2. Ủy ban Tư pháp

24/05/2017 14:19

Ủy ban Tư pháp

 

1. Cử tri tỉnh Đăk Lắc kiến nghị: Đề nghị sớm xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự gây ra, xác định rõ trách nhiệm của người có thẩm quyền có lỗi gây ra oan sai, đồng thời quy định mức bồi thường thiệt hại hợp lý, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người bị oan, phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế ở nước ta hiện nay.

Trả lời: (Tại Công văn số 460 /UBTP14 ngày 17/2/2017)

Ủy ban tư pháp nhận thấy, theo Báo cáo tổng kết thực tiễn 06 năm thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì cho thấy có nhiều hạn chế, bất cập trong quy định của luật, nhất là những quy định liên quan đến việc xác định thiệt hại được bồi thường, căn cứ xác định mức bồi thường, thủ tục bồi thường, trách nhiệm của người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật dẫn đến oan, sai… Vì vậy, thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 của Quốc hội, tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XIV, Chính phủ đã trình Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi), trong đó đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định để làm rõ hơn về các thiệt hại được bồi thường, căn cứ xác định mức bồi thường, đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết yêu cầu bồi thường, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị oan, đồng thời, sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng tăng trách nhiệm của người có thẩm quyền có hành vi trái pháp luật gây ra oan, sai, góp phần nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự nói riêng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung. Dự kiến tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XIV sẽ xem xét, thông qua dự án luật này.

Tiếp thu kiến nghị của cử tri, trong quá trình tham gia chỉnh lý dự thảo luật, Ủy ban tư pháp sẽ nghiên cứu, phối hợp với cơ quan hữu quan chỉnh lý, hoàn thiện quy định về xác định mức bồi thường và trách nhiệm của người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự có hành vi trái pháp luật gây ra oan, sai, cũng như khắc phục các quy định khác còn bất cập, không phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính minh bạch và khả thi.

2. Cử tri tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Đà Nẵng, Bắc Kạn, Quảng Trị kiến nghị: Các ý kiến có nội dung liên quan đến các quy định của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13

Trả lời: (Tại Công văn số 460 /UBTP14 ngày 17/2/2017)

a) Về ý kiến đề nghị đẩy nhanh tiến độ sửa đổi Bộ luật hình sự số  100/2015/QH13 và nghiêm túc kiểm điểm trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức có liên quan để xảy ra sai sót trên

Ủy ban tư pháp xin trả lời như sau:

Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (BLHS năm 2015) được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thi hành Bộ luật, qua phản ánh của cử tri và báo chí về một số sai sót của Bộ luật, UBTVQH đã chỉ đạo Uỷ ban tư pháp của Quốc hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan khẩn trương rà soát tổng thể  BLHS năm 2015 để phát hiện những sai sót và đề xuất phương án khắc phục, bảo đảm áp dụng thống nhất. Kết quả rà soát cho thấy, BLHS năm 2015 không sai về quan điểm, chủ trương lớn đã được UBTVQH, Quốc hội thảo luận, Bộ Chính trị cho ý kiến chỉ đạo, nhưng có sai sót tại một số điều luật, ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật và xử lý tội phạm, cần phải sửa đổi mới thi hành được. Ngày 29/6/2016, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành của BLHS năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, đồng thời, bổ sung dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016.

Tại Kỳ họp thứ hai (tháng 10-11/2016), Chính phủ đã trình Quốc hội dự án Luật nêu trên, theo đó, Chính phủ đề xuất Quốc hội sửa đổi, bổ sung nội dung liên quan đến 141 điều luật của BLHS năm 2015. Việc phải sửa đổi, bổ sung số lượng lớn như vậy là do một số trường hợp, cùng một lỗi kỹ thuật nhưng để bảo đảm thống nhất thì phải sửa các điều liên quan, ví dụ: các tội danh có quy định về nguyên tắc tính tỷ lệ tổn thương cơ thể. Bên cạnh đó, qua rà soát, nhiều bộ, ngành như: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,… đã kiến nghị sửa đổi một số điều luật khác nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và bảo đảm tính khả thi của Bộ luật. Ngoài ra, sau khi BLHS năm 2015 được ban hành, qua thực tiễn đấu tranh tội phạm về ma túy xuất hiện một số loại ma túy mới như chất XLR-11 (có trong cỏ Mỹ) hoặc lá cây Khat (có chứa chất ma túy Cathinone) nhưng chưa được quy định trong BLHS năm 2015 nên không có căn cứ để xử lý. Mặt khác, giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn có nhận thức khác nhau về việc xác định hàm lượng chất ma túy để quy ra khối lượng hoặc thể tích chất ma túy nên đang gặp khó khăn trong quá trình xử lý loại tội phạm này, do đó cần được xem xét, bổ sung nội dung này trong BLHS, làm cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thống nhất. 

