KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI THUỘC LĨNH VỰC BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

25/03/2019

Kiến nghị của cử tri gửi Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV thuộc lĩnh vực Bộ Thông tin và Truyền thông.

Câu 1. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri phản ánh: Cử tri tiếp tục kiến nghị tăng cường quản lý thông tin và truyền thông, các nội dung đưa lên các phương tiện thông tin cần phải chắt lọc tránh những vụ việc gây hiệu ứng tiêu cực, ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội và tư tưởng của người dân (chẳng hạn như thông tin về những vụ việc gây rối, trốn trại của học viên cai nghiện; việc biểu tình gây rối trật tự như vừa qua... rất dễ tạo ra hiệu ứng lây lan khó kiểm soát).

Trả lời: Tại Công văn số 253/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Trong thời gian gần đây, Bộ TTTT đã đặc biệt chú trọng và tăng cường công tác quản lý thông tin tuyên truyền. Tuy nhiên, thông tin ở nước ta được cung cấp bởi hai nguồn:

- Thứ nhất là các cơ quan báo chí trong nước; các tổ chức, đơn vị trong nước được cấp phép hoạt động.

- Thứ hai trên các nền tảng do nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam, điển hình là Facebook và Google.

Đối với nguồn thông tin thứ nhất, cơ bản tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, các nội dung đưa lên hệ thống các phương tiện thông tin hầu hết đã được chắt lọc, đúng định hướng khi đưa tin về các vụ việc gây rối, trốn trại của học viên cai nghiện hay việc tụ tập đông người, biểu tình gây rối trật tự như đại biểu nêu đều là các thông tin phản ánh về vụ việc, đồng thời có những thông tin, bài viết phê phán, chỉ rõ những âm mưu của các đối tượng, thế lực nòng cốt gây ra các vụ việc này.

Những thông tin về vụ việc gây hiệu ứng tiêu cực, ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội và tư tưởng của người dân như nhận định của đại biểu chủ yếu xuất hiện trên các trang của nước ngoài, do tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam. Trong năm 2018, đặc biệt là trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 7/2018, các thế lực thù địch, phản động đã lợi dụng triệt để phương thức thông tin trên mạng Internet, đặc biệt qua hai mạng xã hội do nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam là Facebook và Youtube để tuyên truyền, lôi kéo, kích động người dân biểu tình, tụ tập đông người, gây mất trật tự an toàn xã hội tại một số địa phương trong cả nước.

Nắm bắt được tình hình này, Bộ TTTT đã triển khai một số giải pháp như sau:

- Bám sát tình hình, kịp thời chỉ đạo, cung cấp, định hướng thông tin cho các cơ quan báo chí để các cơ quan báo chí thông tin chính xác, khách quan về vụ việc tạo tâm lý ổn định, đồng thuận trong nhân dân, giữ ổn định xã hội, tránh sơ xuất về nội dung, tránh kích động, gây phức tạp thêm tình hình; đồng thời, chủ động đấu tranh phê phán, phản bác thông tin, hành vi sai trái, vi phạm pháp luật của các phần tử xấu, thế lực thù địch.

- Chủ động đấu tranh, đàm phán với Google, Facebook, thường xuyên mời đại diện Google, Facebook sang làm việc nhằm thiết lập đầu mối, cơ chế phối hợp ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin, dịch vụ vi phạm pháp luật Việt Nam. Hiện nay, Bộ đã thiết lập được đầu mối, cơ chế phối hợp với Google, Facebook trong việc ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin, dịch vụ vi phạm pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, 2 đơn vị này cũng cam kết tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam.

- Để tăng cường công tác quản lý thông tin và truyền thông, nhất là đối với những vấn đề nhạy cảm, dễ gây phản ứng trong dư luận xã hội, trong thời gian tới Bộ TTTT sẽ:

+ Xây dựng kế hoạch đấu tranh ngăn chặn, thông tin xấu, độc phát tán, lan truyền trên internet, mạng xã hội, các phương tiện truyền thông trong đó quy định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của các đơn vị cũng như quy trình phối hợp, công tác phối hợp giữa các đơn vị có liên quan trong và ngoài Bộ.

+ Ngoài ra, Bộ tiếp tục trao đổi, làm việc, phối hợp với Google, Facebook ngăn chặn gỡ bỏ thông tin phản động, xấu độc, vi phạm pháp luật Việt Nam.

+ Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để định hướng dư luận, giúp nhân dân hiểu đúng về chủ trương của Đảng, Nhà nước bằng nhiều thể loại: tin, phóng sự, tọa đàm, chuyên mục…phát trên nhiều kênh sóng, bằng nhiều thứ tiếng; đồng thời, coi trọng đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, kích động trên các trang mạng xã hội.

+ Xây dựng kế hoạch và thực hiện chuỗi tin, bài tiêu điểm về đấu tranh phản bác luận điệu sai trái theo hướng vạch trần thủ đoạn, âm mưu kích động của các thế lực thù địch phản động và việc vu khống lực lượng chức năng; sự ăn năn hối hận của những người tham gia tụ tập gây rối, phá hoại tài sản nhà nước, chống người thi hành công vụ…

+ Thực hiện và phát sóng các phóng sự về mặt trái của mạng xã hội, phân tích về chế tài xử lý các hành vi kích động trên mạng xã hội; cảnh báo người dân tỉnh táo trước thông tin kích động trên mạng xã hội.

+ Kiểm soát chặt chẽ các bình luận; các phát ngôn của phóng viên, biên tập viên…trên mạng xã hội trong đó có việc phát ngôn những nội dung liên quan đến tôn giáo có quan điểm trái ngược với chỉ đạo, định hướng, thông tin mà cơ quan báo chí đã đăng tải.

Câu 2. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Cử tri phản ánh: Cử tri đề nghị cần kịp thời cung cấp thông tin về kết quả xử lý các vụ án tham nhũng để người dân được biết, thể hiện sự công khai, minh bạch của Đảng, Nhà nước trong xử lý tham nhũng và góp phần định hướng tốt cho dư luận xã hội.

Trả lời: Tại Công văn số 248/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội là nhiệm vụ của báo chí được quy định tại Điều 4, Luật Báo chí năm 2016. Đối với các vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố mà chưa được xét xử, các vụ việc tiêu cực hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật nhưng chưa có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, báo chí có quyền thông tin theo các nguồn tài liệu của mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin.

Thời gian qua, các cơ quan báo chí đã thực hiện đúng định hướng, thông tin kịp thời về các vụ án như: Vụ án đánh bạc nghìn tỷ qua mạng Internet; 2 vụ án kinh tế xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); vụ án “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, gây thất thoát hơn 15.000 tỷ đồng tại Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam...

Bộ Thông tin và Truyền thông thường xuyên phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo các cơ quan báo chí thông tin kịp thời, khách quan về các vụ án tham nhũng, các hiện tượng tiêu cực trong xã hội thể hiện sự công khai, minh bạch và khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực. 

Câu 3. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị:   Cử tri phản ánh: Cử tri tiếp tục kiến nghị Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan báo chí tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án Luật được Quốc hội trong quá trình xem xét, cho ý kiến, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Trả lời: Tại Công văn số 247/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, báo chí có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của Nhân dân...

Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương thường xuyên chỉ đạo, định hướng các cơ quan báo chí bám sát tôn chỉ, mục đích thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân, đặc biệt là các hoạt động của Quốc hội, công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Tại giao ban báo chí hằng tuần, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương thường xuyên tổ chức mời các Bộ, Ban, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cung cấp thông tin cho lãnh đạo các cơ quan báo chí để tổ chức thông tin, tuyên truyền chính xác, kịp thời những vấn đề dư luận xã hội quan tâm, đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân, góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Việc chỉ đạo, định hướng thông tin báo chí liên quan đến các dự án Luật đang được Quốc hội xem xét cần có sự phối hợp, cung cấp thông tin kịp thời, chính xác của cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan chức năng của Quốc hội để có các hình thức tuyên truyền phù hợp.

Trong thời gian tới, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tiếp tục phối hợp với các cơ quan liên quan chỉ đạo, định hướng để các cơ quan báo chí tuyên truyền đầy đủ, kịp thời các nội dung cử tri quan tâm, góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Câu 4. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị:  Cử tri đề nghị ngành chức năng có biện pháp quản lý nhà nước về mạng xã hội. Thời gian qua, quản lý mạng xã hội và internet còn quá lỏng lẻo, quá tự do và khá dễ dàng để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật như: kinh doanh mua bán các loại vũ khí, công cụ, dụng cụ hỗ trợ, vật liệu nổ và bán hàng đa cấp, làm giấy tờ, chứng chỉ giả tràn lan.

Trả lời: Tại Công văn số 250/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Bộ Thông tin và Truyền thông nhận thấy các vi phạm nêu trên phần lớn xảy ra trên Facebook. Tính từ thời điểm tháng 4 năm 2017 đến nay, Bộ đã phát hiện, yêu cầu Facebook gỡ bỏ, xử lý 852 đường link các bài viết trên Facebook có nội dung vi phạm nêu trên. Hiện nay, Bộ vẫn tiếp tục thu thập những vi phạm nêu trên yêu cầu Facebook gỡ bỏ và xử lý. Đồng thời, Bộ cũng nghiên cứu phương án, yêu cầu Facebook bổ sung các thuật toán có các nhóm từ, từ, hình ảnh vi phạm trên vào bộ lọc để có thể loại bỏ các tin vi phạm nêu trên; xem xét và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm nêu trên theo quy định tại Nghị định số 72/2013/NĐ-CP và Nghị định số 27/2018/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.

Tuy nhiên, đối với các hành vi kinh doanh mua bán các loại vũ khí, công cụ, dụng cụ hỗ trợ, vật liệu nổ và bán hàng đa cấp, làm giấy tờ, chứng chỉ giả tràn lan nằm trong danh mục hàng hóa cấm kinh doanh thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Công an và Bộ Quốc phòng (kinh doanh mua bán các loại vũ khí, công cụ, dụng cụ hỗ trợ, vật liệu nổ) và dấu hiệu phạm tội hình sự; làm giấy tờ, chứng chỉ giả thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo và cơ quan có thẩm quyền ban hành giấy tờ đó; bán hàng đa cấp thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Công thương.

Trong thời gian tới đề nghị các Bộ, cơ quan ban ngành nói trên cần phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông để xử lý, giải quyết dứt điểm các vi phạm nêu trên.

Câu 5. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Cử tri phản ánh, hiện nay có tình trạng các đầu số điện thoại 1900xxxx gọi vào máy người dân, khi người dân bắt máy (cả thuê bao cố định và di động) cước phí sẽ được tính (15.000đ/phút). Cử tri đề nghị Nhà nước nên tăng cường quản lý các đầu số dịch vụ này và xử phạt thật nghiêm khi phát hiện có sai phạm, không để tình trạng để người dân mất tiền oan như thời gian vừa qua.

Trả lời: Tại Công văn số 250/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

1. Số điện thoại có định dạng bắt đầu bằng 1900:

Số điện thoại có định dạng bắt đầu bằng 1900 (sau đây gọi tắt là số dịch vụ 1900) là số dịch vụ gọi giá cao (Premium Service). Số dịch vụ gọi giá cao được sử dụng để cung cấp dịch vụ nội dung thông tin và yêu cầu người sử dụng dịch vụ ngoài giá cước viễn thông phải thanh toán thêm một khoản giá cước để nhận được các nội dung thông tin đặc thù có giá trị cao (Quy định tại Khoản 15, Điều 3, Quy hoạch kho số viễn thông ban hành kèm theo Thông tư số 22/2014/TT-BTTTT ngày 22/12/2014).

Theo thống kê hiện nay có 3002 số dịch vụ 1900 đang hoạt động.

Số dịch vụ 1900 được phân bổ cho các doanh nghiệp viễn thông (có giấy phép thiết lập mạng viễn thông công cộng loại mạng cố định mặt đất) để các doanh nghiệp này cung cấp dịch vụ cho khách hàng (là các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp), mỗi khách hàng có thể lựa chọn 1 hoặc nhiều số dịch vụ.(Quy định tại Điều 12, Thông tư số 25/2015/TT-BTTTT).

Theo quy định của pháp luật, giá cước cuộc gọi vào số dịch vụ 1900 do doanh nghiệp viễn thông tự quy định (Điểm c, Khoản 1, Điều 38 Nghị định số 25/2011/NĐ-CP) tuy nhiên khi cung cấp dịch vụ qua số dịch vụ 1900 đơn vị cung cấp nội dung phải cung cấp đầy đủ thông tin về giá cước trước khi tính cước người sử dụng dịch vụ (Khoản 6, Điều 12, Luật Giá).

Như vậy nếu doanh nghiệp khi cung cấp dịch vụ gọi giá cao (sử dụng số dịch vụ 1900) tuân thủ đúng các quy định nêu trên là kinh doanh hợp pháp.

Trên thực tế, có trường hợp doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung thông tin qua số dịch vụ 1900 nhưng không cung cấp thông tin về giá cước hoặc gọi đến nhưng chưa tư vấn gì đã bị trừ tiền. Đây là những hành vi vi phạm pháp luật. Đối với các trường hợp bị phát hiện, Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông đều đã xử phạt hành chính, buộc thu hồi đầu số vi phạm và thông tin trên báo chí.

Đối với vấn đề này, ngày 30/6/2014 Bộ TTTT (Cục Viễn thông) cũng đã có công văn số 816/CVT-GCKM yêu cầu các doanh nghiệp viễn thông phối hợp với các doanh nghiệp cung cấp nội dung triển khai các biện pháp kỹ thuật để thông báo giá cước trước khi tính cước người sử dụng dịch vụ, chỉ tính cước cho người sử dụng khi bắt đầu cung cấp nội dung thông tin.

