo vệ rừng với sinh kế của người dân; nguyên tắc chi trả dịch vụ môi trường rừng cần tính toán để bảo đảm lợi ích của các chủ thể quản lý và bảo vệ rừng.
3. Dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi)
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với nội dung giải trình, tiếp thu đã được thống nhất giữa Cơ quan soạn thảo và Ủy ban Tài chính, Ngân sách. Đề nghị Cơ quan thẩm tra và Cơ quan soạn thảo rà soát, hoàn thiện Dự thảo Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và Dự thảo luật Quản lý nợ công (sửa đổi) trên cơ sở tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bám sát tinh thần Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công.
- Riêng về cơ quan quản lý nợ công: Đề nghị Chính phủ báo cáo đánh giá việc quán triệt, thể chế hóa Nghị quyết 07-NQ/TW trong Dự thảo luật Quản lý nợ công (sửa đổi). Đồng thời, đánh giá đầy đủ, toàn diện tác động, ưu điểm, hạn chế của phương án giữ như quy định hiện hành, phương án tập trung thống nhất về một cơ quan quản lý nợ công và phương án khác (nếu có), trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến đối với nội dung này tại phiên họp tháng 9/2017.
4. Dự án Luật Quốc phòng (sửa đổi)
- Về hồ sơ dự thảo Luật:
+ Đối với Tờ trình của Chính phủ: cần bổ sung xác định rõ quan điểm về xây dựng Luật Quốc phòng (sửa đổi) lần này, Luật này quy định những vấn đề chung về quốc phòng hay quy định chi tiết.
+ Đối với Báo cáo tổng kết thực hiện Luật: cần đánh giá, làm rõ thêm việc thi hành Luật Quốc phòng năm 2005, trong đó có nội dung Quân đội tham gia phát triển kinh tế và việc quản lý, sử dụng đất quốc phòng.
- Về nội dung dự thảo Luật:
+ Cần rà soát các nội dung quy định trong dự thảo Luật để sửa đổi, bổ sung các quy định bảo đảm chặt chẽ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, có khả thi và áp dụng được ngay khi Luật ban hành; đối với các dự án Luật chuyên ngành dự kiến xây dựng cần sớm chỉ đạo soạn thảo, báo cáo cấp có thẩm quyền đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trong thời gian tới.
+ Cần nghiên cứu làm rõ thêm các khái niệm: “về quốc phòng”; “tình trạng khẩn cấp về quốc phòng”. Đồng thời, quy định cụ thể hơn đối với một số nội dung như: về nguyên tắc hoạt động và sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân; về vai trò chủ trì, phối hợp của các lực lượng khi thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; về tài sản, đất đai phục vụ nhiệm vụ quốc phòng; về Hội đồng quốc phòng và an ninh, đây là một vấn đề lớn đã được hiến định, theo đó, cần cân nhắc việc quy định về Hội đồng giáo dục quốc phòng, an ninh trong Luật.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giao Ủy ban Quốc phòng và An ninh tổ chức thẩm tra chính thức dự án Luật theo quy định của pháp luật để báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ tư.
5. Dự án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước
- Về Báo cáo đánh giá tác động: cần phân tích sâu, làm rõ tính khả thi về nội dung các quy định trong dự thảo Luật bảo đảm đáp ứng yêu cầu về công tác bảo vệ bí mật nhà nước trong tình hình mới.
- Về nội dung dự thảo Luật: cần rà soát các quy định của pháp luật có liên quan (như: Luật Tiếp cận thông tin, Luật An toàn thông tin mạng, Luật Cơ yếu, Luật Lưu trữ và các luật khác) để quy định bảo đảm chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, bảo đảm tính khả thi, cụ thể và phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay. Đề nghị rà soát, tiếp thu các ý kiến, nghiên cứu quy định cụ thể một số nội dung như: về khái niệm bí mật nhà nước; về phạm vi bí mật nhà nước; về tiêu chí xác định hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng khi để lộ, mất thông tin bí mật nhà nước; về danh mục bí mật nhà nước, nhất là việc quy định giao Bộ Công an thẩm định danh mục nhà nước có liên quan đến lĩnh vực do Bộ Quốc phòng quản lý; về công tác đấu tranh ngăn chặn thiệt hại do thông tin bí mật nhà nước bị lộ, mất; về thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước; về trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, ngành chức năng trong hoạt động bảo vệ bí mật nhà nước… tránh quy định chung chung, chồng chéo hoặc quy định lại những nội dung đã được các luật khác quy định.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giao Ủy ban Quốc phòng và An ninh tổ chức thẩm tra chính thức dự án Luật theo quy định của pháp luật để báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ tư.