Qua thảo luận, các vị Đại biểu Quốc hội đã cơ bản tán thành với phạm vi sửa đổi là nhằm khắc phục những sai sót rõ ràng về mặt kỹ thuật, kết hợp xử lý những quy định chưa hợp lý hoặc có khả năng khó áp dụng trên thực tế nhằm nhận thức thống nhất BLHS năm 2015. Việc sửa đổi không làm ảnh hưởng đến những chính sách hình sự lớn đã được Quốc hội khóa XIII thông qua và không dẫn đến phải sửa đổi các đạo luật đang được lùi hiệu lực thi hành cùng với BLHS năm 2015. Đồng thời, với tính phức tạp của dự án Luật và các yêu cầu đặt ra như đã nêu trên, để bảo đảm chất lượng của dự thảo Luật, tránh việc sau khi sửa đổi, bổ sung lại phát hiện những sai sót, Quốc hội đã nhất trí chưa thông qua dự án Luật tại kỳ họp thứ 2 mà giao UBTVQH chỉ đạo các cơ quan phối hợp chặt chẽ, rà soát kỹ lưỡng từng điều khoản của dự thảo Luật, tổ chức lấy ý kiến rộng rãi để tiếp tục hoàn thiện và dự kiến trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 3 (tháng 5/2017).

Cùng với việc tiến hành chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 một cách thận trọng, bảo đảm chất lượng, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng đoàn Quốc hội đã tiến hành kiểm điểm nghiêm túc trách nhiệm của UBTVQH, Thường trực Ủy ban Tư pháp, Thường trực Ủy ban pháp luật và các cá nhân có liên quan trong việc để xảy ra sai sót trên, qua đó, đúc rút bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật nói chung, ngăn ngừa không để xảy ra sự cố đáng tiếc như vụ việc trên.

b) Về ý kiến đề nghị UBTVQH giải thích quy định của Luật thương mại và Luật đầu tư về hàng hóa cấm kinh doanh liên quan đến mặt hàng pháo nổ để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thống nhất

Ủy ban tư pháp xin trả lời như sau:

Những năm qua, tình hình buôn bán, vận chuyển, đốt pháo nổ ở nước ta có chiều hướng gia tăng, nhất là dịp trước và trong Tết nguyên đán. Tuy nhiên, việc xử lý các hành vi này gặp nhiều khó khăn do các cơ quan chức năng cho rằng có sự mâu thuẫn giữa quy định của Luật đầu tư và Luật thương mại về mặt hàng pháo nổ. Cụ thể: theo quy định của Luật đầu tư năm 2014, “pháo các loại” – gồm cả pháo nổ - thuộc diện  kinh doanh có điều kiện, trong khi đó, Luật thương mại quy định giao Chính phủ quy định cụ thể hàng hóa cấm kinh doanh, hàng hóa kinh doanh có điều kiện. Theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật thương mại và Nghị định số 43/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2006/NĐ-CP, thì “pháo các loại” thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh. Để có cơ sở để giải quyết các vụ án có liên quan, nhiều ý kiến đề nghị UBTVQH giải thích cụ thể quy định của các luật này.

Về vấn đề nêu trên, UBTVQH đã chỉ đạo giao Ủy ban kinh tế chủ trì, phối hợp với các cơ quan rà soát lại các Nghị định của Chính phủ để sửa đổi, bổ sung kịp thời, bảo đảm sự thống nhất. Căn cứ quy định của pháp luật hiện hành và một số quy định mới được sửa đổi, việc xử lý hành vi buôn bán, vận chuyển pháo nổ cơ bản không vướng mắc và không cần thiết phải giải thích luật. Cụ thể: theo quy định của Nghị định số 36/2009/NĐ-CP ngày 15/4/2009 của Chính phủ thì Nhà nước cấm sản xuất, mua, bán, nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép các loại pháo nổ, thuốc pháo; các loại pháo hoa, thuốc pháo hoa trừ pháo hoa do Bộ Quốc phòng sản xuất, nhập khẩu để tổ chức bắn pháo hoa đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép và pháo hoa do tổ chức, cá nhân nước ngoài được phép mang vào Việt Nam để dự thi bắn pháo hoa. Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục II của Luật Đầu tư, theo đó đối với pháo các loại thì đã bỏ pháo nổ ra khỏi mặt hàng đầu tư kinh doanh có điều kiện. Như vậy, đối chiếu với các quy định, pháo nổ sẽ thuộc diện hàng cấm, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan hữu quan có đủ cơ sở để xử lý về hành chính và hình sự.

