UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI NGHE BÁO CÁO VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG LỚN CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU CỦA DỰ THẢO LUẬT BIÊN PHÒNG VIỆT NAM

10/08/2020

Thực hiện chương trình phiên họp thứ 47 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chiều ngày 10/8, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Võ Trọng Việt trình bày báo cáo về một số nội dung lớn còn có ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Võ Trọng Việt nêu rõ: Tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XIV, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Biên phòng Việt Nam. Sau kỳ họp, theo chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh đã phối hợp với Ban soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật. Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh xin báo cáo Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về một số vấn đề sau:

Về tên gọi của Luật: Đa số ý kiến nhất trí với tên gọi “Luật Biên phòng Việt Nam”. Một số ý kiến cho rằng, tên Luật có phạm vi rộng, chưa phù hợp với nội dung dự thảo Luật và đề nghị sửa lại là “Luật Bộ đội Biên phòng” hoặc “Luật Bộ đội Biên phòng Việt Nam” hoặc “Luật Lực lượng Bộ đội Biên phòng Việt Nam”.

Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh thống nhất: Tên gọi “Luật Biên phòng Việt Nam” đã được xác định tại Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28/9/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia, Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và phù hợp với đa số ý kiến của đại biểu Quốc hội. Việc xây dựng Luật này không chỉ luật hóa Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng mà còn nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ biên giới quốc gia, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Vì vậy, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho giữ tên Luật như dự thảo Chính phủ trình.


Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Võ Trọng Việt.

Về khái niệm “Biên phòng” (khoản 1 Điều 2): Đa số ý kiến nhất trí như dự thảo Luật; một số ý kiến đề nghị chỉnh lý lại khái niệm “Biên phòng” cho rõ ràng, phù hợp tên Luật và phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật. Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho chỉnh lý lại khái niệm này như sau: “Biên phòng là tổng thể các hoạt động bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”.

Về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật (Điều 1): Nhiều ý kiến nhất trí với phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật. Một số ý kiến đề nghị chỉnh lý phạm vi điều chỉnh để bảo đảm thống nhất với nội dung của dự thảo Luật và tránh chồng chéo với Luật Biên giới quốc gia.

Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, để phù hợp với tên Luật, khái niệm “Biên phòng”, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh đã phối hợp với Ban soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, rà soát, chỉnh lý một số nội dung của dự thảo Luật nhằm thể chế hóa đầy đủ quan điểm của Đảng tại Nghị quyết số 33-NQ/TW, tránh chồng chéo, mâu thuẫn với các luật khác, nhất là Luật Biên giới quốc gia, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và có tính khả thi. Theo đó, đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho sửa lại Điều này như sau: “Điều 1. Phạm vi điều chỉnh: Luật này quy định chính sách, nguyên tắc, nhiệm vụ, lực lượng, hoạt động, bảo đảm, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân về biên phòng”.

Về nhiệm vụ biên phòng (Điều 5): Đa số ý kiến cơ bản nhất trí với dự thảo Luật. Một số ý kiến đề nghị cân nhắc tên Điều, vì chưa phù hợp với nội dung của Điều, trùng với nhiệm vụ của bộ đội biên phòng tại Điều 15. Có ý kiến đề nghị sửa lại tên Điều là “Nhiệm vụ công tác biên phòng”.

Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh nhất trí với tên Điều như dự thảo Chính phủ trình nhằm xác định rõ nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị và của cơ quan, tổ chức, cá nhân về biên phòng. Nếu sửa lại tên điều là “Nhiệm vụ công tác biên phòng” sẽ không đáp ứng được yêu cầu này, vì “công tác biên phòng” chỉ thuộc phạm vi của lực lượng bộ đội biên phòng. Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, để thể chế hóa đầy đủ tinh thần của Nghị quyết 33-NQ/TW, tránh chồng chéo, mâu thuẫn về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức có liên quan, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, có tính khả thi, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho chuyển Điều này lên Chương I và chỉnh lý lại như sau:

“Điều 5. Nhiệm vụ biên phòng

1. Xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch bảo vệ biên giới quốc gia.

2. Quản lý, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia; xây dựng, quản lý, bảo vệ hệ thống mốc quốc giới, công trình biên giới, cửa khẩu và khu vực biên giới.

3. Bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, hòa bình, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, tài nguyên, môi trường; bảo đảm việc thi hành pháp luật ở biên giới, cửa khẩu và khu vực biên giới.

4. Xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân trong nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân; xây dựng khu vực phòng thủ ở khu vực biên giới gắn với phòng thủ quân khu và phòng thủ tỉnh, huyện, phòng thủ dân sự; phòng, chống thiên tai, biến đổi khí hậu, thảm họa, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn ở khu vực biên giới.

5. Hợp tác quốc tế về biên phòng, đối ngoại biên phòng và ngoại giao nhân dân, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, hợp tác và phát triển.

6. Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu chống chiến tranh xâm lược, xung đột vũ trang”.  


Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe báo cáo về một số nội dung lớn còn có ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam.

Về lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng (Điều 7): Đa số ý kiến nhất trí như dự thảo Luật. Một số ý kiến cho rằng, quy định như dự thảo Luật là quá rộng, chưa rõ ràng, khó thực hiện chế độ, chính sách đối với các lực lượng này.

Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho rằng dự thảo Luật có một điều quy định lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng là cần thiết. Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, để xác định rõ nhiệm vụ và có cơ sở quy định chế độ, chính sách phù hợp đối với từng lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng ở khu vực biên giới. Qua rà soát, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội chuyển Điều này lên Chương I và chỉnh lý lại như sau:

“Điều 6. Lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng

1. Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân ở khu vực biên giới, cửa khẩu.

2. Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách”.

4. Về phối hợp thực thi nhiệm vụ biên phòng (Điều 9)

Đa số ý kiến nhất trí với dự thảo Luật; có ý kiến cho rằng, quy định như dự thảo Luật chưa rõ ràng, chưa đảm bảo nguyên tắc một việc do nhiều chủ thể thực hiện nhưng chỉ một chủ thể chủ trì. Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh cho rằng, nội dung Điều này quy định về phạm vi, nguyên tắc và nội dung phối hợp giữa các lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng, nhằm phát huy được sức mạnh tổng hợp và thuận lợi trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, để bảo đảm cụ thể, rõ ràng hơn và dễ thực hiện, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho chỉnh lý lại Điều này như sau:

Tại khoản 1: Cho bổ sung cụm từ “trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình” sau cụm từ “Bộ, cơ quan ngang Bộ”, cụm từ “nơi có biên giới, cơ quan” trước cụm từ “tổ chức có liên quan” tại điểm b; bổ sung điểm c quy định: “Chính quyền địa phương cấp tỉnh nơi có biên giới, trong phạm vi quyền hạn của mình hoặc theo phân cấp của Chính phủ, chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan thực thi nhiệm vụ biên phòng” và điểm d quy định: “Chính quyền địa phương cấp huyện, xã nơi có biên giới, trong phạm vi quyền hạn của mình chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức liên quan thực thi nhiệm vụ biên phòng”.

Tại khoản 2: Cho bổ sung vào cuối điểm d nội dung: “Khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trên cùng một địa bàn thuộc thẩm quyền xử lý của nhiều cơ quan, tổ chức, lực lượng; cơ quan, tổ chức, lực lượng nào phát hiện trước thì xử lý theo quy định pháp luật”. Đồng thời, cho chỉnh lý lại một số nội dung khác và chuyển thành Điều 10 như dự thảo Luật Báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Về bảo đảm, chế độ chính sách về biên phòng (Chương V): Đa số ý kiến nhất trí với dự thảo Luật. Có ý kiến cho rằng, quy định như dự thảo Luật chưa thể chế đầy đủ quan điểm của Bộ Chính trị tại Nghị quyết 33-NQ/TW về bộ đội biên phòng, nội dung Chương chưa thống nhất với Điều 3 dự thảo Luật và đề nghị nghiên cứu, bổ sung chế độ, chính sách đối với bộ đội biên phòng và chính sách tuyển dụng người địa phương, đồng bào dân tộc thiểu vào bộ đội biên phòng.

Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho chỉnh lý lại Điều 3 quy định rõ, đầy đủ hơn chính sách của Nhà nước về biên phòng và cho bổ sung, chỉnh lý lại Điều 22 và Điều 25 như sau:

- Tại Điều 22: Chuyển khoản 3 Điều 25 thành khoản 2 quy định cụ thể về việc đào tạo, huấn luyện, bỗi dưỡng cán bộ, chiến sĩ bộ đội biên phòng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ, tiếng dân tộc và kiến thức cần thiết khác phù hợp với nhiệm vụ và quyền hạn được giao; bổ sung khoản 3 quy định về khuyến khích phát triển tài năng; ưu tiên nguồn nhân lực là cư dân biên giới, nhất là người dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới để phục vụ lâu dài trong bộ đội biên phòng.

- Tại Điều 25: Bỏ khoản 1 vì đã được quy định tại Điều 3; bổ sung 1 khoản (khoản 2) quy định: “Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng được hưởng chính sách ưu đãi và chế độ đặc thù phù hợp với tính chất công tác và địa bàn hoạt động do Chính phủ quy định”. Đồng thời, chỉnh lý lại một số nội dung khác tại Chương này như dự thảo Luật báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Võ Trọng Việt khẳng định: Ngoài những nội dung trên, Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh đã phối hợp với Ban soạn thảo và các cơ quan chức năng rà soát, chỉnh lý và sắp xếp lại một số điều, khoản như dự thảo Luật báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Với một số nội dung lớn còn có ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội./.

Bích Lan-Bùi Hùng