BỘ NGOẠI GIAO
Tại Công văn số 2405/BNG-Ttra ngày 7 tháng 7 năm 2016 của Bộ Ngoại giao về việc trả lời kiến nghị cử tri tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII:
1. Cử tri tỉnh Phú Yên, Long An, Ninh Bình, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bình Thuận, An Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu, Bình Dương, Hà Nam, Tiền Giang, Cà Mau, Long An và thành phố Hà Nội kiến nghị: Cử tri tiếp tục bày tỏ thái độ bức xúc đối với những vi phạm của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt là hành động xây dựng đảo nhân tạo tại một số điểm thuộc quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, ngang nhiên đánh bắt cá trên vùng biển Việt Nam, tấn công các tàu của ngư dân Việt Nam. Cử tri đề nghị có các giải pháp đấu tranh khả thi, quyết liệt hơn, rõ ràng hơn để giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè, dư luận quốc tế trong việc đối phó với các hành động nêu trên của Trung Quốc; sớm hoàn thiện các thủ tục pháp lý khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế; thận trọng hơn trong các chính sách đối ngoại, cân nhắc khi hợp tác, ứng xử đối với một số nước bạn, đặc biệt là Trung Quốc; hạn chế các chính sách thỏa hiệp để đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc; đồng thời thông tin kịp thời, đầy đủ tình hình Biển Đông và đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền về chủ quyền biển đảo;… từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần đoàn kết, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Trả lời:
Từ tháng 9/2014 đến nay, Trung Quốc ráo riết triển khai các hoạt động bồi đắp, cải tạo và xây dựng quy mô lớn trên các cấu trúc mà Trung Quốc đang chiếm đóng bất hợp pháp tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong năm 2015 và 6 tháng đầu năm 2016, Trung Quốc tiếp tục có những hành động làm mở rộng và phức tạp hơn tranh chấp tại Biển Đông, đe dọa đến hòa bình, ổn định, tự do hàng hải và hàng không trong khu vực (tiếp tục thực hiện việc bồi đắp, tôn tạo các đảo nhân tạo ở Trường Sa và mở rộng các cấu trúc, xây dựng hạ tầng ở Hoàng Sa; tiến hành thử nghiệm sân bay tại đá Chữ Thập; đưa trạm hải đăng trên đá Xu Bi vào hoạt động; tiếp tục đưa nhiều giàn khoan, tàu thăm dò dầu khí vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của các nước ven Biển Đông, trong đó bao gồm khu vực chưa phân định ngoài cửa Vịnh Bắc bộ; ngăn cản hoạt động khảo sát dầu khí của ta tại lô 144, 145 và lô 130, 131,…).
- Về chủ trương, trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì đấu tranh bằng sức mạnh tổng hợp và các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Quan điểm của ta trong xử lý các vấn đề đối ngoại nói chung và tranh chấp tại Biển Đông nói riêng là luôn đặt lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc lên trên hết, mềm dẻo nhưng không nhân nhượng, không thỏa hiệp, không ngừng củng cố hợp tác hữu nghị và làm sâu sắc mối quan hệ với các đối tác, tăng cường đan xen lợi ích, phát huy điểm đồng, giảm thiểu khác biệt trong quan hệ với mỗi đối tác để bảo vệ môi trường hòa bình, ổn định phục vụ cho mục tiêu phát triển của đất nước. Trong quá trình này, ta cần bình tĩnh, xử lý khôn khéo mối quan hệ giữa các nước lớn.