Để góp phần hoàn thiện các công cụ xử lý hành vi buôn bán, vận chuyển pháo nổ, đồng thời bảo đảm sự thống nhất giữa BLHS và các luật chuyên ngành, trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 cũng đã dự kiến sửa đổi, bổ sung Điều 190 và Điều 191 BLHS năm 2015, quy định "pháo nổ" là hàng cấm sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển.

c) Về ý kiến đề nghị quy định bổ sung hình phạt tử hình đối với đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội giết người

Ủy ban tư pháp xin trả lời như sau:

Chủ trương của Đảng, Nhà nước ta là “hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” và điều này đã được khẳng định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đồng thời, với truyền thống nhân đạo của Nhà nước ta, nguyên tắc xử lý hình sự đối với người chưa thành niên đã được thể hiện xuyên suốt trong chính sách hình sự của nước ta từ trước đến nay là “xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm”.

 Quá trình xây dựng BLHS năm 2015, vấn đề tăng hình phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đã được Quốc hội thảo luận kỹ. Trên cơ sở cân nhắc các ý kiến, nhất là là kết quả lấy ý kiến Nhân dân, Quốc hội đã thống nhất giữ quy định về độ tuổi và mức hình phạt cao nhất mà BLHS năm 1999 quy định đối với người dưới 18 tuổi. Điều này cũng phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết. Để giải quyết tình trạng tội phạm trẻ em gia tăng đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ về kinh tế, xã hội, với sự tham gia của cả hệ thống chính trị, trong đó, phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội phải được coi là biện pháp chủ yếu.

d) Về ý kiến đề nghị Quốc hội có biện pháp xử lý nghiêm minh hơn đối với tội phạm tham nhũng có số tiền lớn; đề nghị không bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm về tham nhũng nhằm đấu tranh hiệu quả với “quốc nạn tham nhũng” và xem xét lại quy định người phạm tội tham nhũng có thể nộp tiền thay án tử hình

Ủy ban tư pháp xin trả lời như sau:

Trong quá trình xây dựng BLHS năm 2015, trên cơ sở tiếp thu ý kiến Nhân dân, Quốc hội đã quyết định giữ nguyên hình phạt tử hình ở các tội "Tham ô" và "Nhận hối lộ" nhằm răn đe và xử lý nghiêm đối với tội phạm tham nhũng.

Khoản 3 Điều 40 BLHS năm 2015 quy định không thi hành hình phạt tử hình đối với người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Quy định này thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội đã biết ăn năn hối cải, tích cực khắc phục hậu quả mà mình đã gây ra. Đối với người phạm các tội mang tính vụ lợi thì yếu tố khắc phục hậu quả, thu hồi tài sản chiếm đoạt cần được xem là một tình tiết đặc biệt khi thi hành án. Tuy nhiên, để bảo đảm sự công bằng, người phạm tội phải hội đủ nhiều yếu tố mới có thể được xem xét không thi hành án tử hình. Bên cạnh việc nộp lại tài sản phải hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì mới được xem xét không thi hành án. Quy định tại khoản 3 Điều 40 BLHS năm 2015 nhằm mở ra một cơ hội sống cho người bị kết án tử hình nếu họ thỏa mãn các điều kiện đặt ra nhưng họ vẫn phải thi hành hình phạt tù chung thân và dù có tích cực cải tạo thì thời gian thực tế chấp hành án phạt tù của họ tối thiểu cũng là 30 năm.

đ) Về ý kiến đề nghị xem xét, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung những quy định về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhằm hạn chế lỗ hổng trong luật

Ủy ban tư pháp xin trả lời như sau:

Quá trình xây dựng BLHS năm 2015, Quốc hội đã quán triệt đầy đủ quan điểm chỉ đạo trong việc hoàn thiện chính sách hình sự thông qua việc quy định cụ thể, chi tiết về những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đối với các tội danh cụ thể, để thực hiện Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, BLHS năm 2015 đã luật hóa các quy định, hướng dẫn về các tình tiết định tính, định lượng vào các điều, khoản cụ thể.