2. Để giải khắc phục tình trạng trên, Bộ TTTT sẽ tiến hành triển khai các giải pháp sau:

- Yêu cầu các doanh nghiệp viễn thông:

+ Báo cáo các giải pháp đã triển khai để thực hiện công văn số 816/CVT-GCKM ngày 30/6/2014 của Cục Viễn thông về việc cung cấp thông tin về giá cước trước khi tính cước đối với người sử dụng gọi điện tới tổng đài cung cấp dịch vụ nội dung;

+ Tổ chức thực hiện tự kiểm tra, rà soát lại, chấn chỉnh các hợp đồng đã ký với các đối tác về cung cấp dịch vụ tư vấn qua các số dịch vụ 1900 về giá cước, chất lượng dịch vụ, phương thức tính cước, giải pháp kỹ thuật và chế độ kiểm tra giám sát của nhà mạng đối với dịch vụ này;

+ Báo cáo kết quả về Bộ Thông tin và Truyền thông trước 31/12/2018.

-  Nâng cao mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp dịch vụ giá cao nhưng không cung cấp thông tin về giá cước hoặc tính cước khi chưa bắt đầu cung cấp nội dung thông tin;

- Tăng cường kiểm tra, rà soát để phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

 

Câu 6. Cử tri các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Bình Thuận, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam kiến nghị: Cử tri phản ánh: Hiện nay, tình trạng thông tin trên mạng xã hội ngày càng phức tạp, nhiều trang mạng có nội dung xuyên tạc về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,… gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Cử tri và nhân dân kiến nghị tăng cường công tác kiểm tra, quản lý và có chế tài xử lý nghiêm những vi phạm; có giải pháp ngăn chặn, quản lý chặt chẽ và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ để định hướng cho nhân dân hiểu, góp phần đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Trả lời: Tại Công văn số 256, 257, 258, 259/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Sự phát triển của internet đã đồng hành và thúc đẩy mạng xã hội phát triển. Tuy nhiên, thông tin trên mạng xã hội là thông tin không chính thống, chưa được kiểm chứng và có những thông tin xuyên tạc, sai lệch. 

  - Bộ TTTT đã chỉ đạo công tác rà soát, phân tích nội dung của các trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội để nâng cao hiệu quả quản lý, phát hiện thông tin vi phạm để kịp thời, cảnh báo, xử lý theo quy định; chỉ đạo các nhà mạng triển khai các giải pháp kỹ thuật mới để ngăn chặn hiệu quả sự phát tán của thông tin xấu độc, phản cảm trên các trang web, mạng xã hội có tên miền quốc tế, đặt máy chủ ở nước ngoài. Tiếp tục thống nhất, triển khai biện pháp đấu tranh với Facebook, Google.

Bên cạnh việc phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan tăng cường công tác quản lý an ninh mạng, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi cố tình đưa tin sai sự thật, gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng, xã hội; Bộ TTTT đã chỉ đạo các cơ quan báo chí chủ động cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ để định hướng dư luận xã hội, tạo niềm tin trong nhân dân.

Bộ TTTT thường xuyên chỉ đạo, định hướng các cơ quan báo chí trong nước tăng cường thông tin những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước, nỗ lực trong công tác điều hành của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế, xã hội, chăm lo đời sống người dân, kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tình hình an ninh trật tự xã hội… nhằm góp phần tăng niềm tin của người dân, tạo sự đồng thuận của người dân với các chủ trương, chính sách và công tác điều hành đất nước của Chính phủ, cung cấp cho người dân đầy đủ thông tin để đánh giá đúng tình hình, không bị các thế lực thù địch lợi dụng. 

Song song với đó, Bộ cũng thường xuyên đề nghị các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện đúng quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin; đồng thời, Bộ thường xuyên phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương chủ động mời đại diện các Bộ, ban ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đến giao ban báo chí hằng tuần để cung cấp thông tin kịp thời về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là những chủ trương, chính sách, văn bản mới được ban hành, những vấn đề mà dư luận quan tâm để lãnh đạo các cơ quan báo chí nắm rõ, tổ chức thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ đến nhân dân nhằm cảnh báo và định hướng dư luận xã hội, đặc biệt là các thông tin liên quan đến an ninh chính trị, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội và sức khỏe cộng đồng.

Câu 7. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Cử tri phản ánh: Đề nghị Bộ phối hợp với Bộ Công an nghiên cứu tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức và ý thức cảnh giác trong Nhân dân trước những âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, nhất là việc sử dụng mạng xã hội, lợi dụng quyền tự do, dân chủ, nhân quyền hay những sai phạm của một số cán bộ, đảng viên để xuyên tạc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.

Trả lời: Tại Công văn số 249/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Với trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin và truyền thông, thời gian qua, Bộ TTTT đã triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nhằm tăng cường quản lý nội dung thông tin trên mạng, đấu tranh ngăn chặn các thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật như: Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật; Xử lý kịp thời, kiên quyết đối với các hành vi vi phạm; Kiên quyết yêu cầu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nước ngoài như Facebook, Youtube gỡ bỏ thông tin vi phạm; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an để xác định hành vi, đối tượng và ngăn chặn, xử lý các trường hợp vi phạm ẩn danh tính hoặc đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước.

Riêng đối với công tác hậu kiểm, xử lý các hành vi vi phạm, đặc biệt là việc xử lý các đối tượng có hành vi sai trái, phát ngôn thiếu chuẩn mực trên mạng xã hội, kết quả từ 01/1/2016 đến ngày 28/9/2018, Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử xử lý vi phạm  đối với trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội là 33 trường hợp với số tiền xử phạt là 702.000.000 đồng.

 Đối với các mạng xã hội nước ngoài cung cấp dịch vụ qua biên giới vào Việt Nam như Google và Facebook, kể từ đầu năm 2017 đến nay, Bộ đã chủ động đàm phán, quyết liệt đấu tranh buộc 02 doanh nghiệp này phải cam kết và nghiêm túc triển khai việc ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin phản động, xấu độc trên hai mạng xã hội này khi có yêu cầu từ phía Chính phủ Việt Nam. Tính đến hết ngày 26/11/2018, Google đã ngăn chặn, gỡ bỏ 6811 video clip có nội dung xấu độc khỏi YouTube trong đó có 285 video clip liên quan đến Formosa và các tỉnh miền Trung với nội dung phản động, kích động nhân dân chống phá Đảng, Nhà nước ta. Ngoài ra có 06 kênh Youtube bị chặn hoàn toàn; Facebook đã gỡ bỏ 193/196 tài khoản giả mạo, 159 tài khoản nói xấu, bôi nhọ, tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

- Tuy nhiên, do đặc thù phát triển quá nhanh của công nghệ, của các dịch vụ, nội dung thông tin trên mạng nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, chưa cụ thể hóa, bao quát hết các đối tượng và hoạt động cần quản lý, hành vi sai phạm, chế tài xử lý chưa bảo đảm tính răn đe.

Trong khi đó, quy trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trên lĩnh vực này theo quy định hiện hành mất khá nhiều thời gian, dẫn đến việc quy định vừa sửa đổi, bổ sung xong đã bắt đầu lạc hậu, gây khó khăn cho công tác quản lý.

- Việc ngăn chặn, xử lý thông tin phản động, xấu độc, vi phạm pháp luật Việt Nam trên mạng internet trong thời gian vừa khá khó khăn, phức tạp và chưa thật sự hiệu quả do tính hai mặt của mạng Internet và do hoạt động chống phá của các thế lực thù địch khá tinh vi, xảo quyệt, khó phát hiện danh tính, lợi dụng tính chất xuyên biên giới. Bên cạnh đó, nhu cầu sử dụng mạng xã hội của người dân nước ta là khá lớn nhưng đại đa số lại lệ thuộc vào mạng xã hội nước ngoài mà chưa có nhiều sự lựa chọn, thay thế bằng mạng xã hội trong nước.

Trước những khó khăn vướng mắc như trên trong công tác quản lý trong thời gian vừa, Bộ Thông tin và Truyền thông đã thường xuyên phối hợp với Bộ Công an triển khai nhiều hoạt động nhằm ngăn chặn thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật Việt Nam trên mạng xã hội Facebook cũng như truy tìm nhân thân của đối tượng cung cấp thông tin vi phạm để có biện pháp xử lý kịp thời.

Hiện nay, Bộ TTTT và Bộ Công an đang tiếp tục phối hợp triển khai một số giải pháp như sau:

- Xây dựng dự thảo các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng để bảo đảm Luật An ninh mạng phát huy hiệu quả và đi vào thực tiễn đời sống xã hội;

- Bổ sung chính sách ưu tiên phát triển mạng xã hội trong nước, tích hợp nhiều dịch khác để thu hút người Việt Nam sử dụng, có khả năng cạnh tranh với nước ngoài. 

- Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng của Bộ Công an để rà quét, phát hiện và xử lý nhanh nguồn gốc phát tán thông tin vi phạm pháp luật và có biện pháp xử lý kịp thời.

- Triển khai xây dựng Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng Quốc gia. Trung tâm này đảm nhận nhiệm vụ tự động giám sát, phát hiện, phân tích thông tin vi phạm trên môi trường mạng để cảnh báo, dự báo các tình huống phát sinh có thể xảy; chỉ đạo các nhà mạng triển khai các giải pháp kỹ thuật mới để ngăn chặn hiệu quả sự phát tán của thông tin xấu độc, phản động trên các trang web, mạng xã hội có tên miền quốc tế, đặt máy chủ ở nước ngoài.

Câu 8. Cử tri tỉnh Hà Nam kiến nghị: Cử tri phản ánh: Đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông cần có cơ chế quản lý chặt chẽ hơn nữa tình hình an ninh mạng, tránh đăng tải những thông tin sai lệch không đúng, gây hoang mang trong nhân dân.

Trả lời: Tại Công văn số 252/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết về bảo vệ an ninh mạng trong tình hình hiện nay, ngày 12/6/2018, Luật An ninh mạng đã được Quốc hội Khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 5 và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2019.

Liên quan đến hoạt động báo chí, Luật Báo chí năm 2016 đã khẳng định quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí, nhưng cũng quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan báo chí. Việc đăng tải thông tin xuyên tạc, gây hoang mang trong nhân dân là hành vi bị cấm được nêu rõ tại Điều 9, Luật Báo chí năm 2016. 

Với trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông thường xuyên theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về báo chí, đặc biệt, các quy định liên quan nội dung thông tin trên báo chí và hoạt động báo chí.  

Bộ đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan liên quan chỉ đạo, định hướng báo chí trong việc tuyên truyền, đấu tranh phản bác âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và cung cấp thông tin chính xác về các sự kiện, vụ việc dư luận xã hội quan tâm để giúp nhân dân hiểu, góp phần tạo sự đồng thuận, ổn định tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Tính đến tháng 11/2018, riêng Cục Báo chí của Bộ TTTT đã xử phạt vi phạm hành chính đối với 26 trường hợp; tổng số tiền: 597.400.000 đồng; trong đó nhiều trường hợp thông tin sai sự thật.

Câu 9. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Thông tư hướng dẫn việc đặt Văn phòng đại diện, cử phóng viên thường trú của các cơ quan báo chí và quy định tác nghiệp dành cho phóng viên, cộng tác viên (theo quy định của Luật báo chí 2016, cả nước có hơn 480 cơ quan báo chí có nghĩa là tất cả các cơ quan báo chí đó đều có thể đặt VPĐD, cử PVTT đến tất cả các tỉnh, thành trong cả nước. Hà Tĩnh hiện có VPĐD, PVTT của 38 Báo và Tạp chí (số này đã đầy đủ hồ sơ theo quy định). Ngoài ra, gần 30 cơ quan báo chí không đặt VPĐD, PVTT nhưng vẫn có phóng viên, cộng tác viên hoạt động thường xuyên trên địa bàn, đi tác nghiệp vẫn giới thiệu là phóng viên thường trú nhưng không có chế tài xử lý).

Trả lời: Tại Công văn số 251/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Điều kiện và hoạt động của Văn phòng đại diện, phóng viên thường trú của cơ quan báo chí được quy định tại Điều 22, Luật Báo chí năm 2016.

Thẩm quyền quản lý của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với Văn phòng đại diện, phóng viên thường trú hoạt động tại địa phương đã được quy định cụ thể tại các khoản 4,5,6 và 7 của Điều 22 Luật báo chí năm 2016 và pháp luật có liên quan.

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể để khi có hiệu lực thì thi hành được ngay. Trong trường hợp văn bản có điều, khoản, điểm mà nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật và những nội dung khác cần quy định chi tiết thì ngay tại điều, khoản, điểm đó có thể giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết. Văn bản quy định chi tiết chỉ được quy định nội dung được giao và không được quy định lặp lại nội dung của văn bản được quy định chi tiết.

Các quy định của Luật Báo chí năm 2016 đã cụ thể, chi tiết và có hiệu lực trực tiếp. Một số nội dung của Luật Báo chí quy định Chính phủ hướng dẫn chi tiết, Bộ TTTT đã ban hành và trình Chính phủ ban hành đầy đủ theo quy định gồm: Nghị định số 08/2017/NĐ-CP ngày 08/02/2017 quy định về lưu chiểu điện tử đối với loại hình báo nói, báo hình và báo điện tử độc lập với cơ quan báo chí; Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 09/02/2017 quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước; Thông tư số 36/2016/TT-BTTTT quy định chi tiết về việc cấp phép hoạt động và chế độ báo cáo đối với loại hình báo nói, báo hình;  Thông tư số 48/2016/TT-BTTTT quy định chi tiết và hướng dẫn việc cấp giấy phép hoạt động báo in và báo điện tử, xuất bản thêm ấn phẩm, mở chuyên trang của báo điện tử, xuất bản phụ trương, xuất bản bản tin, xuất bản đặc san; Thông tư số 49/2016/TT-BTTTT quy định chi tiết và hướng dẫn hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp phép trong hoạt động báo chí, thẻ nhà báo. 

Câu 10. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Bộ TTTT phối hợp với Bộ Công an tiếp tục nghiên cứu quản lý mạng xã hội Facebook, đặc biệt là các vấn đề thông tin người dùng, thông tin xấu độc, ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; chỉ đạo truyền thông mạnh mẽ hơn nữa trên Đài truyền hình Quốc gia và gửi cho các địa phương phục vụ tuyên truyền tạo lòng tin trong nhân dân trong việc xây dựng trạm BTS (Hiện nay, người dân tại Hà Tĩnh nói riêng cũng như cả nước nói chung lấy cớ sóng điện từ phát ra từ trạm BTS ảnh hưởng đến sức khỏe để cản trở việc xây dựng trạm BTS của các doanh nghiệp viễn thông là khá phổ biến.)