Đối với Trung Quốc, đây là nước lớn, láng giềng quan trọng của Việt Nam, chúng ta coi trọng việc duy trì và phát triển ổn định, bền vững quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Ta xác định rõ Trung Quốc là đối tác chiến lược toàn diện, việc tăng cường quan hệ với Trung Quốc phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định có ý nghĩa quan trọng đối với nhiệm vụ phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, việc xử lý quan hệ với Trung Quốc cần phải đặt trong tổng thể chính sách đối nội và đối ngoại của ta. Tuy nhiên, hiện nay, trong quan hệ hai nước, mâu thuẫn về chủ quyền biển đảo đang ngày càng nổi cộm. Tuy vấn đề này không phải là toàn bộ trong quan hệ hai nước nhưng là vấn đề nhạy cảm và phức tạp nhất, tác động trực tiếp và toàn diện đến bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường an ninh, phát triển của nước ta. Do đó, phát triển quan hệ với Trung Quốc và giải quyết tranh chấp ở Biển Đông là những vấn đề mang tính toàn cục, đòi hỏi phải có tầm nhìn chiến lược đặt trong tổng thể chiến lược phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
- Về biện pháp đấu tranh chính trị – ngoại giao, trong thời gian qua, ta đã sử dụng linh hoạt, triệt để các biện pháp này trên mọi kênh đối thoại, tiếp xúc ở các cấp độ song phương và đa phương, khu vực và quốc tế, thông qua nhiều hình thức (giao thiệp trực tiếp, phát biểu của lãnh đạo và của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao, trao công hàm phản đối,…); kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, chủ động tranh thủ mọi cơ hội để giảm căng thẳng, khôi phục lòng tin, thúc đẩy hợp tác hữu nghị, nỗ lực đối thoại nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề Biển Đông, cụ thể:
+ Trong tiếp xúc, trao đổi song phương: Ta đã tiến hành giao thiệp nhiều lần với Trung Quốc ở nhiều cấp, kể cả cấp cao nhất, cụ thể trong cuộc gặp với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh (tháng 4/2015) và tại Hà Nội (tháng 11/2015). Trong năm 2015, Bộ Ngoại giao đã có 22 lần tiếp xúc, trao đổi với đại diện Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, trong đó có 07 lần giao thiệp và trao 09 công hàm phản đối. Trong 6 tháng đầu năm 2016, Lãnh đạo ta đã có 06 cuộc gặp với phía Trung Quốc bày tỏ quan điểm của Việt Nam trước những diễn biến gần đây tại Biển Đông và phản đối các hoạt động của Trung Quốc (02 cuộc gặp của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, 01 cuộc gặp của Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Hoàng Bình Quân, 03 cuộc gặp cấp Thứ trưởng Ngoại giao); ngoài ra ta đã tiến hành giao thiệp 16 lần, trao 12 công hàm phản đối. Từ năm 2015 đến nay, ta tiếp tục duy trì, thúc đẩy các cơ chế đàm phán với Trung Quốc để từng bước giải quyết tranh chấp, thu hẹp bất đồng, thực hiện “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, cụ thể đã tiến hành 07 cuộc đàm phán, bao gồm: 03 cuộc gặp của hai Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ và 04 vòng đàm phán của các Nhóm Công tác. Trong các cuộc đàm phán, ta thường xuyên yêu cầu Trung Quốc xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh trên biển, bao gồm vấn đề nghề cá, đảm bảo các hoạt động đánh bắt hải sản của ngư dân. Ngoài ra, trong tháng 12/2015, ta và Trung Quốc đã triển khai khảo sát chung tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Như vậy, đến nay, thông qua hàng loạt kênh đối thoại với phía Trung Quốc, lập trường, quan điểm của ta về vấn đề Biển Đông nói chung và đối với hoạt động xây dựng, lấn biển, quân sự hóa của Trung Quốc gần đây nói riêng đã được khẳng định một cách rõ ràng, nhất quán, thường xuyên và liên tục. Đồng thời, ta đã thể hiện rõ nỗ lực xây dựng lòng tin, thúc đẩy hợp tác với phía Trung Quốc trong quá trình tìm kiếm giải pháp cho vấn đề Biển Đông.