Thực tiễn cho thấy, để áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 về các tình tiết định tính, định lượng, các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan hữu quan đã phải ban hành nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết, trong đó, nhiều tình tiết vẫn cần phải thực hiện giám định, định giá làm cơ sở định tội và định khung hình phạt. Điều này dẫn đến sự thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật, tùy tiện, không phù hợp với tinh thần Hiến pháp 2013. Do đó, qua tiếp thu ý kiến Nhân dân, BLHS năm 2015 đã được xây dựng theo hướng cụ thể hóa tối đa các tình tiết định tính như: “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”; “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”; “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi bất chính rất lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”; lượng hóa về giá trị vật chất gây thiệt hại; xác định cụ thể thiệt hại về tính mạng, tỷ lệ tổn thương cơ thể; quy định những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội... với tổng số trên 200 điều luật.

Tiếp thu ý kiến cử tri, để khắc phục những sai sót của BLHS năm 2015, trong quá trình giúp UBTVQH tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13, Ủy ban tư pháp sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan rà soát kỹ, xử lý những quy định chưa hợp lý hoặc có khả năng khó áp dụng trên thực tế, tránh việc chồng chéo định lượng hoặc bỏ sót định lượng mà BLHS năm 2015 gặp phải.

e) Về ý kiến đề nghị Quốc hội nghiên cứu xử lý hình sự, tăng hình phạt tử hình đối với những tội phạm nguy hiểm đến sản xuất, đời sống và sức khỏe người dân

Ủy ban tư pháp xin trả lời như sau:

Nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, đồng thời, cụ thể hóa và bảo đảm thực thi các quyền, nghĩa vụ theo Hiến pháp 2013 như: quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (Điều 14 Hiến pháp ); quyền được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm (Điều 20 Hiến pháp)... BLHS năm 2015 đã quán triệt yêu cầu về đề cao tính phòng ngừa và nghiêm trị kẻ phạm tội đối với các tội phạm phát sinh trong quá trình trực tiếp sản xuất, lưu thông, cung ứng hàng hóa, dịch vụ nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của toàn xã hội về ăn, mặc, tiêu dùng cũng như tái sản xuất. Đây là những trường hợp mà hành vi phạm tội có khả năng ảnh hưởng trực tiếp tới tính mạng, sức khỏe của con người, đặc biệt là hành vi về sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, hàng giả; hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi…Do đó, trong BLHS năm 2015, chính sách xử lý hình sự có sự phân hóa rất cụ thể, ngoài việc bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân, bảo đảm xử lý nghiêm minh và đồng bộ mọi hành vi phạm tội thì về hình phạt, đối với các tội mà hành vi phạm tội có khả năng trực tiếp gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của con người thì hình phạt chính là phạt tù, hình phạt tiền chỉ là hình phạt bổ sung. Đồng thời, giữ hình phạt tử hình ở Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, do tính chất đặc biệt nguy hiểm và khả năng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con người. Đối với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm hình phạt cao nhất là tù chung thân, bởi qua thực tiễn, các mặt hàng trên chủ yếu là hàng kém chất lượng, giả nhãn mác, khả năng đe dọa trực tiếp đến tính mạng ít hơn so với làm giả thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; đối với các tội về sản xuất, buôn bán hàng cấm, sản xuất, buôn bán hàng giả vẫn giữ hình phạt cao nhất như hiện hành; riêng Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi, để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, xử lý loại tội phạm này, hình phạt tù cao nhất được nâng lên 20 năm (hình phạt cao nhất của tội này theo quy định của BLHS năm 1999 chỉ là 15 năm tù).

Hiện nay, Quốc hội đang giao các cơ quan có liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến Đại biểu Quốc hội nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định này trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13. Chính sách hình sự chung của BLHS năm 2015 là hạn chế áp dụng hình phạt tử hình đối với nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Việc áp dụng hình phạt tử hình đối với tội danh cụ thể nào đã được Quốc hội khóa XIII cân nhắc kỹ và cũng đã được Bộ Chính trị cho ý kiến, do đó chưa xem xét lại chính sách hình sự đối với hình phạt tử hình trong lần sửa đổi này.

g) Về ý kiến đề nghị Quốc hội có ý kiến về đường lối xử lý các vụ án vận chuyển, buôn bán hàng cấm vì tội phạm này ngày càng gia tăng và manh động

Ủy ban tư pháp xin trả lời như sau:

Theo báo cáo của Chính phủ về tổng kết nhiệm kỳ công tác khóa XIII, Chính phủ cũng đã đánh giá công tác quản lý thị trường, giá cả, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả còn nhiều hạn chế. Đồng thời, Chính phủ cũng đã chỉ rõ nguyên nhân là do công tác tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu và còn nhiều hạn chế, nhất là trong việc thể chế hóa, tổ chức thực thi pháp luật, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương và công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện...