Trả lời: Tại Công văn số 251/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

* Đối với nội dung: Đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ Công an tiếp tục nghiên cứu quản lý mạng xã hội Facebook, đặc biệt là các vấn đề thông tin người dùng, thông tin xấu độc, ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

- Với trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin và truyền thông, thời gian qua, Bộ Thông tin và Truyền thông đã triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nhằm tăng cường quản lý nội dung thông tin trên mạng, đấu tranh ngăn chặn các thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật như: Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật; xử lý kịp thời, kiên quyết đối với các hành vi vi phạm; kiên quyết yêu cầu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nước ngoài như Facebook, Youtube gỡ bỏ thông tin vi phạm; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an để xác định hành vi, đối tượng và ngăn chặn, xử lý các trường hợp vi phạm ẩn danh tính hoặc đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước.

Riêng đối với công tác hậu kiểm, xử lý các hành vi vi phạm, đặc biệt là việc xử lý các đối tượng có hành vi sai trái, phát ngôn thiếu chuẩn mực trên mạng xã hội, kết quả từ 01/01/2016 đến ngày 28/9/2018, Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử xử lý vi phạm  đối với trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội là 33 trường hợp với số tiền xử phạt là 702.000.000 đồng.

- Tuy nhiên, do đặc thù phát triển quá nhanh của công nghệ, của các dịch vụ, nội dung thông tin trên mạng nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, chưa cụ thể hóa, bao quát hết các đối tượng và hoạt động cần quản lý, hành vi sai phạm, chế tài xử lý chưa bảo đảm tính răn đe.

Trong khi đó, quy trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trên lĩnh vực này theo quy định hiện hành mất khá nhiều thời gian, dẫn đến việc quy định vừa sửa đổi, bổ sung xong đã bắt đầu lạc hậu, gây khó khăn cho công tác quản lý.

- Việc ngăn chặn, xử lý thông tin phản động, xấu độc, vi phạm pháp luật Việt Nam trên mạng internet trong thời gian vừa qua khá khó khăn, phức tạp và chưa thật sự hiệu quả do tính hai mặt của mạng Internet và do hoạt động chống phá của các thế lực thù địch tinh vi, xảo quyệt, khó phát hiện danh tính, lợi dụng tính chất xuyên biên giới. Bên cạnh đó, nhu cầu sử dụng mạng xã hội của người dân nước ta là khá lớn nhưng đại đa số lại lệ thuộc vào mạng xã hội nước ngoài mà chưa có nhiều sự lựa chọn, thay thế bằng mạng xã hội trong nước.

Trước những khó khăn vướng mắc như trên trong công tác quản lý trong thời gian vừa, Bộ Thông tin và Truyền thông đã thường xuyên phối hợp với Bộ Công an triển khai nhiều hoạt động nhằm ngăn chặn thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật Việt Nam trên mạng xã hội Facebook cũng như truy tìm nhân thân của đối tượng cung cấp thông tin vi phạm để có biện pháp xử lý kịp thời.

Hiện nay, Bộ TTTT và Bộ Công an đang tiếp tục phối hợp triển khai một số giải pháp như sau:

- Xây dựng dự thảo các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng để bảo đảm Luật An ninh mạng phát huy hiệu quả và đi vào thực tiễn đời sống xã hội.

- Bổ sung chính sách ưu tiên phát triển mạng xã hội trong nước, tích hợp nhiều dịch vụ khác để thu hút người Việt Nam sử dụng, có khả năng cạnh tranh với nước ngoài. 

- Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng của Bộ Công an để rà quét, phát hiện và xử lý nhanh nguồn gốc phát tán thông tin vi phạm pháp luật và có biện pháp xử lý kịp thời.

  - Triển khai xây dựng và đưa vào hoạt động Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng Quốc gia. Trung tâm này đảm nhận nhiệm vụ tự động giám sát, phát hiện, phân tích thông tin vi phạm trên môi trường mạng để cảnh báo, dự báo các tình huống phát sinh có thể xảy; chỉ đạo các nhà mạng triển khai các giải pháp kỹ thuật mới để ngăn chặn hiệu quả sự phát tán của thông tin xấu độc, phản động trên các trang web, mạng xã hội có tên miền quốc tế, đặt máy chủ ở nước ngoài.

* Đối với nội dung: chỉ đạo truyền thông mạnh mẽ hơn nữa trên Đài truyền hình Quốc gia và gửi cho các địa phương phục vụ tuyên truyền tạo lòng tin trong nhân dân trong việc xây dựng trạm BTS (Hiện nay, người dân tại Hà Tĩnh nói riêng cũng như cả nước nói chung lấy cớ sóng điện từ phát ra từ trạm BTS ảnh hưởng đến sức khỏe để cản trở việc xây dựng trạm BTS của các doanh nghiệp viễn thông là khá phổ biến.)

- Về vấn đề ảnh hưởng của sóng điện từ của trạm BTS đến sức khỏe con người, Bộ TTTT đã tổ chức nghiên cứu, triển khai các hoạt động quản lý an toàn đối với trạm BTS từ năm 2006, Bộ TTTT đã nhiều lần xây dựng tài liệu và phổ biến đến các doanh nghiệp, các Sở Thông tin và Truyền thông; đồng thời gửi đến các cơ quan thông tấn, báo chí. Tài liệu đề cập đến các nội dung:

- Cập nhật cơ sở khoa học, kết quả các nghiên cứu liên quan mới nhất của Tổ chức y tế thế giới. Theo đó, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) kết luận là chưa có bằng chứng cho thấy trường điện từ của các trạm thu phát thông tin di động có thể gây ảnh hưởng có hại cho con người.

- Chính sách và tình hình triển khai kiểm định các trạm BTS của Bộ TTTT để đảm bảo an toàn cho người dân. Theo đó, các doanh nghiệp phải tuân thủ quy định quản lý chuyên ngành về kiểm định các trạm BTS nhằm đảm bảo an toàn sức khỏe cho người dân. Về công tác quản lý chuyên ngành, các thiết bị của trạm BTS phải đảm bảo tuân thủ các quy chuẩn Việt Nam sau:

QCVN 16:2018/BTTTT(Quy chuẩn về thiết bị trạm gốc thông tin di động W-CDMA FDD);

QCVN 110:2017/BTTTT (thiết bị trạm gốc thông tin di động E-UTRA-phần truy nhập vô tuyến);

QCVN 111:2017/BTTTT (thiết bị trạm gốc thông tin di động E-UTRA FDD-phần truy nhập vô tuyến);

QCVN 41:2016/BTTTT (Thiết bị trạm gốc thông tin di động GSM).

Đồng thời, tất cả các trạm BTS (trong bán kính 100m tính từ anten bất kỳ của các trạm BTS lắp đặt tại vị trí đó có công trình xây dựng mà có người sinh sống, làm việc) phải đáp ứng QCVN 08:2010/BTTTT (Quy chuẩn phơi nhiễm trường điện từ của các trạm gốc điện thoại mặt đất công cộng) thì mới được phép hoạt động. Các yêu cầu và thủ tục quy định tại các Thông tư 16/2011/TT-BTTTT (Quy định về kiểm định thiết bị viễn thông và đài vô tuyến điện); Thông tư số 17/2011/TT-BTTTT và Thông tư số 12/2017/TT-BTTTT sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số 17/2011/TT-BTTTT (Danh mục thiết bị viễn thông và đài vô tuyến điện bắt buộc kiểm định); và Thông tư số 18/2011/TT-BTTTT và Thông tư số 11/2017/TT-BTTTT ngày 23/06/2017 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2013/TT-BTTTT (Quy trình kiểm định trạm gốc điện thoại di động mặt đất công cộng) và như vậy là bảo đảm an toàn về bức xạ điện từ.

Các nội dung trên được Bộ TTTT sử dụng trong công tác tuyên truyền, phổ biến tới các Sở TTTT và doanh nghiệp qua các Hội nghị Tiêu chuẩn Đo lương Chất lượng của Bộ TTTT trong năm 2017, 2018 để cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương (các Sở TTTT) và doanh nghiệp biết và có kế hoạch, chủ động triển khai tuyên truyền đến người dân hiểu đúng, không hoang mang, lo ngại về bức xạ sóng điện từ. Trong thời gian tới, Bộ TTTT sẽ tiếp tục chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí, các Sở TTTT và đặc biệt là các doanh nghiệp tăng cường phối hợp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến bằng nhiều hình thức (video clip, tờ rơi, sử dụng hệ thống thông tin cơ sở....) để tuyên truyền đến người dân hiệu quả hơn.

Câu 11. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị ban hành quy định cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực thông tin và truyền thông; xây dựng các chính sách, phương án và thông tư hướng dẫn nhằm tạo điều kiện các đơn vị sự nghiệp tự chủ có các nhiệm vụ sự nghiệp có thu lâu dài.

Trả lời: Tại Công văn số 251/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ, Bộ TTTT đã phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng và trình Chính phủ dự thảo Nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực thông tin và truyền thông. Do tính chất đặc thù của lĩnh vực báo chí, xuất bản, nên trong quá trình soạn thảo Nghị định phải xin ý kiến của các cấp có thẩm quyền nhiều lần; mặt khác, trong quá trình hoàn thiện dự thảo Nghị định, Bộ TTTT đã tiếp thu, thể chế hóa tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XII và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa XII trong dự thảo Nghị định.

Trên tinh thần đó, Bộ TTTT đã hoàn thiện dự thảo Nghị định và trình Chính phủ xem xét, ban hành. Đồng thời, Bộ TTTT đã chỉ đạo các đơn vị chức năng chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng các văn bản hướng dẫn Nghị định để đảm bảo tính đồng bộ của các văn bản ngay sau khi Nghị định được ban hành.

Câu 12. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án Quy hoạch Báo chí và có hướng dẫn cụ thể cho các địa phương thực hiện.

Trả lời: Tại Công văn số 251/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Thực hiện Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 01/6/2015 của Chính phủ và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngày 25/9/2015, Bộ TTTT đã tổ chức Hội nghị phổ biến nội dung cơ bản Đề án Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 tại Hà Nội.

Từ đó tới nay, Bộ đã nỗ lực thực hiện triển khai Đề án quy hoạch báo chí, cụ thể như: Ban hành các văn bản hướng dẫn, đôn đốc các bộ, cơ quan ngang bộ, TP. Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh thực hiện sắp xếp các cơ quan báo chí theo đề án quy hoạch.

Trong tháng 9, tháng 10 và tháng 11/2018, Bộ TTTT đã làm việc với 16 cơ quan chủ quản và tổng biên tập Báo để trao đổi, ghi nhận những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện quy hoạch báo chí.

Hiện nay, Đề án Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 đã được Bộ TTTT trình Thủ tướng Chính phủ (tại Tờ trình số 70/TTr-BTTTT ngày 28/12/2018) xem xét, phê duyệt.

Câu 13. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Bộ TTTT xây dựng Đề án phát triển tiêu chí số 8 ở tất cả các xã biên giới, hải đảo nhằm giảm khoảng cách hưởng thụ về thông tin truyền thông với đô thị, gắn với bảo vệ chủ quyền biên giới, hải đảo.

Trả lời: Tại Công văn số 251/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Theo quy định tại Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020; thì các Bộ có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện tiêu chí, chỉ tiêu thuộc Bộ tiêu chí xã; UBND các tỉnh căn cứ hướng dẫn của các Bộ, ngành liên quan, quy định cụ thể với nhóm xã phù hợp với điều kiện đặc thù, gắn xây dựng nông thôn mới với tái cơ cấu ngành nông nghiệp;.... Bộ tiêu chí này là một trong những chỉ số để đánh giá kết quả, hiệu quả của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016.

Đối với tiêu chí số 8 - Thông tin và truyền thông: Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ TTTT đã ban hành Quyết định số 441/QĐ-BTTTT ngày 28/3/2017 quy định chi tiết thực hiện tiêu chí thông tin và truyền thông trong bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020. Đồng thời, để hỗ trợ các địa phương triển khai thực hiện tiêu chí số 8, Bộ TTTT đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ nội dung “Tăng cường cơ sở vật chất cho hệ thống thông tin và truyền thông cơ sở” trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; kinh phí hỗ trợ các địa phương thực hiện nội dung này được phân bổ và giao chung trong dự toán chi thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới của tỉnh.

Mặt khác, một số nội dung của tiêu chí số 8 (viễn thông, internet, bưu chính) thuộc trách nhiệm triển khai của các doanh nghiệp trên địa bàn, nhà nước chỉ hỗ trợ thông qua các chính sách như: Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích; chính sách bưu chính công ích;... Các cơ quan Nhà nước không trực tiếp triển khai thực hiện.

Vì vậy, đề nghị tỉnh Hà Tĩnh căn cứ tổng mức kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được Trung ương hỗ trợ và khả năng cân đối của ngân sách địa phương, điều kiện thực tiễn tại địa phương để phân bổ kinh phí thực hiện các mục tiêu của Chương trình MTQG Xây dựng nông thôn mới; đồng thời, phối hợp, kêu gọi các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn triểu khai thực hiện các nội dung thuộc trách nhiệm của các doanh nghiệp để đảm bảo hoàn thành các tiêu chỉ về xã xây dựng nông thôn mới (trong đó có tiêu chí số 8 - Thông tin và truyền thông).