6. Dự án Luật Hành chính công
Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoan nghênh và đánh giá cao sự nỗ lực, cố gắng của Ban soạn thảo, trực tiếp là của đại biểu Quốc hội Trần Thị Quốc Khánh, Trưởng Ban soạn thảo. Trong thời gian ngắn, Ban soạn thảo đã tập trung nhiều công sức, trí tuệ xây dựng hồ sơ về dự án Luật với rất nhiều thông tin, tài liệu tham khảo để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuy nhiên, do hồ sơ dự án Luật chưa có ý kiến chính thức của Chính phủ, nên chưa đủ điều kiện để Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tổ chức thẩm tra theo quy định. Đề nghị Chính phủ quan tâm, sớm có ý kiến chính thức về dự án Luật này. Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến của Chính phủ, của Thường trực Ủy ban Pháp luật, đề nghị Ban soạn thảo khẩn trương tổ chức nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật về một nội dung như đối tượng, phạm vi điều chỉnh, tính thống nhất của Dự án Luật trong hệ thống pháp luật, tính khả thi của các chính sách, đánh giá tác động của các chính sách... và gửi Ủy ban Pháp luật để tổ chức thẩm tra, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến tại phiên họp tháng 9; nếu xét thấy đủ điều kiện sẽ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4.
7. Dự án Luật Tố cáo (sửa đổi)
Dự án Luật Tố cáo (sửa đổi) đã được Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp thứ 3, đây là dự án được Quốc hội xem xét theo quy trình tại 03 kỳ họp Quốc hội. Tại phiên họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét, cho ý kiến về dự án Luật Tố cáo (sửa đổi) trên cơ sở Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật.
Về cơ bản, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao Chính phủ và các cơ quan hữu quan đã có nhiều cố gắng, tích cực nghiên cứu, tiếp thu nhiều ý kiến và giải trình hầu hết các ý kiến của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật; hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị kịp thời, đúng tiến độ.
Qua thảo luận, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, dự thảo Luật cần được nghiên cứu sâu thêm có lý giải thuyết phục để có thể giải quyết một cách hợp lý các vấn đề vướng mắc của thực tiễn đang đặt ra; chú trọng việc thực hiện cải cách hành chính, việc ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tố cáo và người thực hiện quyền tố cáo; những nội dung mới được đề xuất đưa vào dự thảo Luật cần phải được đánh giá, cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ cần tiếp tục quan tâm, nghiên cứu hoàn chỉnh thêm một số nội dung cơ bản của dự thảo Luật, cụ thể là:
- Cần tiếp tục làm rõ hơn phạm vi điều chỉnh của dự án Luật;
- Về hình thức tố cáo, tán thành việc nghiên cứu mở rộng cách thức tiếp nhận tố cáo qua thư điện tử, fax, điện thoại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền tố cáo, thống nhất với quy định của một số luật hiện hành và phù hợp với trình độ phát triển khoa học, công nghệ hiện nay. Điểm căn bản, mấu chốt là cần quy định rõ căn cứ, điều kiện để thụ lý, giải quyết tố cáo, như tố cáo phải rõ tên, địa chỉ người tố cáo, người bị tố cáo, có khả năng xác minh được; nội dung tố cáo phải cụ thể, rõ ràng, có căn cứ;
- Không giải quyết tố cáo nặc danh. Trường hợp tố cáo nặc danh nhưng có kèm theo tài liệu, vật chứng rõ ràng thì cơ quan tiếp nhận phải xác minh, xử lý nhằm tránh bỏ lọt vi phạm pháp luật; trong Luật cần quy định rõ quy trình, cơ chế tiếp nhận, xử lý tố cáo nặc danh để hạn chế việc lạm dụng;
- Về quy định “rút tố cáo”, tán thành quy định người tố cáo có quyền được rút toàn bộ hoặc một phần nội dung tố cáo. Trong trường hợp này, người đã rút tố cáo không phải chịu trách nhiệm đối với nội dung mình đã tố cáo. Tuy nhiên, nếu cơ quan tiếp nhận, xử lý xét thấy nội dung tố cáo là có cơ sở thì vẫn có thể tiến hành xem xét, xác minh theo các thủ tục nghiệp vụ khác (như thanh tra, kiểm tra,…);
- Về bảo vệ người tố cáo, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần lấy ý kiến của các bộ, ngành hữu quan để tiếp tục làm rõ về phạm vi, đối tượng cần bảo vệ, chỉ nên tập trung bảo vệ người tố cáo; căn cứ, biện pháp, trình tự, thủ tục bảo vệ người tố cáo; trách nhiệm của cơ quan bảo vệ; nghĩa vụ của người được bảo vệ nhằm bảo đảm tính khả thi của luật. Đồng thời, Luật cũng cần quy định rõ cơ chế bảo vệ người bị tố cáo, tránh làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của người bị tố cáo khi chưa có kết luận của cơ quan có thẩm quyền;
