Tại phiên họp, sau khi nghe Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình bày Tờ trình dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp về dự án Luật này.
Trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết, Uỷ ban Tư pháp tán thành sự cần thiết ban hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Nhận thấy, đối với các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính, cũng như các nước, pháp luật nước ta được hoàn thiện theo hướng tạo mọi điều kiện để các bên tiến hành hòa giải, đối thoại đi đến thống nhất việc giải quyết tranh chấp. Theo đó, cơ chế hòa giải, đối thoại hiện đang được quy định trong 09 đạo luật, gồm: Luật Hòa giải ở cơ sở, Luật Đất đai, Bộ luật Lao động, Luật Thương mại, Luật Khiếu nại, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Theo báo cáo, “Hòa giải, đối thoại tại Tòa án” được quy định trong dự thảo Luật là cơ chế pháp lý mới, không trùng lặp, không mâu thuẫn, không thay thế các cơ chế hiện có, tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân lựa chọn, giải quyết tranh chấp. Việc thiết lập cơ chế này sẽ giúp thu hút nguồn nhân lực có chất lượng, kinh nghiệm trong xã hội tham gia công tác hòa giải, đối thoại; khắc phục một số vướng mắc, bất cập của các cơ chế hoà giải, đối thoại hiện nay.
Qua sơ kết việc đổi mới công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án ở 16 tỉnh, thành phố, kết quả hòa giải thành, đối thoại thành đạt 74,08% đã khẳng định tính ưu việt của cơ chế mới này, góp phần hạn chế các vụ, việc phải đưa ra xét xử; nhanh chóng giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn của người dân; tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của các bên liên quan và Nhà nước.
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho hay, Uỷ ban Tư pháp tán thành với phạm vi và đối tượng hòa giải, đối thoại phải thỏa mãn 02 điều kiện: Một là, những tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Hai là, phải có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết. Cho rằng, quy định này phù hợp với yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng dự án Luật là phải bảo đảm không trùng lặp, không mâu thuẫn, không thay thế các cơ chế hòa giải, đối thoại hiện có. Đồng thời, bảo đảm sự thống nhất, ổn định của hệ thống pháp luật, không dẫn đến phải sửa các luật có liên quan, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với các điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực Hòa giải viên, Đối thoại viên.
Bên cạnh đó, Ủy ban Tư pháp cũng đề nghị Tòa án nhân dân tối cao làm rõ thêm các nội dung về bản chất pháp lý của cơ chế hòa giải, đối thoại tại Tòa án; trách nhiệm của Tòa án trong hoạt động hòa giải, đối thoại; trình tự nhận, phân công, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án…
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết, hiện nay có 02 loại hòa giải, đối thoại: hòa giải, đối thoại ngoài tố tụng và hòa giải, đối thoại trong tố tụng.
Hòa giải, đối thoại ngoài tố tụng gồm: hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở; hòa giải tranh chấp lao động theo quy định của Bộ luật Lao động; hòa giải thương mại theo quy định của Luật Thương mại và Luật trọng tài thương mại; hòa giải tranh chấp về quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ; hòa giải theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; đối thoại theo quy định của Luật Khiếu nại. Ttrong đó có một số loại tranh chấp bắt buộc đã phải qua thủ tục hòa giải thì Tòa án mới thụ lý đơn khởi kiện.
Hòa giải, đối thoại trong tố tụng gồm: hòa giải theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đối thoại theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Hòa giải, đối thoại trong tố tụng được thực hiện sau khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện và là thủ tục bắt buộc do Thẩm phán tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Còn cơ chế hòa giải, đối thoại trong dự thảo Luật là cơ chế mới so với các cơ chế hòa giải, đối thoại hiện có, được thực hiện sau khi Tòa án nhận đơn khởi kiện và do các Hòa giải viên, Đối thoại viên tiến hành. Tuy nhiên, hồ sơ dự án Luật chưa xác định rõ bản chất pháp lý của cơ chế mới này, đây là vấn đề có liên quan đến các quy định cụ thể điều chỉnh trong dự thảo Luật. Do đó, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga đề nghị Tòa án nhân dân tối cao làm rõ bản chất pháp lý của cơ chế hòa giải, đối thoại trong dự thảo Luật là hòa giải, đối thoại ngoài tố tụng hay hòa giải, đối thoại trong tố tụng; mối quan hệ với cơ chế hòa giải, đối thoại trong tố tụng và các cơ chế hòa giải, đối thoại hiện nay.
Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp cũng đề nghị cân nhắc kỹ quy định về trình tự nhận, phân công, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án để bảo đảm sự tự nguyện của các bên lựa chọn cơ chế hòa giải, đối thoại tại Tòa án hoặc thủ tục giải quyết vụ, việc theo quy định của Bô luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính; xác định cụ thể hơn nội dung quản lý của Tòa án đối với Hòa giải viên, Đối thoại viên nhằm bảo đảm sự độc lập của Hòa giải viên, Đối thoại viên khi tiến hành hòa giải, đối thoại./.