Câu 14. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Cử tri phản ánh: Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, những thông tin sai lệch trên các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội, những thông tin được công bố không đúng từ các cơ quan chức năng, tổ chức… có sức lan tỏa nhanh chóng và gây tổn thất lớn cho nông dân, doanh nghiệp, làm ảnh hưởng tới uy tín của nông sản, thực phẩm Việt Nam. Điển hình là vụ Hiệp hội Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam (VINASTAS) công bố kết quả khảo sát về nước mắm trong năm 2016 thông tin 67% mẫu nước mắm không đạt chỉ tiêu asen tổng theo quy định của Bộ Y tế (95.65% mẫu nước mắm có độ đạm từ 40% trở lên có hàm lượng asen tổng vượt mức quy định). Thông tin này đã gây hoang mang lớn trong dư luận và tạo ra một phong trào tẩy chay nước mắm truyền thống. Chỉ đến khi các nhà khoa học lên tiếng phản bác thông tin của VINASTAS, các cơ quan chức năng vào cuộc điều tra và ra kết luận việc công bố chất lượng nước mắm của VINASTAS là phạm luật, thì nước mắm truyền thống mới được giải oan và còn nhiều vụ khác. Đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông cần có biện pháp khắc phục, nhằm xử lý nghiêm khắc các trường hợp sai phạm để bảo vệ quyền lợi của người sản xuất.

Trả lời: Tại Công văn số 245/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Việc cung cấp thông tin cho báo chí được quy định tại Điều 38 Luật báo chí năm 2016. Trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, các cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin đã cung cấp. 

Luật Báo chí năm 2016 khẳng định quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí, nhưng cũng quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan báo chí. Việc đăng tải thông tin xuyên tạc, gây hoang mang trong nhân dân là hành vi bị cấm được nêu rõ tại Điều 9, Luật Báo chí năm 2016. 

Với trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông thường xuyên theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về báo chí, đặc biệt, các quy định liên quan nội dung thông tin trên báo chí và hoạt động báo chí; xử lý nghiêm hành vi vi phạm liên quan (nếu có). 

Tính đến tháng 11/2018, riêng Cục Báo chí đã xử phạt vi phạm hành chính đối với 26 trường hợp; tổng số tiền: 597.400.000 đồng.

Năm 2016, riêng vụ thông tin sai sự thật về “nước mắm nhiễm thạch tín”, Cục Báo chí đã xử phạt 50 cơ quan báo chí, tổng số tiền 01 tỷ 139 triệu đồng; xử lý thu hồi 3 thẻ nhà báo của lãnh đạo, biên tập viên cơ quan báo chí.

Song song với việc kiểm tra, xử lý vi phạm, Bộ TTTT đã cử cán bộ tập huấn thường xuyên cho cán bộ các cơ quan, ban ngành của Trung ương và địa phương, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về báo chí, đặc biệt là Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 09/02/2017 của Chính phủ quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước.

Câu 15. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Cử tri phản ánh: Kiến nghị Bộ có kế hoạch tăng cường chỉ đạo các Đài Phát thanh - Truyền hình của các địa phương thực hiện chiếu các phim tài liệu, phim Việt Nam vào các ngày lễ lớn trong năm như 30/4, 1/5, 19/5, 27/7, 2/9 để ôn lại truyền thống, kỷ niệm lịch sử, hạn chế hoặc không chiếu phim nước ngoài vào các dịp này.

Trả lời: Tại Công văn số 246/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Những năm qua, hệ thống phát thanh, truyền hình trong toàn quốc có sự phát triển nhanh cả về số lượng lẫn nội dung, chất lượng chương trình. Hiện nay, cả nước có 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, 5 đơn vị hoạt động truyền hình, với tổng số kênh phát thanh, truyền hình trong nước được cấp phép là 278 kênh (kênh phát thanh quảng bá: 78 kênh; kênh phát thanh phát trên dịch vụ truyền hình trả tiền: 9 kênh; kênh truyền hình phát quảng bá: 104 kênh; kênh truyền hình phát sóng trên truyền hình trả tiền: 87 kênh) và đã có 35 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền.

Các kênh phát thanh, kênh truyền hình thực sự là phương tiện thông tin tuyên truyền nhanh, nhạy của Đảng và Nhà nước, phục vụ kịp thời, có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của đất nước và địa phương tích cực tuyên truyền, phản ánh nhiều chiều, phong phú, đa dạng mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, an ninh quốc phòng. Đồng thời cũng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin, giải trí của người dân.

Trong thời gian qua, đa số các Đài Phát thanh, truyền hình địa phương đã có sự đầu tư nâng cao chất lượng các chương trình, mở mới và tăng thời lượng phát sóng chương trình phát thanh, truyền hình trong đó có việc tăng cường phát sóng chương trình tuyên truyền mang tính giáo dục truyền thống cách mạng, phổ biến kiến thức pháp luật; các phong trào thi đua yêu nước, giới thiệu các tấm gương tiêu biểu, gương người tốt việc tốt. Các chương trình phát sóng đảm bảo chất lượng, đạt hiệu quả về thông tin tuyên truyền, có sức chiến đấu; phản ánh kịp thời các sự kiện, vấn đề nóng xảy ra trong đời sống xã hội...

Tuy nhiên, để khơi dậy lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước trong mỗi con người Việt Nam, tạo niềm tin của xã hội, tức là tạo nên sức mạnh của một đất nước, sức mạnh một dân tộc, với trách nhiệm là cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, phát thanh, truyền hình, Bộ đang triển khai quyết liệt các giải pháp để nâng cao chất lượng nội dung các chương trình phát thanh, truyền hình nói chung và phim truyền hình nói riêng, cụ thể:

1. Tiếp tục chỉ đạo, định hướng nội dung thông tin cho các Đài PTTH tăng cường thời lượng phát sóng, nâng cao chất lượng cũng như đa dạng nguồn chương trình trong đó có phim tài liệu về đề tài lịch sử, phim Việt Nam.

2. Tăng cường tổ chức bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ biên tập viên các Đài PTTH, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị để chọn phim phù hợp.

3. Trong quá trình thực hiện cấp phép lại cho các đài phát thanh, truyền hình, Bộ TTTT sẽ tiếp tục điều chỉnh, đảm bảo tỷ lệ cân đối về thời lượng phát sóng các chương trình phim truyện và các chương trình khác, góp phần giúp các đài vừa thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích kênh chương trình, bảo đảm nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền thiết yếu, vừa bảo đảm đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí của người xem truyền hình.

 

Câu 16. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Ngày 24/4/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 49/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 15 của Nghị định số 25/2011/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện. Trong đó, bổ sung quy định ngoài thông tin về giấy tờ tùy thân, thuê bao di động cần bổ sung cả ảnh chân dung chính chủ nhằm quản lý thuê bao di động chặt chẽ hơn, tránh tình trạng SIM rác lừa đảo, đồng thời cũng nhằm bảo vệ quyền lợi cho chính số thuê bao của khách hàng trong một số trường hợp nhất định. Tuy nhiên, yêu cầu chụp ảnh chân dung chính chủ thuê bao là xâm phạm quyền riêng tư của người dân, có thể gây rò rỉ thông tin cá nhân và không cần thiết do đã đăng ký bằng chứng minh nhân dân; đặc biệt là đối với các thuê bao đã có thông tin chính xác (như thuê bao trả sau) mà vẫn yêu cầu bổ sung chụp ảnh là không cần thiết… Cử tri đề nghị Chính phủ sửa đổi Nghị định số 49/2017/NĐ-CP và Nghị định số 25/2011/NĐ-CP theo hướng không yêu cầu chụp ảnh đối với chủ thuê bao di động.

Trả lời: Tại Công văn số 256/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Ở nước ta, thực tế thời gian qua, các đại lý phân phối SIM thuê bao, điểm đăng ký thông tin thuê bao đã giả mạo thông tin thuê bao, thậm chí sử dụng phần mềm, công nghệ để tạo ra chứng minh nhân dân giả; lấy thông tin trong chứng minh nhân dân thật của nhiều người nhập sẵn vào các SIM thuê bao di động (mà không cần có người thực đến đăng ký sử dụng dịch vụ). Các SIM thuê bao được nhập sẵn thông tin thuê bao, kích hoạt sẵn dịch vụ như trên, còn gọi là SIM kích hoạt sẵn, được bày bán tràn lan, công khai. Đây chính là một trong những nguồn phát tán tin nhắn rác, tin nhắn nặc danh, quấy rối, lừa đảo, phát tán thông tin độc hại, mạo danh thực hiện các giao dịch phi pháp trên mạng,…phương hại đến an ninh quốc gia, sự ổn định của xã hội và lợi ích hợp pháp người dân. 

Chính vì những lý do trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định 49/2017/NĐ-CP, trong đó yêu cầu các doanh nghiệp viễn thông phải rà soát, đề nghị các khách hàng có thông tin thuê bao chưa đầy đủ, chưa chính xác đến cập nhật, bổ sung lại thông tin thuê bao (trong đó có ảnh chụp người trực tiếp đến giao kết hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung). Ảnh chụp người trực tiếp đến giao kết hợp đồng, sử dụng dịch vụ sẽ là bằng chứng xác thực để xác định một giao dịch (giữa người dân và nhân viên nhà mạng) là có thật. Đồng thời việc lưu ảnh chụp có tác dụng hậu kiểm khi cần thiết. Nội dung này hoàn toàn phù hợp với Thông lệ và quy định của nhiều nước trên thế giới.

Sau hơn 1 năm triển khai thực hiện, bên cạnh một số kết quả đạt được, Nghị định 49/2017/NĐ-CP cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, trên cơ sở tiếp thu ý kiến góp ý của các cử tri và của các đơn vị, cơ quan, Bộ Thông tin và Truyền thông đang phối hợp với các đơn vị có liên quan nghiên cứu, sửa đổi bổ sung một số nội dung có liên quan của Nghị định 49/2017/NĐ-CP (bao gồm việc làm rõ về đối tượng cần thực hiện chụp ảnh thuê bao người trực tiếp đến giao kết hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung) trong dự thảo Nghị định sửa đổi một số điều của Nghị định 25/2011/NĐ-CP để trình Chính phủ xem xét, quyết định.

Mục tiêu chính của việc thu thập và xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin thuê bao đầy đủ, chính xác nhằm hỗ trợ các cơ quan chức năng trong việc bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ lợi ích của chính người dân. Vì vậy rất mong các cử tri hiểu và hợp tác với các doanh nghiệp viễn thông trong quá trình cập nhật, bổ sung thông tin thuê bao, vì an ninh quốc gia và quyền lợi của chính bản thân mình.

 

Câu 17. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Cử tri phản ánh: Cần chấn chỉnh lại việc quảng cáo hàng hóa tràn lan, quảng cáo chất lượng không đúng sự thật trên các phương tiện thông tin đại chúng.  

Trả lời: Tại Công văn số 254/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Theo Luật Quảng cáo, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ TTTT thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo liên quan lĩnh vực quản lý.

Theo quy định pháp luật về quảng cáo, quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt như thuốc, mỹ phẩm, hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, sữa, sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ, thực phẩm, dịch vụ khám chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y... phải đăng ký và được Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chấp thuận về nội dung. Cơ quan báo chí chỉ được quảng cáo các hàng hóa, dịch vụ đặc biệt theo nội dung chấp thuận của các cơ quan chức năng.

Bộ TTTT thường xuyên nhắc nhở, yêu cầu các cơ quan báo chí thực hiện đúng quy định của pháp luật về quảng cáo trên báo chí; tổ chức thanh tra, kiểm tra nhằm hướng dẫn, nhắc nhở, chấn chỉnh và xử lý sai phạm của các cơ quan báo chí trong việc thực hiện quy định của pháp luật về quảng cáo trên báo chí.

Thời gian gần đây, các vi phạm quảng cáo trên báo chí như: Thông tin quảng cáo quá tính năng, tác dụng của hàng hóa; quảng cáo sản phẩm chức năng có nội dung không rõ ràng gây hiểu lầm đó là sản phẩm thuốc; quảng cáo thực phẩm chức năng không phù hợp với nội dung đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận vẫn xảy ra nhưng đã giảm đáng kể so với trước.

Trong thời gian tới, Bộ TTTT sẽ tiếp tục tăng cường công tác thanh kiểm tra, xử lý vi phạm đối với hoạt động quảng cáo trên báo chí.

Câu 18. Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị: Cử tri phản ánh: Xem xét đề xuất sửa đổi Nghị định số 102/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ về quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng vốn ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn phù hợp với Luật Đầu tư công và các văn bản hiện hành.

Trả lời: Tại Công văn số 255/BTTTT-VP ngày 25/01/2019

Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 102/2009/NĐ-CP đã được Bộ xây dựng và hoàn thiện để trình Chính phủ xem xét, ký ban hành. Các nội dung của dự thảo Nghị định đã được nghiên cứu, xây dựng, gửi xin ý kiến rộng rãi của các tổ chức, cá nhân, bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, hội, hiệp hội về CNTT và tiếp thu, hoàn chỉnh bảo đảm phù hợp với Luật Đầu tư công và các văn bản hiện hành có liên quan. Sau khi Nghị định được ban hành, Bộ TTTT phối hợp với các Bộ, ngành liên quan sẽ ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chi tiết các nội dung của Nghị định.

Câu 19. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước về công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông. Thúc đẩy ứng dụng, phát triển công nghệ và các doanh nghiệp công nghệ, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế; tích cực triển khai Chương trình Quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước.

Trả lời: Tại Công văn số 403/BTTTT-VP ngày 18/02/2019

Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về công nghiệp CNTT, Bộ Thông tin và Truyền thông đang tổ chức triển khai các nội dung như: Xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp CNTT, điện tử viễn thông nhằm đưa Việt Nam từng bước chủ động về công nghệ, đảm bảo an toàn thông tin quốc gia; thành lập Cục Công nghiệp công nghệ thông tin và Điện tử viễn thông trên cơ sở Vụ Công nghệ thông tin hiện có; xây dựng hệ sinh thái nội dung số Việt Nam... các nhiệm vụ này dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2019.

- Về kiến nghị: “tích cực triển khai Chương trình Quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước”: Thực hiện chức năng quản lý nhà nước, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016-2020 (Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015). Triển khai hiệu quả Chương trình này, hàng năm, Bộ đều đưa ra các hướng dẫn về xây dựng kế hoạch, hướng dẫn kỹ thuật cho các bộ, ngành, địa phương. Cùng với đó, Bộ cũng đẩy mạnh công tác kiểm tra, đánh giá, kịp thời phát hiện các khó khăn, vướng mắc để có giải pháp tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai ứng dụng CNTT và phát triển Chính phủ điện tử/chính quyền điện tử tại các bộ, ngành, địa phương.