- Luật cần quy định về thời hiệu tiếp nhận và giải quyết tố cáo để đảm bảo các hành vi vi phạm phải được xử lý kịp thời chứ không phải là dự tính nguy hiểm của hành vi. Đối với hành vi vi phạm pháp luật đã xảy ra từ quá lâu, không còn tính nguy hiểm đối với xã hội, thì không tiến hành tiếp nhận, giải quyết, tránh lãng phí ngân sách, nguồn nhân lực;
- Không tiếp nhận, xem xét đối với các tố cáo đã được cơ quan có thẩm quyền cuối cùng về giải quyết tố cáo giải quyết và có kết luận theo đúng quy định của pháp luật;
- Không quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm trong dự thảo Luật, trừ trường hợp cần quy định có nội dung riêng biệt, đặc thù về khen thưởng, xử lý vi phạm khác với quy định hiện hành của pháp luật.
Đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp chặt chẽ với cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu ý kiến đại biểu Quốc hội, ý kiến tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội để tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, bảo đảm trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4. Đối với những nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau, cần xây dựng thành các phương án cụ thể để đại biểu Quốc hội thảo luận, quyết định; đối với những quy định mới được bổ sung, cần có đánh giá tác động toàn diện và sâu sắc hơn, tổ chức các hoạt động khảo sát, hội thảo, lấy ý kiến để bảo đảm chất lượng và tính khả thi của Luật, tạo sự đồng thuận cao.
8.Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư pháp
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan chủ trì soạn thảo (Bộ Tư pháp) phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra (Ủy ban Tư pháp) trao đổi những vấn đề được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến như việc dự kiến bỏ phiếu lý lịch tư pháp số 2, vấn đề lý lịch tư pháp của pháp nhân thương mại… báo cáo Chính phủ và trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định tại phiên họp sau của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
9. Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cơ quan đại diện nước CHXHCN Việt Nam ở nước ngoài được chuẩn bị công phu, đúng trình tự theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện để báo cáo trước Quốc hội theo quy trình một kỳ họp.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí về sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật Cơ quan đại diện để cụ thể hóa Hiến pháp, đảm bảo đồng bộ, thống nhất với các luật khác như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ và có ý kiến về nội dung dự thảo Luật như sau:
- Một là, nhất trí sửa đổi việc thực hiện nhiệm vụ ủy thác tư pháp tại dự thảo Luật;
- Hai là, nhất trí bổ sung nhiệm vụ quản lý hoạt động thông tin đối ngoại của cơ quan đại diện;
- Ba là, nhất trí tách kinh phí hoạt động thường xuyên và kinh phí chuyên môn đặc thù đối với lĩnh vực thương mại, tuy nhiên phải bảo đảm sự thống nhất trong công tác quản lý điều hành của Đại sứ đối với các hoạt động của cơ quan đại diện;
- Bốn là, nhất trí sửa đổi quy định về quản lý dự án đầu tư xây dựng của cơ quan đại diện, nghiên cứu có những trường hợp cho áp dụng thủ tục rút gọn để bảo đảm tính chủ động và kịp thời trong trường hợp cần thiết;
- Năm là, đề nghị giao Chính phủ quy định cụ thể về tiêu chuẩn của thành viên Cơ quan đại diện. Về tuổi bổ nhiệm Đại sứ, đề nghị Bộ Ngoại giao và Ủy ban Đối ngoại nghiên cứu thêm, quy định theo hướng áp dụng theo quy định của Luật cán bộ, công chức, bảo đảm bổ nhiệm Đại sứ lần đầu phải đủ tuổi đảm nhiệm trọn nhiệm kỳ 36 tháng trở lên;
- Sáu là, nhất trí sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ;
- Bảy là, nhất trí sửa đổi các quy định về chế độ, chính sách dành cho thành viên cơ quan đại diện, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên đi theo thành viên cơ quan đại diện, giao cho Chính phủ hướng dẫn cụ thể;
- Tám là, nhất trí bổ sung quy định nhằm tăng cường phối hợp giữa đoàn được cử đi công tác nước ngoài và Cơ quan đại diện để thống nhất quản lý và góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại;
Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Cơ quan soạn thảo tiếp thu ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật. Giao Ủy ban Đối ngoại hoàn thiện báo cáo thẩm tra chính thức dự án Luật này kèm theo Báo cáo giám sát tình hình thực hiện Luật cơ quan đại diện để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