Qua giám sát công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XIV, Ủy ban tư pháp đã báo cáo Quốc hội cụ thể về những bất cập, yếu kém trong quản lý nhà nước cũng như xử lý vi phạm về sản xuất, buôn bán hàng cấm và tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Trên cơ sở đó, Ủy ban tư pháp đã đề xuất Quốc hội giao Chính phủ tiếp tục có những biện pháp nâng cao năng lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, có các giải pháp kịp thời khắc phục những sơ hở, thiếu sót; phòng ngừa, hạn chế nguyên nhân, điều kiện phát sinh và kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh đối với những vi phạm pháp luật, tội phạm trên các lĩnh vực này.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, để góp phần hoàn thiện công cụ đấu tranh với tình trạng sản xuất, buôn bán hàng cấm và tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 đang được hoàn thiện nhằm phù hợp hơn với các luật chuyên ngành và đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đặc biệt là việc cụ thể hóa về định lượng một số mặt hàng cấm phổ biến như: thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, pháo nổ trong Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190) và Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191).

3. Ý kiến đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)

Trả lời: (Tại Công văn số 460 /UBTP14 ngày 17/2/2017)

Dự án Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) dự kiến được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 2 (tháng 10/2016) và thông qua tại kỳ họp thứ 3 (tháng 5/2017). Nhưng tại thời điểm tháng 10/2016, Bộ Chính trị đang chỉ đạo việc tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” và cho đến thời điểm đó thì vẫn chưa có kết luận của Ban chấp hành Trung ương Đảng về Nghị quyết này để có những chỉ đạo, định hướng mới nhất cho việc sửa đổi Luật. Vì vậy, dự án Luật này đã được rút ra khỏi chương trình kỳ họp thứ 2 theo đề nghị của Chính phủ để có thêm thời gian tổng kết, nghiên cứu, hoàn thiện, bảo đảm chất lượng dự án và sẽ xem xét, bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh khi đủ điều kiện theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, trong quá trình thẩm tra, giúp UBTVQH tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi), Ủy ban tư pháp sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan nghiên cứu và sửa đổi theo hướng quy định chặt chẽ hơn các nội dung liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng, quy định các chế tài xử lý, quy định các biện pháp phòng ngừa tham nhũng có tính hiệu quả cao, tăng cường công tác giám sát ….để đáp ứng được mong muốn của người dân là hạn chế thấp nhất tình trạng tham nhũng xảy ra, hạn chế thất thoát ngân sách và tài sản nhà nước.

4. Ý kiến đề nghị Quốc hội, Chính phủ xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để góp phần phát triển kinh tế, quản lý tốt trật tự, an toàn xã hội

Trả lời: (Tại Công văn số 460 /UBTP14 ngày 17/2/2017)

Trong nhiệm kỳ Khóa XIII, ngoài việc sửa đổi Hiến pháp, Quốc hội, UBTVQH đã thông qua 95 luật, pháp lệnh; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 1.058 văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhìn chung, công tác xây dựng pháp luật đã có bước tiến mới, hệ thống pháp luật cơ bản được hoàn thiện, bám sát Nghị quyết của Đảng, phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phát triển và bảo vệ đất nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong nhiệm kỳ khóa XIV, Quốc hội sẽ tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng pháp luật nhằm cụ thể hóa Hiến pháp 2013 và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo các công cụ quản lý hiệu quả trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội.

5. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: đề nghị Quốc hội tăng cường giám sát các cơ quan chức năng xử lý đúng pháp luật, nghiêm minh các vụ án tham nhũng

Trả lời: (Tại Công văn số 460 /UBTP14 ngày 17/2/2017)

Trong thời gian gần đây xảy ra nhiều vụ án tham nhũng gây thiệt hại lớn về kinh tế cho đất nước và gây tâm lý bức xúc cho người dân. Điển hình như vụ Trịnh Xuân Thanh, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang; vụ án tham nhũng tại công ty in, thương mại và dịch vụ Agribank; vụ án tham nhũng tại Tổng công ty xây dựng đường thủy Việt Nam, vụ án Huỳnh Thị Huyền Như (hơn 6 nghìn tỷ đồng), vụ án Phạm Công Danh (hơn 9 nghìn tỷ đồng)… Bên cạnh đó, cử tri còn phản ánh những vấn đề xã hội quan tâm, nhân dân đang bức xúc về tình trạng tham nhũng ở nước ta ngày càng nghiêm trọng, xảy ra ở các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, xuất hiện nhiều trong các cơ quan giải quyết những công việc liên quan trực tiếp đến lợi ích hàng ngày của nhân dân, cả trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây ảnh hưởng lớn về chính trị, kinh tế, xã hội, là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã ban hành nhiều chính sách, áp dụng nhiều giải pháp để đấu tranh với vấn nạn này. Trong thời gian qua, nhiều vụ án tham nhũng lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế đã được các cơ quan chức năng phát hiện, đã và đang được xử lý nghiêm minh. Tuy nhiên, tình hình tham nhũng vẫn đang diễn biến phức tạp, xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực với tính chất, mức độ nghiêm trọng và chưa bị đẩy lùi. Tiếp thu ý kiến của cử tri, thời gian tới Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội nói chung và Ủy ban tư pháp nói riêng sẽ tiếp tục tăng cường triển khai nhiều phương thức giám sát việc phòng, chống tham nhũng như tăng cường chất vấn tại Quốc hội, UBTVQH; giải trình tại Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội đối với lĩnh vực mà mình phụ trách trong công tác phòng, chống tham nhũng; tổ chức Đoàn giám sát tại các địa phương để tiến hành giám sát việc tổ chức thực hiện Luật và chấp hành pháp luật trong phòng, chống tham nhũng, kể cả giám sát việc xử lý đối với một số vụ án tham nhũng cụ thể; đặc biệt, theo dõi, giám sát việc các cơ quan chức năng tiến hành xét xử các đại án tham nhũng đã được cử tri nêu; hoàn thiện cơ chế để tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng… Trên cơ sở đó có đánh giá, làm rõ trách nhiệm của từng cá nhân, các cấp, các ngành, các địa phương đối với các hạn chế, yếu kém trong công tác phòng, chống tham nhũng, nhằm tạo sự chuyển biến tích cực để đạt được mục tiêu “từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng”.

6. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Đề nghị Quốc hội tăng cường giám sát để bảo đảm việc xét xử được công bằng, đúng pháp luật, hạn chế oan sai, đồng thời cử tri yêu cầu ngoài trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, phải xác định trách nhiệm bồi hoàn của những người trực tiếp tham gia điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến oan, sai.

Trả lời: (Tại Công văn số 460 /UBTP14 ngày 17/2/2017)

Thực hiện quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, hàng năm Ủy ban tư pháp của Quốc hội đã chủ trì phối hợp với Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội tiến hành hoạt động giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án các cấp) và giám sát việc bồi thường cho người bị oan trong tố tụng hình sự theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và các văn bản luật khác có liên quan. Qua hoạt động giám sát, Ủy ban tư pháp đã kiến nghị các cơ quan tư pháp có liên quan thực hiện nhiều biện pháp, khắc phục các hạn chế, thiếu sót, nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, hạn chế để xảy ra oan, sai; tăng cường giải quyết các đơn khiếu nại kêu oan. Nhiều vụ án oan đã được làm rõ, người bị oan đã được bồi thường theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, hoạt động giám sát của Ủy ban tư pháp mặc dù đã rất cố gắng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được hết các yêu cầu của cử tri. Tiếp thu ý kiến của cử tri, Ủy ban tư pháp sẽ tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan để giám sát chặt chẽ hơn nữa việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp, góp phần bảo đảm việc giải quyết vụ án công bằng, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc điều tra, truy tố, xét xử oan, sai; giám sát quá trình bồi thường cho người bị oan của cơ quan tiến hành tố tụng và xác định rõ trách nhiệm cá nhân của những người đã trực tiếp tiến hành tố tụng để xảy ra oan nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

7. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Đề nghị Quốc hội tăng biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án để đảm bảo việc giải quyết các loại vụ án đúng hạn luật định và những nhiệm vụ mới được giao theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

Trả lời: (Tại Công văn số 460 /UBTP14 ngày 17/2/2017)