Để thúc đẩy công tác ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước, góp phần cải cách thủ tục hành chính, trong thời gian tới Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ chính sau:

a) Đôn đốc, hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương triển khai các mục tiêu, giải pháp đã đề ra trong Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016-2020;

b) Triển khai, hướng dẫn xây dựng, vận hành các hệ thống, ứng dụng CNTT góp phần cải cách thủ tục hành chính theo hướng nâng cao hiệu quả, nhất là hiệu quả khai thác, sử dụng hệ thống quản lý văn bản và điều hành, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4;

c) Phối hợp với Bộ Nội vụ tăng cường gắn kết chặt chẽ hoạt động ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước với cải cách hành chính;

d) Phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, hoàn thiện môi trường pháp lý cho ứng dụng CNTT, xây dựng Chính phủ điện tử, trước tiên tập trung một số nội dung như: cơ chế quản lý đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng nguồn vốn nhà nước, chia sẻ, trao đổi thông tin, dữ liệu, định danh điện tử, sử dụng chữ ký số trong văn bản của cơ quan nhà nước, lưu trữ điện tử, xây dựng, ban hành các quy chuấn kỹ thuật xây dựng, vận hành chính phủ điện tử, chính quyền điện tử góp phần cải cách thủ tục hành chính,...

e) Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về xây dựng, vận hành ứng dụng CNTT góp phần cải cách thủ tục hành chính, phát triển Chính phủ điện tử tại Việt Nam.

g) Đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước trong xu thế thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với các nội dung như: ứng dụng IoT, ứng dụng điện toán đám mây (Cloud Computing), xử lý dữ liệu lớn (Big Data), đô thị thông minh (Smart city),...

Câu 20. Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị: Đề nghị Bộ Thông tin và truyền thông xem xét giao chức năng đo kiểm phục vụ công tác cấp giấy chứng nhận kiểm định đối với trạm BTS cho Sở Thông tin và truyền thông có đủ điều kiện về nhân lực và cơ sở vật chất để thực hiện xem xét ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế Công văn số 258/BTTTT-KHTC ngày 09/02/2009 của Bộ Thông tin và truyền thông về định mức xây dựng cơ bản công trình bưu chính, viễn thông; Hướng dẫn cách xác định các định mức đối với các hạng mục thu hồi, tháo dỡ, bảo dưỡng đối với hệ thống thông tin liên lạc, công trình viễn thông cũ.

Trả lời: Tại Công văn số 642/BTTTT-VP ngày 12/3/2019

1. Về việc giao chức năng đo kiểm phục vụ công tác cấp chứng nhận kiểm định đối với trạm BTS cho Sở TTTT:

Bộ TTTT ghi nhận kiến nghị của cử tri tỉnh Vĩnh Phúc, hiện nay, Bộ đã có kế hoạch sửa đổi các vãn bản về kiểm định và ban hành trong năm.

2. Về việc xem xét ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế Công văn sô 258/BTTTT-KHTC ngày 09/02/2009 của Bộ về định mức xây dựng cơ bản công trình bưu chính, viễn thông:

Theo quy định hiện hành, Bộ TTTT có trách nhiệm ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành TTTT. Hiện nay, Bộ đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án hoàn thiện hệ thống định mức và giá xây dựng chuyên ngành thông tin và truyền thông (Quyết định số 2179/QĐ-BTTTT ngày 20/12/2018). Nhiệm vụ của Đề án là rà soát các bộ định mức xây dựng chuyên ngành thông tin và truyền thông đã công bổ; hệ thống chuẩn hóa lại quy ước mã hiệu định mức; loại bỏ, hiệu chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các bộ định mức chuyên ngành đã ban hành hoặc công bố của Bộ TTTT và các đon vị có liên quan; Xây dựng các bộ định mức xây dựng chuyên ngành TTTT theo đề xuất của các đơn vị, địa phương để ban hành, áp dụng; Xây dựng các bộ đơn giá chuyên ngành thông tin và truyền thông để các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan áp dụng.

Theo Kế hoạch trên thì Bộ định mức xây dựng cơ bản công trình bưu chính, viễn thông công bố kèm theo công văn sổ 258/BTTTT-KHTC ngày 09/02/2009 cũng thuộc danh mục sẽ được rà soát lại, thống nhất với các bộ ngành liên quan để ban hành lại.

3. Về việc hướng dẫn cách xác định các định mức đối với các hạng mục thu hôi, tháo dỡ, bảo dưỡng đối với hệ thống thông tin liên lạc, công trình viễn thông cũ:

Khoản 2, Điều 19 của Nghị định số 32/2015/NĐ-CP ngày 25/3/2015 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng đã quy định: Bộ quản lý chuyên ngành xây dựng, UBND tỉnh/thành phố tổ chức lập và công bố định mức xây dựng cho công việc đặc thù chuyên ngành của ngành và địa phương. Do đó, việc xây dựng định mức tháo dỡ, thu hồi công trình viễn thông gắn với địa hình và tình hình thực tế triển khai từng địa phương, nên việc xây dựng và ban hành định mức tại địa phương, tỉnh Vĩnh Phúc cần chủ động xây dựng thực hiện là phù hợp với quy định.

Câu 21. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Hiện nay, nhiều kênh truyền hình công chiếu những bộ phim có nội dung bạo lực, trái với luân thường đạo lý của dân tộc gây phản cảm không có tính giáo dục. Đề nghị tăng cường công tác kiểm duyệt, thanh kiểm tra phát hiện và xử lý hành vi lợi ích nhóm.

Trả lời: Tại Công văn số 705/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

Những năm qua, hệ thống phát thanh, truyền hình trong toàn quốc có sự phát triển nhanh cả về số lượng, nội dung, chất lượng chương trình. Hiện nay, cả nước có 67 Đài Phát thanh - Truyền hình Trung ương và địa phương; với 278 kênh phát thanh, truyền hình trong nước (87 kênh phát thanh, 191 kênh truyền hình; 69 kênh truyền hình nước ngoài được cấp phép biên tập để cung cấp trên dịch vụ truyền hình trả tiền.

Có thể thấy rằng việc chiếu phim trên truyền hình là nhằm mục đích phục vụ nhu cầu giải trí của khán giả xem truyền hình. Thời gian qua, số lượng phim có chất lượng cả về nội dung, hình ảnh, âm thanh... phát sóng trên truyền hình đặc biệt là phim Việt Nam ngày càng tăng thúc đẩy ngành công nghiệp sản xuất phim Việt Nam phát triển cũng như tạo doanh thu cho các nhà Đài thông qua quảng cáo trong khung giờ phát sóng phim.

- Bên cạnh những mặt tích cực thì những bộ phim có tính giáo dục cao, có tính định hướng lối sống lành mạnh, chân, thiện, mỹ cho khán giả, đặc biệt là giới trẻ Việt Nam vẫn còn chưa nhiều. Một số phim có nội dung tẻ nhạt, kém hấp dẫn khán giả; thậm chí có phim có những cảnh phản cảm, không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam. Tỷ trọng chiếu phim trong nước và phim nước ngoài trên truyền hình còn chênh lệch tương đối lớn. Việc chiếu quá nhiều phim nước ngoài trên truyền hình vô hình chung có khả năng tác động đến nhận thức tư tưởng, lối sống của người dân, đặc biệt là đối với giới trẻ nhạy cảm và dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa mới du nhập từ nước ngoài, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hóa dân tộc.

Với trách nhiệm là cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, phát thanh, truyền hình, trong thời gian tới, Bộ TTTT sẽ tăng cường triển khai thực hiện một số giải pháp sau:

1. Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật: Hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng và trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 06/2016/NĐ-CP ngày 18/01/2016 về quản lý dịch vụ phát thanh truyền hình trả tiền, trong đó có nội dung hướng dẫn nguyên tắc thực hiện biên tập phân loại và cảnh báo nội dung trên dịch vụ phát thanh truyền hình. Đây có thể được coi là cơ sở để thực hiện việc biên tập, loại bỏ những hình ảnh, những nội dung phản cảm, bạo lực....

2. Chỉ đạo, định hướng các Đài Phát thanh, Truyền hình tỉnh, thành phố nhằm nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình của địa phương; đề nghị người đứng đầu - Tổng Giám đốc/Giám đốc các Đài Phát thanh và Truyền hình nâng cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác kiểm duyệt nội dung, loại bỏ những bộ phim/đoạn phim có nội dung bạo lực, trái luân thường đạo lý của dân tộc, gây phản cảm, không có tính giáo dục.

3. Tăng cường tổ chức bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ biên tập viên các Đài PTTH địa phương, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị để chọn phim phù hợp.

4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra phát hiện nhằm kịp thời chấn chỉnh, nhắc nhở các Đài PTTH. Trong quá trình thực hiện cấp phép lại cho các đài phát thanh, truyền hình, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tiếp tục điều chỉnh, đảm bảo tỷ lệ cân đối về thời lượng phát sóng các chương trình phim truyện và các chương trình khác, góp phần giúp các đài vừa thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích kênh chương trình, bảo đảm nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền thiết yếu, vừa bảo đảm đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí của người xem truyền hình.

5. Đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, với trách nhiệm là cơ quan quản lý nhà nước về điện ảnh ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích nâng cao chất lượng phim Việt Nam như cơ chế, chính sách về giá để có giá hợp lý đối với phim Việt Nam trên truyền hình, cơ chế kiểm soát tốt phim nhập khẩu vào Việt Nam...

6. Đề nghị các đại biểu Quốc hội, với vai trò, trách nhiệm của mình, phối hợp với cơ quan chủ quản và các cơ quan chức năng của địa phương tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát để các Đài PTTH địa phương hoạt động tốt, đúng định hướng. Đồng thời, cung cấp thêm thông tin những kênh truyền hình đã phát các bộ phim có tính bạo lực trái luân thường đạo lý, gây phản cảm để cơ quan chức năng theo dõi và có biện pháp kịp thời xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật. 

Câu 22. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri cho rằng tình trạng thông tin trên mạng xã hội ngày càng phức tạp nhiều trang mạng có nội dung xuyên tạc về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chỉ trích bôi nhọ hình ảnh của một số vị trí lãnh đạo Đảng, Nhà nước gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân. Cử tri kiến nghị tăng cường công tác kiểm tra, quản lý và có chế tài xử lý nghiêm những vi phạm, có giải pháp ngăn chặn, quản lý chặt chẽ và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ để định hướng cho nhân dân hiểu, góp phần đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Trả lời: Tại Công văn số 705/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

Bộ TTTT thường xuyên chỉ đạo, định hướng các cơ quan báo chí tăng cường thông tin những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước, nỗ lực trong công tác điều hành của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế, xã hội, chăm lo đời sống người dân, kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tình hình an ninh trật tự xã hội… nhằm góp phần tăng niềm tin của người dân, tạo sự đồng thuận của người dân với các chủ trương, chính sách và công tác điều hành đất nước, cung cấp cho người dân đầy đủ thông tin để đánh giá đúng tình hình, không bị các thế lực thù địch lợi dụng. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan tăng cường công tác quản lý an ninh mạng, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi cố tình đưa tin sai sự thật, gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng, xã hội. Chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường công tác hậu kiểm, xử lý các hành vi vi phạm, đặc biệt là việc xử lý các đối tượng có hành vi sai trái, phát ngôn thiếu chuẩn mực trên mạng xã hội. Từ đầu năm 2019 đến nay, Bộ đã xử lý  01 trường hợp cung cấp thông tin, hình ảnh sai sự thật trên facebook về việc chế biến, bày bán lợn nhiễm dịch tả lợn Châu Phi tại Hà Nội và kêu  gọi "tẩy chay" thịt lợn vì có thể lây sang người trên của trang fanpage  Đầm bầu Thời trang Mami. Phối hợp xử lý trường hợp cung cấp thông tin sai sự thật trên mạng facebook; Công an tỉnh Điện Biên xử lý trường hợp sử dụng mạng facebook để trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm xuyên tạc, vu khống, xúc phạm nhân phẩm, uy tín của người khác.

Bộ TTTT cũng thường xuyên đề nghị các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện đúng quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin; đồng thời, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương chủ động mời đại diện các bộ, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đến dự họp giao ban báo chí hằng tuần để cung cấp thông tin kịp thời về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là những chủ trương, chính sách, văn bản mới được ban hành, những vấn đề mà dư luận quan tâm để lãnh đạo các cơ quan báo chí nắm rõ, tổ chức thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ đến nhân dân nhằm cảnh báo và định hướng dư luận xã hội, đặc biệt là các thông tin liên quan đến an ninh chính trị, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội và sức khỏe cộng đồng.

Câu 23. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri cho rằng tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức trong xã hội ngày càng nghiêm trọng; tình hình tội phạm, nhất là trong độ tuổi thanh thiếu niên diễn biến phức tạp, nguyên nhân không nhỏ là do mạng Internet, các phương tiện truyền thông chứa đựng quá nhiều nội dung độc hại, bạo lực. Kiến nghị quản lý chặt chẽ các nội dung xấu, độc hại phát tán trên mạng; kiểm duyệt nghiêm nội dung chương trình, hạn chế các bộ phim bạo lực...

Trả lời: Tại Công văn số 709/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

1) Về việc quản lý chặt chẽ nội dung thông tin trên mạng:

a. Thực trạng, phân loại thông tin cung cấp trên mạng

Nội dung thông tin trên mạng hiện nay được cung cấp bởi các cơ quan báo chí trong nước (gồm báo chí in, báo chí điện tử và phát thanh, truyền hình) và từ truyền thông xã hội (do các tổ chức, cá nhân trong nước và mạng xã hội nước ngoài). Với hai nguồn cung cấp như trên, tác động của từng nguồn đối với xã hội cũng khác nhau.

 Qua theo dõi thông tin trên mạng, Bộ TTTT thấy các thông tin tiêu cực như thông tin sai lệch, xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá nhân, thông tin phản cảm, vi phạm thuần phong mỹ tục Việt Nam, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước... chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài, đặc biệt là trên Facebook và Google.