+ Tại các diễn đàn đa phương ở cấp quốc tế và khu vực:Từ đầu năm 2016 đến nay, ta đã tích cực tham gia và chủ động phát biểu vận động dư luận quốc tế về Biển Đông tại các Hội nghị, Diễn đàn, Đối thoại hoặc trong tiếp xúc song phương bên lề các Hội nghị như: Cấp Cao ASEAN – Mỹ (2/2016), Cấp cao ASEAN – Nga (5/2016), 08 cuộc họp ASEAN – Trung Quốc, Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng (5/2016), Hội nghị hẹp các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (2/2016), Cuộc họp SOM ASEAN (3/2016), Đối thoại chiến lược Việt Nam – Anh lần thứ 5 (3/2016), Hội nghị thượng đỉnh An ninh hạt nhân tại Mỹ (31/3-01/4/2016). Tại các diễn đàn trên, ta đã chủ động nêu vấn đề Biển Đông; nhấn mạnh nguy cơ quân sự hóa và nguyên tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, chấm dứt quân sự hóa, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; đề nghị các nước ủng hộ lập trường của ta; tích cực tham gia xây dựng văn kiện Tuyên bố của các Hội nghị này, đưa được những nội dung ta quan tâm về vấn đề Biển Đông vào các văn kiện trên. Đặc biệt, tại Liên hợp quốc, ta đã 06 lần lưu hành công hàm khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; bảo vệ chủ quyền và lợi ích hợp pháp của ta ở Biển Đông; đáp trả lại các vu cáo của Trung Quốc trong các công hàm mà Phái đoàn nước này lưu hành tại Liên hợp quốc liên quan đến vụ kiện Trọng tài Biển Đông và chủ quyền của ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bên cạnh đó, ta đã và đang tích cực, chủ động cùng các nước ASEAN tham vấn, trao đổi nhằm thúc đẩy việc đàm phán về xây dựng COC giữa ASEAN và Trung Quốc. Từ đầu năm 2016 đến nay, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao đã phát biểu, trả lời báo chí 22 lần trước các hành động xâm phạm chủ quyền của ta ở Biển Đông. Thông qua những hoạt động trên, ta đã nêu rõ mọi hành động của Trung Quốc và các bên nước ngoài tiến hành ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều phi pháp và vô giá trị.
- Về biện pháp đấu tranh pháp lý, Đảng và Nhà nước đã tiến hành nhiều bước đi, biện pháp pháp lý phù hợp để bảo vệ những lợi ích chính đáng của ta ở Biển Đông. Tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, ta đã nhiều lần khẳng định Chính phủ Việt Nam bảo lưu việc sử dụng mọi biện pháp hòa bình phù hợp được luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc cho phép (bao gồm việc sử dụng các cơ chế tài phán quốc tế như Tòa án, Trọng tài) để bảo vệ các quyền và lợi ích của ta ở Biển Đông. Dưới sự chỉ đạo sát sao của Bộ Chính trị, ta đang tích cực xây dựng và hoàn thiện hồ sơ pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích của ta khi cần thiết. Riêng đối với vụ kiện trọng tài Biển Đông, ngay từ khi Phi-líp-pin khởi kiện, ta đã theo dõi sát mọi diễn biến và tiến trình của vụ kiện để có các biện pháp phù hợp bảo vệ quyền và lợi ích pháp lý của ta ở Biển Đông, bao gồm:
+ Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao ta đã nhiều lần phát biểu công khai thể hiện lập trường, quan điểm của Việt Nam đối với vụ kiện.
+ Ngày 05/12/2014, Bộ Ngoại giao đã gửi “Tuyên bố thể hiện quan điểm của Việt Nam đối với vụ kiện” lên Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) để bảo vệ các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam. Tuyên bố trên đã góp phần thúc đẩy việc Tòa Trọng tài ra phán quyết đầu tiên của vụ kiện (ngày 29/10/2015) một cách công bằng và khách quan.
+ Ta đã cử đoàn quan sát viên tới tham dự cả hai phiên tranh tụng của vụ kiện (tháng 7/2015 và tháng 11/2015) để theo dõi tiến trình vụ kiện và khẳng định sự ủng hộ của ta đối với việc sử dụng các biện pháp pháp lý để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.
+ Ta đã kịp thời gửi Công hàm phản đối Công hàm CML/1/2016 ngày 08/01/2016 của Phái đoàn Trung Quốc tại Liên hợp quốc liên quan đến vụ kiện Trọng tài Biển Đông, chủ quyền của ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và đề nghị Liên hợp quốc lưu hành Công hàm này.