Ủy ban tư pháp nhận thấy, thời gian qua, Quốc hội, UBTVQH luôn quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất cho Tòa án nhân dân các cấp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, thẩm quyền theo quy định của Hiến pháp 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, và các luật, bộ luật về tư pháp (Bộ luật dân sự năm 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015, Luật đất đai năm 2013…) mới được ban hành. Để giải quyết yêu cầu trước mắt về biên chế Thẩm phán Tòa án nhân dân, ngày 01/7/2016, UBTVQH đã ban hành Nghị quyết số 1278/NQ-UBTVQH13 giao, bổ sung số lượng Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp cho Tòa án các cấp. Thực hiện Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị, UBTVQH đã yêu cầu Tòa án nhân dân tối cao tổng kết việc thực hiện các Nghị quyết của UBTVQH về biên chế của Tòa án nhân dân các cấp và hoàn thiện Đề án vị trí việc làm, Đề án biên chế của ngành Tòa án trình UBTVQH xem xét quyết định số lượng biên chế hợp lý cho ngành Tòa án đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

8. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Đề nghị Quốc hội sớm thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)

Trả lời: (Tại Công văn số 565 /UBTP14 ngày 13/4/2017)

- Về việc thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13:

Về nội dung này, Ủy ban tư pháp đã trả lời tại Công văn số 460/UBTP14 ngày 17/02/2017. Hiện nay, Ủy ban thường vụ Quốc hội đang chỉ đạo Thường trực Ủy ban tư pháp phối hợp với Bộ Tư pháp, Thường trực Ủy ban pháp luật, các cơ quan, tổ chức có liên quan tổ chức việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và đang gửi xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội để tiếp tục hoàn thiện và dự kiến trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 3 (tháng 5/2017).

- Về việc thông qua Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi):

Về nội dung này, Ủy ban tư pháp đã trả lời tại Công văn số 460/UBTP14 ngày 17/02/2014, theo đó dự án Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) dự kiến được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ hai (tháng 10/2016) và thông qua tại kỳ họp thứ 3 (tháng 5/2017), nhưng sau đó Chính phủ đã đề nghị rút ra khỏi chương trình kỳ họp để có thêm thời gian tổng kết, nghiên cứu, hoàn thiện, bảo đảm chất lượng dự án và sẽ xem xét, bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh khi đủ điều kiện theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Đến nay, theo Tờ trình số 78/TTr-CP ngày 10/3/2017 về đề nghị Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018; điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017 thì Chính phủ đề nghị trình dự án Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) để Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ tư (tháng 10/2017) và thông qua tại Kỳ họp thứ năm (tháng 5/2018). Thường trực Ủy ban tư pháp tán thành với Tờ trình của Chính phủ.

9. Cử tri các tỉnh Lào Cai , Bà Rịa – Vũng Tàu kiến nghị: Đề nghị cho biết thời điểm triển khai thực hiện ghi âm, ghi hình việc hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Trả lời: (Tại Công văn số 565 /UBTP14 ngày 13/4/2017)

Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 được Quốc hội khóa XIII thông qua và quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Theo Nghị quyết số 110/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng hình sự thì Quốc hội quyết định:

Giao Chính phủ đầu tư kinh phí để bảo đảm việc thực hiện các quy định về chỉ định người bào chữa, ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can, sao chép, số hóa tài liệu trong hồ sơ vụ án hình sự, giám định tư pháp và hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Giao Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Giao Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Nội vụ xây dựng đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Giao Bộ trưởng Bộ Công an quyết định cụ thể nơi có điều kiện để thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hoạt động hỏi cung bị can kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Chậm nhất đến ngày 01 tháng 01 năm 2019 thì thực hiện thống nhất việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trên phạm vi toàn quốc.

Tuy nhiên, do phải khắc phục một số sai sót của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 nên ngày 29/6/2016, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 lùi hiệu lực thi hành Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 từ ngày 01/7/2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành, trừ các quy định của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có lợi cho người phạm tội. Áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự.

Đồng thời, Nghị quyết số 144/2016/QH13 của Quốc hội cũng quy định rõ: Các quy định khác tại Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự và tại Nghị quyết số 110/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật tố tụng hình sự có ghi thời điểm “ngày 01 tháng 7 năm 2016” được lùi đến thời điểm “ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành”.