Nguyên nhân của vấn đề này là do nhận thức của người sử dụng cho rằng mạng xã hội là môi trường ảo nên có thể tự do phát ngôn mà không phải chịu trách nhiệm.

b. Các biện pháp Bộ TTTT đã triển khai:

- Tham mưu Quốc hội, Chính phủ ban hành, sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm tăng cường quản lý Internet và thông tin trên mạng gồm:

+ Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 01/3/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.

+ Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016 quy định chi tiết về việc cung cấp thông tin công cộng qua biên giới, tạo cơ sở pháp lý để yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp thông tin qua biên giới phải có trách nhiệm phối hợp, gỡ bỏ thông tin vi phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam.

+ Bộ  đang nghiên cứu, trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 159/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí, xuất bản; Nghị định số 174/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.

- Tăng cường công tác hậu kiểm, xử lý các hành vi vi phạm, đặc biệt là việc xử lý các đối tượng có hành vi sai trái, phát ngôn thiếu chuẩn mực trên mạng xã hội như: nhắc nhở, rút kinh nghiệm; xử phạt vi phạm hành chính, thu hồi giấy phép, thu hồi tên miền, v.v...

- Triển khai các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn nguồn phát tán thông tin vi phạm: chỉ đạo, điều phối các ISP tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống kỹ thuật “chặn lọc” thông tin trên mạng Internet để đồng bộ, điều phối các ISP về mặt kỹ thuật để thống nhất ngăn chặn các nguồn phát tán thông tin vi phạm.

- Bộ đã và đang tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp tại Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (Cục An toàn thông tin) nhằm thực hiện công tác giám sát nội dung thông tin và giám sát kỹ thuật an toàn, an ninh mạng. Hiện tại, Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia đang thực hiện giám sát an toàn thông tin trên toàn bộ không gian mạng Việt Nam, thiết lập mạng lưới giám sát an toàn thông tin mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên thông, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giám sát tập trung giữa các hệ thống giám sát của cơ quan, tổ chức và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng, Nhà nước. Thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích, theo dõi và dự báo, cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không gian mạng Việt Nam; hệ thống mạng lưới chia sẻ và phân tích các mối nguy hại về an toàn thông tin; là đầu mối tiếp nhận, chia sẻ thông tin với các tổ chức quốc tế và giữa các cơ quan, tổ chức tại Việt Nam; thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu về tình hình an toàn thông tin trong nước và quốc tế.

- Yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như Facebook, Google thiết lập đầu mối tại Việt Nam và có cơ chế xử lý riêng dành cho Chính phủ Việt Nam để ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin vi phạm quy định pháp luật Việt Nam. Gần đây nhất, Phó chủ tịch Facebook cam kết sẽ hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam để giải quyết các vấn đề còn tồn tại và sẽ hình thành nhóm làm việc chung giữa Facebook với cơ quan quản lý Việt Nam.

- Tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra các công ty truyền thông, quảng cáo lớn trong nước, nhằm chấn chỉnh và yêu cầu không quảng cáo trên các trang mạng nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam có nội dung không phù hợp với pháp luật Việt Nam như Facebook và Google.

- Chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền thông tăng cường tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm cho người sử dụng Internet và mạng xã hội.

c. Những bất cập, khó khăn đối với công tác quản lý thông tin trên mạng trong giai đoạn hiện nay.

- Hạn chế về các giải pháp kỹ thuật khiến cho việc xác định, xử lý đối tượng vi phạm trên môi trường mạng gặp nhiều khó khăn, nhất là trên các mạng xã hội nước ngoài.

- Các đối tượng phát tán thông tin thường xuyên tận dụng những thay đổi, những bước phát triển mới về công nghệ để cải tiến các hình thức phát tán thông tin.

- Người dân ngày càng phụ thuộc vào các mạng xã hội nước ngoài, đặc biệt là Facebook và Youtube, trong bối cảnh nước ta chưa có các dịch vụ tương tự phục vụ nhu cầu sử dụng của nhân dân.

- Chưa có hệ thống theo dõi, giám sát, phát hiện, phân tích thông tin vi phạm trên môi trường mạng để cảnh báo, dự báo các tình huống phát sinh có thể xảy ra do việc phát tán các thông tin xấu độc; chưa có giải pháp hiệu quả ngăn chặn dòng tiền quảng cáo phục vụ cho các mục đích xấu trên các mạng xã hội nước ngoài cung cấp tại Việt Nam do những bất cập trong các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động thanh toán, chuyển tiền giữa ngân hàng trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. 

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý Internet và thông tin trên mạng còn chưa theo kịp sự phát triển của thực tế; chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm còn thấp, chưa đủ tính răn đe.

- Việc xác định đối tượng vi phạm trên môi trường mạng còn gặp nhiều khó khăn, nhất là trên các mạng xã hội nước ngoài khi đối tượng vi phạm thường ẩn danh hoặc giả mạo người khác gây khó khăn trong công tác điều tra.

- Các mạng xã hội nước ngoài như Facebook, Google đang cung cấp dịch vụ cho người dùng Việt Nam nhưng không có văn phòng đại diện nên việc phối hợp để ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật trên các nền tảng dịch vụ mạng xã hội của nước ngoài chưa đạt hiệu quả cao.

d. Giải pháp triển khai trong thời gian tới

- Sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quản lý về thông tin điện tử: Nghị định số 72/2013/NĐ-CP và Nghị định số 27/2018/NĐ-CP, Nghị định số 174/2013/NĐ-CP.

- Chỉ đạo các nhà mạng triển khai các giải pháp kỹ thuật mới để ngăn chặn hiệu quả sự phát tán của thông tin xấu độc, phản cảm trên các trang web, mạng xã hội có tên miền quốc tế, đặt máy chủ ở nước ngoài.

- Đầu tư trang thiết bị, công cụ, phần mềm đánh giá xếp hạng trang thông tin điện tử và nội dung thông tin trên mạng, nhằm thiết lập công cụ trong việc đánh giá, quản lý nội dung thông tin trên mạng (đối với các hệ thống trang mạng được nhà nước Việt Nam cấp phép hoạt động).

- Xây dựng chính sách ưu tiên phát triển mạng xã hội trong nước, tích hợp nhiều dịch vụ khác để thu hút người Việt Nam sử dụng, có khả năng cạnh tranh với mạng xã hội nước ngoài; xây dựng hệ sinh thái nội dung số thuần Việt, từ đó chủ động trong công tác quản lý nội dung.

- Tổ chức giao ban, hội thảo định kỳ với các doanh nghiệp lớn cung cấp dịch vụ nội dung số: trang tin tổng hợp, mạng xã hội, trò chơi điện tử, cung cấp dịch vụ nội dung trên di động để trao đổi, đề xuất các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp.

- Tiếp tục yêu cầu với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới yêu cầu phải có đầu mối tiếp nhận thông tin vi phạm tại Việt Nam giúp quy trình xử lý, gỡ bỏ thông tin vi phạm được nhanh và hiệu quả hơn. Ngoài ra, Bộ TTTT cũng đã yêu cầu Youtube bỏ chức năng "gợi ý” (suggest) đề xuất với các nội dung của các kênh xấu độc, tin giả (fake news). 

- Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân về hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, xấu, độc hại, phản cảm trên mạng xã hội. 

- Tăng cường sự phối hợp, tham gia quản lý của các Bộ, ngành để việc quản lý nội dung, dịch vụ trên mạng đạt hiệu quả, theo đó, phân cấp trách nhiệm của các Bộ, ngành có liên quan như sau:

+ Bộ TTTT: Là cơ quan chịu trách nhiệm đầu mối quản lý, xử lý thông tin vi phạm nói chung theo quy định về quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin trên mạng;

+ Bộ Công an: Điều tra, phối hợp để xác định hành vi, nhân thân vi phạm, chuyển Bộ TTTT để xử lý vi phạm hành chính đối với những trường hợp xác định không xử lý hình sự.

+ Sở TTTT các tỉnh, thành phố: Phối hợp với Bộ TTTT và các Sở chức năng tại địa phương để xử lý đối với vi phạm xuất phát tại địa phương hoặc cá nhân vi phạm ở địa phương.

+ Các Bộ, ngành khác căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình cần phối hợp với Bộ TTTT để xử lý các thông tin vi phạm chuyên ngành liên quan đến thuế, thanh toán trực tuyến, thương mại điện tử.

2) Đối với nội dung kiểm duyệt nghiêm nội dung chương trình, hạn chế các bộ phim bạo lực:

Trong thời gian tới, Bộ TTTT sẽ tăng cường triển khai thực hiện một số giải pháp sau:

a. Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật: Hiện nay, Bộ TTTT đã xây dựng và trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 06/2016/NĐ-CP ngày 18/01/2016 về quản lý dịch vụ phát thanh truyền hình trả tiền, trong đó có nội dung hướng dẫn nguyên tắc thực hiện biên tập phân loại và cảnh báo nội dung trên dịch vụ phát thanh truyền hình. Đây có thể được coi là cơ sở để thực hiện việc biên tập, loại bỏ những hình ảnh, những nội dung phản cảm, bạo lực....

b. Chỉ đạo, định hướng các Đài Phát thanh, Truyền hình tỉnh, thành phố nhằm nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình của địa phương; đề nghị người đứng đầu - Tổng Giám đốc/Giám đốc các Đài Phát thanh và Truyền hình nâng cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác kiểm duyệt nội dung, loại bỏ những bộ phim/đoạn phim có nội dung bạo lực, trái luân thường đạo lý của dân tộc, gây phản cảm, không có tính giáo dục.

c. Tăng cường tổ chức bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ biên tập viên các Đài PTTH địa phương, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị để chọn phim phù hợp.

d. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra phát hiện nhằm kịp thời chấn chỉnh, nhắc nhở các Đài PTTH. Trong quá trình thực hiện cấp phép lại cho các đài phát thanh, truyền hình, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tiếp tục điều chỉnh, đảm bảo tỷ lệ cân đối về thời lượng phát sóng các chương trình phim truyện và các chương trình khác, góp phần giúp các đài vừa thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích kênh chương trình, bảo đảm nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền thiết yếu, vừa bảo đảm đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí của người xem truyền hình.

đ. Đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, với trách nhiệm là cơ quan quản lý nhà nước về điện ảnh ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích nâng cao chất lượng phim Việt Nam như cơ chế, chính sách về giá để có giá hợp lý đối với phim Việt Nam trên truyền hình, cơ chế kiểm soát tốt phim nhập khẩu vào Việt Nam...

e. Đề nghị các đại biểu Quốc hội, với vai trò, trách nhiệm của mình, phối hợp với cơ quan chủ quản và các cơ quan chức năng của địa phương tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát để các Đài PTTH địa phương hoạt động tốt, đúng định hướng. Đồng thời, cung cấp thêm thông tin những kênh truyền hình đã phát các bộ phim có tính bạo lực trái luân thường đạo lý, gây phản cảm để cơ quan chức năng theo dõi và có biện pháp kịp thời xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật.

Câu 24. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Đề nghị Bộ TTTT phối hợp với các nước hình thành trung tâm An toàn an ninh mạng khu vực ASEAN; xây dựng Đề án chuyển đổi số quốc gia; xây dựng chính sách ưu tiên phát triển mạng xã hội trong nước; thúc đẩy phát triển hệ sinh thái số Việt Nam. Chỉ đạo các cơ quan báo chí tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, đề cao giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp, kịp thời cung cấp thông tin chính thống để tạo đồng thuận xã hội và thực hiện, thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

Trả lời: Tại Công văn số 706/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

- Đối với kiến nghị hình thành trung tâm An toàn an ninh mạng khu vực ASEAN:

Tháng 9/2018, trong khuôn khổ Hội nghị WEF ASEAN, Việt Nam đã nêu ra sáng kiến hình thành Trung tâm chia sẻ thông tin và phân tích về nguy cơ, rủi ro mất an toàn thông tin cho các nước ASEAN, trên cơ sở đó từng bước hình thành Trung tâm an toàn, an ninh mạng ASEAN (ASEAN Cybersecurity Hub) tại Việt Nam.

Nhằm cụ thể hóa sáng kiến trên, trong tháng 12/2018, Bộ TTTT đã tổ chức các đoàn làm việc song phương với các nước Campuchia, Lào, Myanmar (CLM) để nắm bắt hiện trạng, nhu cầu của các nước và mời các nước này tham gia. Trong năm 2019, Bộ TTTT đang nghiên cứu, xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ Đề án “Xây dựng Trung tâm phân tích và chia sẻ thông tin an toàn thông tin ASEAN giai đoạn 2019-2020 và tầm nhìn 2025” để triển khai thực hiện.

- Về xây dựng Đề án Chuyển đổi số quốc gia:

Bộ TTTT ghi nhận kiến nghị của cử tri và nhận thấy sự cấp thiết và quan trọng của việc xây dựng Đề án Chuyển đổi số quốc gia. Hiện tại, Bộ đang gấp rút nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, các chuyên gia trong và ngoài nước để xây dựng đề án. Đề án Chuyển đổi số quốc gia đã được Bộ đăng ký vào Chương trình công tác của Chính phủ năm 2019 và sẽ trình Chính phủ vào tháng 11/2019.

- Xây dựng chính sách ưu tiên phát triển mạng xã hội trong nước; thúc đẩy phát triển hệ sinh thái số Việt Nam:

+ Bộ TTTT đã tiến hành xây dựng Đề án “Thúc đẩy phát triển hệ sinh thái nội dung số” nhằm mục đích đánh giá hiện trạng ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam, xác định mô hình phát triển hệ sinh thái nội dung số phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và trình độ phát triển công nghệ của Việt Nam nhằm phát triển hệ sinh thái nội dung số trong nước lớn mạnh. Hiện nay, Bộ đã xây dựng phiên bản 1.0 dự thảo Đề án và đang xin ý kiến một số Hiệp hội, doanh nghiệp và một số đơn vị liên quan để hoàn thiện dự thảo trong năm 2019.

+ Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại buổi làm việc với Bộ TTTT về tình hình hoạt động và định hướng phát triển ngành thông tin và truyền thông trong thời gian tới, Bộ TTTT đã thành lập Tổ công tác thúc đẩy phát triển hệ sinh thái số Việt Nam với nhiệm vụ thúc đẩy phát triển 05 nhóm sản phẩm, dịch vụ gồm: Tìm kiếm thông tin; Mạng xã hội; Trình duyệt Web; Hệ điều hành; Phần mềm chống mã độc nhằm nghiên cứu tổng hợp kinh nghiệm quốc tế, thông tin thị trường và tham mưu, đề xuất về lộ trình, biện pháp cụ thể để thúc dẩy phát triển hệ sinh thái số Việt Nam. Tổ công tác đã làm việc với một số doanh nghiệp trong và ngoài nước để nghiên cứu kinh nghiệm và hướng phát triển trong đó tập trung vào 02 nội dung chính là Mạng xã hội và Công cụ tìm kiếm.

+ Bộ TTTT cũng thường xuyên tiếp xúc, trao đổi với các doanh nghiệp nội dung số nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, tiếp thu các ý kiến đề xuất của doanh nghiệp để hoàn thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực nội dung số đồng thời thúc đẩy và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp CNTT nói chung và doanh nghiệp nội dung số nói riêng phát triển, đóng góp cho sự phát triển của hệ sinh thái số Việt Nam.

- Về nhiệm vụ chỉ đạo các cơ quan báo chí tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, đề cao giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp, kịp thời cung cấp thông tin chính thống để tạo đồng thuận xã hội và thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra:

Thời gian qua các cơ quan báo, đài đã bám sát thực tiễn đời sống xã hội, định hướng tư tưởng cho nhân dân nhiệm vụ chính trị của Đảng, Chính phủ và địa phương; tích cực tuyên truyền, phản ánh nhiều chiều, phong phú, đa dạng mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, an ninh quốc phòng. Các kênh phát thanh, kênh truyền hình thực sự là phương tiện thông tin tuyên truyền nhanh, nhạy của Đảng và Nhà nước, phục vụ kịp thời, có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của đất nước và địa phương.

Các cơ quan báo, đài đã chú trọng, tích cực, chủ động, kịp thời truyền tải, thông tin tuyên truyền đầy đủ các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các Nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, phản ánh đậm nét những diễn biến quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước; có nhiều tin, bài liên quan đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; thực hiện ngày càng có hiệu quả chức năng giám sát, phản biện xã hội, góp phần phản ánh góc nhìn của đông đảo các tầng lớp nhân dân đối với việc xây dựng, ban hành và thực thi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, đã nhấn mạnh quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai” trong việc đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhất là việc chủ động thông tin về kết quả kiểm tra, xử lý các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên sai phạm; về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế; về những vấn đề nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm, giúp định hướng tốt dư luận xã hội; để người dân hiểu rõ hơn về những khó khăn, phức tạp của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng cũng như khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước, tạo dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ đối với công tác phòng, chống tham nhũng.

Các cơ quan báo, đài kịp thời chuyển tải các hoạt động của Quốc hội đến cử tri và nhân dân cả nước; thông tin, tuyên truyền các biện pháp và sự chỉ đạo quyết liệt toàn diện của Chính phủ trên các lĩnh vực để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội đất nước; tích cực phát hiện, cổ vũ nhân tố mới, điển hình tiên tiến, thành tựu trong công cuộc đổi mới; đẩy mạnh các hoạt động thông tin đối ngoại, tổ chức tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và thành tựu đổi mới của đất nước ta với bạn bè quốc tế và đồng bào ta sinh sống ở nước ngoài trên hệ thống báo chí, nhất là khối báo chí đối ngoại bằng nhiều hình thức, loại hình và ngôn ngữ khác nhau và cả trên mạng xã hội, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhiệm vụ thông tin hai chiều giữa Việt Nam và thế giới, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin và truyền thông, trong thời gian tới, Bộ TTTT sẽ định hướng, chỉ đạo các cơ quan báo chí tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, đề cao giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp, kịp thời cung cấp thông tin chính thống để tạo đồng thuận xã hội và thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ đề ra. Thực hiện quyết liệt một số giải pháp, trong đó, tập trung:

- Triển khai, thực hiện sắp xếp cơ quan báo chí theo Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025; nghiên cứu phát triển nhóm cơ quan báo chí chủ lực, tiên phong trở thành những cơ quan báo chí đa phương tiện mạnh, đủ năng lực chiếm lĩnh mặt trận thông tin, làm tốt công tác định hướng dư luận xã hội, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

- Đẩy mạnh công tác hậu kiểm, thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra trên diện rộng, trong đó tập trung thanh tra, kiểm tra tình trạng các trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội có tình trạng “báo hoá”...

- Tăng cường ứng dụng công nghệ như sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI),  định lượng đo lường khán giả (rating)... trong quản lý, đánh giá hiệu quả nội dung thông tin, ngăn chặn thông tin sai sự thật, thông tin xấu, độc.

- Yêu cầu các cơ quan báo, đài bám sát định hướng, tôn chỉ, mục đích; các vấn đề, sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục về chính trị, tư tưởng, tích cực phát hiện, cổ vũ nhân tố mới, điển hình tiên tiến, thành tựu trong cuộc đổi mới; đẩy mạnh đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc; thực hiện có hiệu quả chức năng tham gia giám sát, phản biện xã hội, đấu tranh kiên quyết với những hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực bằng nhiều phương thức, hình thức; cân bằng tỷ lệ thông tin tốt - xấu, với mục tiêu thông tin tốt, tích cực là dòng chảy chính của xã hội và hãy luôn là thông tin có kiểm chứng nhằm thay màu bức tranh toàn cảnh thông tin nước ta từ “gam tối” sang “gam tươi sáng”, tạo ý chí thống nhất, đồng thuận, tạo niềm tin và khát vọng dân tộc để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, xứng đáng là lực lượng tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa.

- Đề nghị các cơ quan báo, đài nghiên cứu, nắm bắt xu hướng, khai thác tối đa nền tảng Internet, đẩy mạnh phát triển sản phẩm báo chí của mình; coi mạng xã hội như một đối tượng để cạnh tranh về thông tin nhưng đồng thời lại phải chủ động phối hợp, cung cấp thông tin tích cực trên mạng xã hội và trên môi trường Internet nhằm tạo ra sự cộng hưởng tốt, sự lan toả với thông tin trên báo chí.

- Yêu cầu các cơ quan báo, đài chuẩn hoá quy trình sản xuất, biên tập nội dung tin, bài, kho dữ liệu thông tin dùng chung, ...; hạn chế các sai sót về nội dung thông tin. Cơ quan báo chí và các nhà báo cần nâng cao vai trò, trách nhiệm trong việc vạch trần và dập tắt các tin giả, tin không đúng sự thật trên mạng; không thực hiện bóp méo, làm sai lệch thông tin và tăng cường cung cấp thông tin nhanh nhạy nhưng vẫn bảo đảm tính trung thực, chính xác.

- Đề nghị người đứng đầu cơ quan báo chí cần nâng cao vai trò và trách nhiệm của mình theo đúng quy định về mọi hoạt động của cơ quan báo chí trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn; thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về báo chí. Tăng cường quản lý hoạt động của đội ngũ phóng viên, biên tập viên và cộng tác viên, siết chặt kỷ luật trong quá trình tác nghiệp; có biện pháp kỷ luật nghiêm khắc đối với các tổ chức, cá nhân để xảy ra vi phạm; thực hiện rà soát, đánh giá và hoàn thiện các quy trình, quy chế liên quan tới việc sản xuất, đăng, phát thông tin.

Câu 25. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Cử tri phản ánh hiện nay, mỗi tháng người dân phải trả chi phí dịch vụ truyền hình cáp cho các nhà cung cấp, tuy nhiên tình trạng chèn quảng cáo quá nhiều vào các Chương trình phát sóng của các nhà đài, có chương trình phát sóng trong 1 giờ thì quảng cáo đã mất 30 phút gây nhiều bức xúc cho người dân. Cử tri đề nghị Bộ TTTT cần có biện pháp để hạn chế quảng cáo trên các kênh truyền hình để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng.

Trả lời: Tại Công văn số 710/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

Căn cứ Nghị định số 06/2016/NĐ-CP ngày 18/01/2016 của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ phát thanh, truyền hình, đơn vị cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình là doanh nghiệp được thành lập theo quy định pháp luật Việt Nam đủ điều kiện cung cấp dịch vụ. Khi cung cấp dịch vụ, các doanh nghiệp phải truyền tải nguyên vẹn nội dung các kênh truyền hình. Các nội dung cung cấp trên dịch vụ phát thanh truyền hình phải được cơ quan báo chí biên tập trước khi cung cấp và phải tuân thủ các quy định pháp luật về báo chí tại Luật Báo chí năm 2016.

Đối với quảng cáo trên các kênh truyền hình: Các nội dung quảng cáo trên dịch vụ phát thanh, truyền hình đều phải tuân thủ các quy định pháp luật về quảng cáo tại Luật Quảng cáo năm 2012.

Trên cơ sở đó, đề nghị cử tri cung cấp thông tin cụ thể về các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trên các kênh chương trình có nhiều quảng cáo để Bộ TTTT xác minh và chấn chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền của các doanh nghiệp.

Hiện nay, Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 159/2013/NĐ-CP đang được Bộ TTTT hoàn thiện, đã bổ sung các hành vi vi phạm và điều chỉnh các mức phạt và các hình thức xử lý bổ sung như: thu hồi giấy phép, đình chỉ giấy phép…

Trong thời gian tới, Bộ TTTT sẽ tiếp tục tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực phát thanh truyền hình, đặc biệt sẽ tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng liên quan khác của Bộ Y tế, Bộ Công thương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch… để tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực quảng cáo trên truyền hình.

Câu 26. Cử tri tỉnh Hà Nam kiến nghị: Đề nghị có giải pháp ngăn chặn những hình ảnh và thông tin xấu độc, bôi nhọ đất nước trên mạng xã hội (Vì đây thực sự là cuộc chiến chống thủ đoạn diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch).

Trả lời: Tại Công văn số 707/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

1. Thực trạng, phân loại thông tin cung cấp trên mạng

Nội dung thông tin trên mạng hiện nay được cung cấp bởi các cơ quan báo chí trong nước (gồm báo chí in, báo chí điện tử và phát thanh, truyền hình) và từ truyền thông xã hội (do các tổ chức, cá nhân trong nước và mạng xã hội nước ngoài). Với hai nguồn cung cấp như trên, tác động của từng nguồn đối với xã hội cũng khác nhau.

 Qua theo dõi thông tin trên mạng, Bộ TTTT thấy các thông tin tiêu cực như thông tin sai lệch, xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá nhân, thông tin phản cảm, vi phạm thuần phong mỹ tục Việt Nam, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước... chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài, đặc biệt là trên Facebook và Google.

Nguyên nhân của vấn đề này là do nhận thức của người sử dụng cho rằng mạng xã hội là môi trường ảo nên có thể tự do phát ngôn mà không phải chịu trách nhiệm.

2. Các biện pháp Bộ đã triển khai:

- Tham mưu Quốc hội, Chính phủ ban hành, sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm tăng cường quản lý Internet và thông tin trên mạng gồm:

+ Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 01/3/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.

+ Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016 quy định chi tiết về việc cung cấp thông tin công cộng qua biên giới, tạo cơ sở pháp lý để yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp thông tin qua biên giới phải có trách nhiệm phối hợp, gỡ bỏ thông tin vi phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam.

+ Bộ đang nghiên cứu, trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 159/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí, xuất bản; Nghị định số 174/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.

- Tăng cường công tác hậu kiểm, xử lý các hành vi vi phạm, đặc biệt là việc xử lý các đối tượng có hành vi sai trái, phát ngôn thiếu chuẩn mực trên mạng xã hội như: nhắc nhở, rút kinh nghiệm; xử phạt vi phạm hành chính, thu hồi giấy phép, thu hồi tên miền, v.v...

- Triển khai các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn nguồn phát tán thông tin vi phạm: chỉ đạo, điều phối các ISP tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống kỹ thuật “chặn lọc” thông tin trên mạng Internet để đồng bộ, điều phối các ISP về mặt kỹ thuật để thống nhất ngăn chặn các nguồn phát tán thông tin vi phạm.

- Bộ đã và đang tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp tại Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (Cục An toàn thông tin) nhằm thực hiện công tác giám sát nội dung thông tin và giám sát kỹ thuật an toàn, an ninh mạng. Hiện tại, Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia đang thực hiện giám sát an toàn thông tin trên toàn bộ không gian mạng Việt Nam, thiết lập mạng lưới giám sát an toàn thông tin mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên thông, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giám sát tập trung giữa các hệ thống giám sát của cơ quan, tổ chức và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng, Nhà nước. Thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích, theo dõi và dự báo, cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không gian mạng Việt Nam; hệ thống mạng lưới chia sẻ và phân tích các mối nguy hại về an toàn thông tin; là đầu mối tiếp nhận, chia sẻ thông tin với các tổ chức quốc tế và giữa các cơ quan, tổ chức tại Việt Nam; thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu về tình hình an toàn thông tin trong nước và quốc tế.

- Yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như Facebook, Google thiết lập đầu mối tại Việt Nam và có cơ chế xử lý riêng dành cho Chính phủ Việt Nam để ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin vi phạm quy định pháp luật Việt Nam. Gần đây nhất, Phó chủ tịch Facebook cam kết sẽ hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam để giải quyết các vấn đề còn tồn tại và sẽ hình thành nhóm làm việc chung giữa Facebook với cơ quan quản lý Việt Nam.

- Tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra các công ty truyền thông, quảng cáo lớn trong nước, nhằm chấn chỉnh và yêu cầu không quảng cáo trên các trang mạng nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam có nội dung không phù hợp với pháp luật Việt Nam như Facebook và Google.

- Chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền thông tăng cường tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm cho người sử dụng Internet và mạng xã hội.

3. Những bất cập, khó khăn đối với công tác quản lý thông tin trên mạng trong giai đoạn hiện nay

- Hạn chế về các giải pháp kỹ thuật khiến cho việc xác định, xử lý đối tượng vi phạm trên môi trường mạng gặp nhiều khó khăn, nhất là trên các mạng xã hội nước ngoài.