- Về biện pháp đấu tranh dư luận, công tác thông tin, tuyên truyền, đấu tranh dư luận đã được tiến hành thường xuyên, liên tục, có sự kết hợp hiệu quả với đấu tranh chính trị - ngoại giao và đấu tranh trên thực địa, phản ứng kịp thời trước những diễn biến phức tạp, khó lường trên thực địa. Những hoạt động, phát biểu của Lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Chính phủ tại các diễn đàn song phương và đa phương về vấn đề Biển Đông, những diễn biến của các vòng đàm phán với Trung Quốc đều được thông tin đầy đủ, kịp thời qua các phương tiện thông tin đại chúng đến nhân dân ta ở trong và ngoài nước cũng như cộng đồng quốc tế. Bên cạnh hoạt động thông tin tuyên truyền của các bộ, ban, ngành, địa phương và các cơ quan báo chí Việt Nam, chúng ta đã tạo điều kiện để các đoàn phóng viên báo chí nước ngoài tiếp cận và đưa tin một cách chân thực về tình hình Biển Đông để dư luận quốc tế có thông tin chính xác, khách quan và đa chiều về vấn đề này.
Trong thời gian qua, với những nỗ lực nêu trên của cả hệ thống chính trị, bằng những biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế, chúng ta đã kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc; duy trì ổn định tình hình an ninh trật tự trên các vùng biển; tranh thủ được sự quan tâm, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với lập trường chính nghĩa của ta trong vấn đề Biển Đông. Đến nay, nhiều nước ASEAN có tiếng nói mạnh mẽ hơn về vấn đề Biển Đông (trừ 1-2 nước). Cộng đồng quốc tế đã quan tâm và công khai mạnh hơn về vấn đề này, cụ thể: (i) G7 đã liên tiếp ra Tuyên bố (cấp Ngoại trưởng và cấp cao) một cách mạnh mẽ và cụ thể hơn nhằm vào Trung Quốc; (ii) EU ra Tuyên bố ở cấp cao với nội dung hết sức mạnh mẽ về Biển Đông, lần đầu tiên công khai yêu cầu làm rõ cơ sở của các yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông phù hợp với UNCLOS 1982 và giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục trọng tài; (iii) Nhật Bản tăng cường các hoạt động ngoại giao – chính trị để kêu gọi Trung Quốc tôn trọng luật pháp quốc tế, tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng tài, vận động tích cực để ASEAN có lập trường chung về vụ kiện, tăng cường nâng cao năng lực trên biển cho các nước ASEAN; (iv) Úc lần đầu tiên nêu đích danh Trung Quốc tiến hành các hoạt động cải tạo, tôn tạo đất với tốc độ và quy mô chưa từng có trong Sách trắng Quốc phòng ra ngày 25/2/2016; (v) Ấn Độ khẳng định tăng cường hợp tác với ASEAN, Mỹ, Nhật Bản về an ninh hàng hải; (vi) Một số nước khác (Ai-len, Thụy Sỹ, các nước Bắc Âu, Tây Ban Nha, I-ta-li-a) quan tâm hơn và chủ động gặp ta tìm hiểu về vấn đề Biển Đông.
Như vậy, các biện pháp đấu tranh thời gian qua của ta là cần thiết, phù hợp và sẽ tiếp tục được đẩy mạnh hơn nữa nhằm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích của ta tại Biển Đông; đồng thời, duy trì môi trường an ninh, hòa bình, ổn định phục vụ mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước; giữ gìn quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước. Bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh thế giới và khu vực liên tục có những diễn biến mau chóng và khó lường là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và hết sức lâu dài, đòi hỏi sự đồng lòng nhất trí và sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân.
Bộ Ngoại giao xin trân trọng cảm ơn cử tri cả nước đã quan tâm, ủng hộ và đồng hành trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Bộ Ngoại giao mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm và phối hợp trong công tác lâu dài và phức tạp này, đặc biệt là việc thông tin, hiến tặng Nhà nước những tài liệu, tư liệu liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua đường dây nóng 1800 1771.