Như vậy, căn cứ Nghị quyết của Quốc hội thì kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành, Bộ trưởng Bộ Công an có trách nhiệm quyết định cụ thể nơi có điều kiện để thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hoạt động hỏi cung bị can. Chậm nhất đến ngày 01/01/2019 thì việc ghi âm hoặc ghi hình việc hỏi cung bị can sẽ được thực hiện thống nhất trên phạm vu toàn quốc. Tuy nhiên, để chuẩn bị thực hiện quy định này, thời gian qua Chính phủ, Bộ Công an và các cơ quan có liên quan đã và đang tích cực xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện, chuẩn bị các điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất, con người..., đồng thời Bộ Công an đã tổ chức thí điểm thực hiện tại một số địa phương. Trong thời gian tới, Ủy ban tư pháp sẽ tiếp tục theo dõi, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy định này, bảo đảm việc ghi âm hoặc ghi hình việc hỏi cung bị can được triển khai thực hiện theo đúng tiến độ, yêu cầu theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết của Quốc hội.

10. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: đề nghị Quốc hội thành lập một cơ quan độc lập, hoạt động chuyên trách trong công tác phòng, chống tham nhũng

Trả lời: (Tại Công văn số 565 /UBTP14 ngày 13/4/2017)

Chức năng phòng, chống tham nhũng được Luật Phòng, chống tham nhũng giao cho các cơ quan có chức năng bảo vệ pháp luật, bao gồm các cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, tòa án, trong đó Thanh tra Chính phủ là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng. Trong thời gian vừa qua, các đơn vị chuyên trách chống tham nhũng tại Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục được củng cố, kiện toàn và có nhiều chuyển biến tích cực trong thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, về cơ bản thì với những quy định của pháp luật hiện hành, các cơ quan được giao nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng có đầy đủ thẩm quyền để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, để công tác phòng chống tham nhũng đạt hiệu quả cao, các cơ quan này cần nỗ lực hơn nữa, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan trong công tác phòng, chống tham nhũng; cơ quan giám sát cần tăng cường hoạt động giám sát để công tác phòng, chống mang lại hiệu quả cao hơn.

Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, Chính phủ đang khẩn trương xây dựng Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi). Vấn đề thành lập cơ quan độc lập, hoạt động chuyên trách trong công tác phòng, chống tham nhũng theo kiến nghị của cử tri sẽ được Chính phủ, các cơ quan hữu quan nghiên cứu để trình Quốc hội xem xét, quyết định.

11. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị Quốc hội tăng cường giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, hạn chế tối đa việc để xảy ra các trường hợp oan, sai

Trả lời: (Tại Công văn số 565 /UBTP14 ngày 13/4/2017)

Đây là nội dung kiến nghị đã được cử tri nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gửi đến Ủy ban tư pháp qua nhiều kỳ họp Quốc hội. Tại Công văn số 460/UBTP14 ngày 17/02/2017, Ủy ban tư pháp cũng mới trả lời về nội dung này. Theo đó, thời gian qua, Ủy ban tư pháp đã luôn quan tâm giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp nhưng nhìn chung hoạt động giám sát của Ủy ban vẫn chưa đáp ứng được hết các yêu cầu của cử tri. Vì vậy, tiếp thu ý kiến của cử tri, Ủy ban tư pháp sẽ tiếp tục tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan để giám sát chặt chẽ hơn nữa việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp, góp phần bảo đảm việc giải quyết vụ án công bằng, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc điều tra, truy tố, xét xử oan, sai.

12. Cử tri thành phố Đà Nẵng, An Giang, Cà Mau kiến nghị: Đề nghị Quốc hội tăng cường giám sát việc phòng, chống tham nhũng

Trả lời: (Tại Công văn số 565 /UBTP14 ngày 13/4/2017)

Tại công văn số 460/UBTP14 ngày 17/02/2017, Ủy ban tư pháp cũng đã trả lời về nội dung kiến nghị này. Theo đó, tiếp thu ý kiến của cử tri, thời gian tới Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội nói chung và Ủy ban tư pháp nói riêng sẽ tiếp tục tăng cường triển khai nhiều phương thức giám sát việc phòng, chống tham nhũng, hoàn thiện cơ chế để tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng… Trên cơ sở đó đánh giá, làm rõ trách nhiệm của từng cá nhân, các cấp, các ngành, các địa phương đối với các hạn chế, yếu kém trong công tác phòng, chống tham nhũng, nhằm tạo sự chuyển biến tích cực để đạt được mục tiêu “từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng”.