10. Về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe đại diện Đoàn giám sát của Quốc hội báo cáo về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao tinh thần làm việc khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm của Đoàn giám sát, với khối lượng công việc rất lớn đã được Đoàn giám sát thực hiện. Đoàn giám sát đã tiến hành giám sát đúng quy định của pháp luật, bảo đảm đúng kế hoạch, phạm vi, đối tượng như đã được Quốc hội giao tại Nghị quyết số 20/2016/QH14 để có được kết quả giám sát Báo cáo tại phiên họp.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với bố cục và nội dung của dự thảo Báo cáo kết quả giám sát và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kết quả giám sát đối với nội dung này do Đoàn giám sát chuẩn bị. Qua xem xét kết quả giám sát, Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ, trong thời gian từ nay đến kỳ họp thứ 4 của Quốc hội, cần tiếp tục khẩn trương ban hành các nghị định quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, về tổ chức các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và các văn bản có liên quan đến phân cấp, phân định nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước, trong đó kết hợp xử lý dứt điểm các vướng mắc, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, giữa trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương; tập trung rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các tổ chức phối hợp liên ngành và hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập; thực hiện nghiêm túc chủ trương tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Những nội dung liên quan đến các quy định của pháp luật cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cũng cần sớm được Chính phủ tiến hành rà soát, nghiên cứu, kiến nghị để Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, bổ sung vào chương trình xây dựng pháp luật.
Trên cơ sở ý kiến của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đề nghị Đoàn giám sát phối hợp cùng các cơ quan của Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu, hoàn thiện báo cáo giám sát, dự thảo Nghị quyết gửi xin ý kiến các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4.
11. Về Đề án vị trí việc làm của Viện kiểm sát nhân dân
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, Đề án vị trí việc làm của Viện kiểm sát nhân dân đã được chuẩn bị khá công phu, nghiêm túc. Tuy nhiên, cần tiếp tục hoàn thiện Đề án, trong đó lưu ý tách nội dung về biên chế thành một Đề án riêng và thực hiện đúng yêu cầu của Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng thời, rà soát việc xếp ngạch công chức của các vị trí việc làm, bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật.
Giao Viện kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp với Thường trực Ủy ban Tư pháp tiếp tục hoàn thiện Đề án trên cơ sở tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Ủy ban Tư pháp chuẩn bị kỹ Đề án để báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị. Sau khi Bộ Chính trị cho ý kiến, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét phê duyệt Đề án.
12. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 07 Nghị quyết về:
- Việc phân bổ nguồn kinh phí còn lại của ngân sách trung ương năm 2016.
- Việc điều chỉnh kế hoạch vốn ngân sách trung ương năm 2017.
- Việc điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính thành phố Thái Nguyên và thành lập mới 02 phường thuộc thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
- Thành lập Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Việc thực hiện thống nhất trang phục xét xử của Thẩm phán Tòa án nhân dân.
- Về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT).
- Việc tiếp nhận Kênh truyền hình Quốc hội Việt Nam. Đồng ý tiếp nhận nguyên trạng Kênh truyền hình Quốc hội từ Đài Tiếng nói Việt Nam về Văn phòng Quốc hội và đổi tên thành Truyền hình Quốc hội; giao Văn phòng Quốc hội là cơ quan chủ quản của Truyền hình Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội có văn bản đề nghị Chính phủ sau khi chuyển giao Kênh truyền hình Quốc hội về Văn phòng Quốc hội, giảm số biên chế của Đài Tiếng nói Việt Nam để bảo đảm tổng biên chế không thay đổi
13. Tổ chức chất vấn và trả lời chất vấn về nhóm vấn đề: “Công tác quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng, kiến trúc đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị. Việc hướng dẫn, kiểm tra, quản lý sử dụng đất xây dựng đô thị theo quy hoạch và kế hoạch phát triển gắn với giao thông đô thị”.
(Nội dung này đã có văn bản riêng thông báo ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội).
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khẩn trương triển khai thực hiện các kết luận, nghị quyết của phiên họp.
TỔNG THƯ KÝ
(Đã ký)
Nguyễn Hạnh Phúc