- Các đối tượng phát tán thông tin thường xuyên tận dụng những thay đổi, những bước phát triển mới về công nghệ để cải tiến các hình thức phát tán thông tin.

- Người dân ngày càng phụ thuộc vào các mạng xã hội nước ngoài, đặc biệt là Facebook và Youtube, trong bối cảnh nước ta chưa có các dịch vụ tương tự phục vụ nhu cầu sử dụng của nhân dân.

- Chưa có hệ thống theo dõi, giám sát, phát hiện, phân tích thông tin vi phạm trên môi trường mạng để cảnh báo, dự báo các tình huống phát sinh có thể xảy ra do việc phát tán các thông tin xấu độc; chưa có giải pháp hiệu quả ngăn chặn dòng tiền quảng cáo phục vụ cho các mục đích xấu trên các mạng xã hội nước ngoài cung cấp tại Việt Nam do những bất cập trong các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động thanh toán, chuyển tiền giữa ngân hàng trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. 

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý Internet và thông tin trên mạng còn chưa theo kịp sự phát triển của thực tế; chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm còn thấp, chưa đủ tính răn đe.

- Việc xác định đối tượng vi phạm trên môi trường mạng còn gặp nhiều khó khăn, nhất là trên các mạng xã hội nước ngoài khi đối tượng vi phạm thường ẩn danh hoặc giả mạo người khác gây khó khăn trong công tác điều tra.

- Các mạng xã hội nước ngoài như Facebook, Google đang cung cấp dịch vụ cho người dùng Việt Nam nhưng không có văn phòng đại diện nên việc phối hợp để ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật trên các nền tảng dịch vụ mạng xã hội của nước ngoài chưa đạt hiệu quả cao.

4. Giải pháp triển khai trong thời gian tới

- Sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quản lý về thông tin điện tử: Nghị định số 72/2013/NĐ-CP và Nghị định số 27/2018/NĐ-CP, Nghị định số 174/2013/NĐ-CP.

- Chỉ đạo các nhà mạng triển khai các giải pháp kỹ thuật mới để ngăn chặn hiệu quả sự phát tán của thông tin xấu độc, phản cảm trên các trang web, mạng xã hội có tên miền quốc tế, đặt máy chủ ở nước ngoài.

- Đầu tư trang thiết bị, công cụ, phần mềm đánh giá xếp hạng trang thông tin điện tử và nội dung thông tin trên mạng, nhằm thiết lập công cụ trong việc đánh giá, quản lý nội dung thông tin trên mạng (đối với các hệ thống trang mạng được nhà nước Việt Nam cấp phép hoạt động).

- Xây dựng chính sách ưu tiên phát triển mạng xã hội trong nước, tích hợp nhiều dịch vụ khác để thu hút người Việt Nam sử dụng, có khả năng cạnh tranh với mạng xã hội nước ngoài; xây dựng hệ sinh thái nội dung số thuần Việt, từ đó chủ động trong công tác quản lý nội dung.

- Tổ chức giao ban, hội thảo định kỳ với các doanh nghiệp lớn cung cấp dịch vụ nội dung số: trang tin tổng hợp, mạng xã hội, trò chơi điện tử, cung cấp dịch vụ nội dung trên di động để trao đổi, đề xuất các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp.

- Tiếp tục yêu cầu với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới yêu cầu phải có đầu mối tiếp nhận thông tin vi phạm tại Việt Nam giúp quy trình xử lý, gỡ bỏ thông tin vi phạm được nhanh và hiệu quả hơn. Ngoài ra, Bộ TTTT cũng đã yêu cầu Youtube bỏ chức năng "gợi ý” (suggest) đề xuất với các nội dung của các kênh xấu độc, tin giả (fake news). 

- Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân về hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, xấu, độc hại, phản cảm trên mạng xã hội. 

- Tăng cường sự phối hợp, tham gia quản lý của các Bộ, ngành để việc quản lý nội dung, dịch vụ trên mạng đạt hiệu quả, theo đó, phân cấp trách nhiệm của các Bộ, ngành có liên quan như sau:

+ Bộ TTTT: Là cơ quan chịu trách nhiệm đầu mối quản lý, xử lý thông tin vi phạm nói chung theo quy định về quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin trên mạng;

+ Bộ Công an: Điều tra, phối hợp để xác định hành vi, nhân thân vi phạm, chuyển Bộ TTTT để xử lý vi phạm hành chính đối với những trường hợp xác định không xử lý hình sự.

+ Sở TTTT các tỉnh, thành phố: Phối hợp với Bộ TTTT và các Sở chức năng tại địa phương để xử lý đối với vi phạm xuất phát tại địa phương hoặc cá nhân vi phạm ở địa phương.

+ Các Bộ, ngành khác căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình cần phối hợp với Bộ TTTT để xử lý các thông tin vi phạm chuyên ngành liên quan đến thuế, thanh toán trực tuyến, thương mại điện tử.

Câu 27. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Trong bối cảnh yêu cầu có được cơ sở dữ liệu thông tin thuê bao chính xác để phục vụ công tác đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, góp phần hạn chế tin nhắn rác, bảo vệ quyền lợi của người sử dụng dịch vụ viễn thông. Nghị định số 49/2017/NĐ-CP được ban hành với mục đích sửa đổi, bổ sung một số quy định về quản lý thuê bao di động nhằm khắc phục các kẽ hở pháp lý, tăng tính hiệu quả và khả thi trong công tác quản lý thông tin thuê bao. Thực trạng hiện nay tình trạng tin nhắn rác, thư điện tử rác bắt đầu có xu hướng tăng trở lại, đề nghị Bộ TTTT có phương án xử lý nghiêm, chế tài xử lý đủ sức răn đe các đối tượng tổ chức, cá nhân vi phạm.

Trả lời: Tại Công văn số 704/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

Thời gian qua, Bộ TTTT đã chủ động, tích cực triển khai nhiều giải pháp, hoạt động nhằm hạn chế tình trạng tin nhắn rác, thư điện tử rác cụ thể:

- Về mặt pháp lý: Bộ đang xây dựng Nghị định thay thế cho các Nghị định số 90/2008/NĐ-CP ngày 13/8/2008 về chống thư rác; Nghị định số 77/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 về sửa đổi bổ sung Nghị định số 90/2008/NĐ-CP để phù hợp với thực tế; bổ sung sửa đổi Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện, với các quy định cụ thể nhằm bảo đảm việc đăng ký thông tin thuê bao được thực hiện thuận lợi hơn và chính xác hơn; tăng cường chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm về đăng ký thông tin thuê bao điện thoại di động trả trước.

- Tăng cường quản lý thuê bao trả trước: Nhằm tăng cường công tác quản lý thông tin thuê bao, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, sau khi Nghị định số 49/2017/NĐ-CP được ban hành, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp với các Sở Thông tin và Truyền thông, các doanh nghiệp viễn thông nghiên cứu, khẩn trương triển khai các quy định của Nghị định, đồng thời nghiên cứu, triển khai đồng bộ nhiều biện pháp về quản lý, kinh tế, kỹ thuật khác.

+ Trong tháng 02/2019, trên cơ sở kết quả thanh tra, kiểm tra, Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông đã ra quyết định xử phạt 03 doanh nghiệp viễn thông di động là Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tổng Công ty Viễn thông Mobifone do các sai phạm liên quan đến quản lý thông tin thuê bao.

- Bộ cũng tăng cường xử lý vi phạm đối với các SIM kích hoạt trước nhằm hạn chế việc gửi tin nhắn quảng cáo, tin nhắn rác.

- Đẩy mạnh việc quản lý đối với hoạt động cung cấp dịch vụ nội dung qua tin nhắn: Yêu cầu các doanh nghiệp viễn thông di động, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung phải công khai, minh bạch, niêm yết đầy đủ, chính xác thông tin về dịch vụ, đảm bảo cho người dùng có đủ thông tin, có quyền lựa chọn và từ chối sử dụng dịch vụ. Bằng việc quản lý chặt chẽ dịch vụ nội dung qua tin nhắn sẽ góp phần hạn chế tình trạng tin nhắn rác lừa đảo, trục lợi từ dịch vụ nội dung qua tin nhắn.

- Tuy nhiên, việc nhiều thuê bao có thông tin chưa đầy đủ, chưa chính xác chỉ là một trong số nhiều nguyên nhân (cùng với các nguyên nhân khác như sự phát triển của các dịch vụ OTT, các doanh nghiệp cạnh tranh khuyến mại nạp thẻ tràn lan,...) dẫn tới tình trạng SIM rác, tin nhắn rác vẫn còn xảy ra như cử tri đã phản ánh. Trong thời gian tới Bộ sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị chức năng tích cực nghiên cứu, triển khai các biện pháp kinh tế, kỹ thuật cụ thể như sau:

+ Chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp viễn thông thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật, không khuyến mại cho phát triển thuê bao mới lớn hơn mức khuyến mại cho thuê bao đang hoạt động, không chiết khấu bán hộ KIT thấp hơn giá thành toàn bộ.

+ Nghiên cứu, tổng hợp báo cáo Chính phủ xem xét, điều chỉnh, bổ sung các quy định có liên quan nhằm bảo đảm tính hiệu quả, khả thi của công tác quản lý thông tin thuê bao cụ thể là nghiên cứu, sửa đổi các quy định chưa phù hợp của Nghị định số 49/2017/NĐ-CP, hoàn thiện Nghị định sửa đổi Nghị định số 25/2011/NĐ-CP, trong đó Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tập trung quy định rõ các doanh nghiệp phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc đảm bảo thông tin thuê bao là đầy đủ, chính xác.

+ Xây dựng, triển khai giải pháp công nghệ nhận dạng và xác thực thuê bao chính danh để hạn chế vấn nạn sim rác.

+ Vận hành hệ thống tiếp nhận thông báo tin nhắn rác thông qua đầu số 456 nhằm tiếp nhận phản ánh của người dùng về tin nhắn rác, qua đó có cơ sở để giám sát, phân tích nguồn gốc, cách thức phát tán tin nhắn rác để đề xuất, phối hợp xử lý.

+ Các doanh nghiệp di động xây dựng, triển khai các hệ thống cập nhật, ngăn chặn tin nhắn rác, tối thiểu có khả năng chặn được tin nhắn rác theo nguồn gửi, tần suất, tập mẫu tin nhắn rác dùng chung. Thông qua hệ thống chống tin nhắn rác đã kịp thời phát hiện, ngăn chặn hàng chục triệu tin nhắn rác.

+ Bộ TTTT cũng chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền thông tăng cường tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho người dân về tin nhắn rác; hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực hiện các biện pháp tự bảo vệ mình trước tin nhắn quảng cáo, tin nhắn lừa đảo. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu và các doanh nghiệp nếu để xảy ra vi phạm nhằm hạn chế tối đa tình trạng tin nhắn rác, tin nhắn lừa đảo.

Câu 28. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Cử tri phản ánh tình trạng các trang báo mạng, trang mạng xã hội đăng những thông tin không phù hợp, nhạy cảm, tiêu cực gây ảnh hưởng không tốt cho đối tượng tiếp cận, nhất là lớp trẻ hiện nay. Cử tri kiến nghị Bộ TTTT đẩy mạnh công tác kiểm tra, quản lý chặt chẽ hơn nữa để phát hiện, xử lý các đối tượng tổ chức, cá nhân vi phạm.

Trả lời: Tại Công văn số 704/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

1. Thực trạng, phân loại thông tin cung cấp trên mạng

Nội dung thông tin trên mạng hiện nay được cung cấp bởi các cơ quan báo chí trong nước (gồm báo chí in, báo chí điện tử và phát thanh, truyền hình) và từ truyền thông xã hội (do các tổ chức, cá nhân trong nước và mạng xã hội nước ngoài). Với hai nguồn cung cấp như trên, tác động của từng nguồn đối với xã hội cũng khác nhau.

 Qua theo dõi thông tin trên mạng, Bộ TTTT thấy các thông tin tiêu cực như thông tin sai lệch, xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá nhân, thông tin phản cảm, vi phạm thuần phong mỹ tục Việt Nam, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước... chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài, đặc biệt là trên Facebook và Google.

Nguyên nhân của vấn đề này là do nhận thức của người sử dụng cho rằng mạng xã hội là môi trường ảo nên có thể tự do phát ngôn mà không phải chịu trách nhiệm.

2. Các biện pháp Bộ đã triển khai:

- Tham mưu Quốc hội, Chính phủ ban hành, sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm tăng cường quản lý Internet và thông tin trên mạng gồm:

+ Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 01/3/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.

+ Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016 quy định chi tiết về việc cung cấp thông tin công cộng qua biên giới, tạo cơ sở pháp lý để yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp thông tin qua biên giới phải có trách nhiệm phối hợp, gỡ bỏ thông tin vi phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam.

+ Bộ đang nghiên cứu, trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 159/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí, xuất bản; Nghị định số 174/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.

- Tăng cường công tác hậu kiểm, xử lý các hành vi vi phạm, đặc biệt là việc xử lý các đối tượng có hành vi sai trái, phát ngôn thiếu chuẩn mực trên mạng xã hội như: nhắc nhở, rút kinh nghiệm; xử phạt vi phạm hành chính, thu hồi giấy phép, thu hồi tên miền, v.v...

- Triển khai các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn nguồn phát tán thông tin vi phạm: chỉ đạo, điều phối các ISP tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống kỹ thuật “chặn lọc” thông tin trên mạng Internet để đồng bộ, điều phối các ISP về mặt kỹ thuật để thống nhất ngăn chặn các nguồn phát tán thông tin vi phạm.

- Bộ đã và đang tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp tại Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (Cục An toàn thông tin) nhằm thực hiện công tác giám sát nội dung thông tin và giám sát kỹ thuật an toàn, an ninh mạng. Hiện tại, Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia đang thực hiện giám sát an toàn thông tin trên toàn bộ không gian mạng Việt Nam, thiết lập mạng lưới giám sát an toàn thông tin mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên thông, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giám sát tập trung giữa các hệ thống giám sát của cơ quan, tổ chức và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng, Nhà nước. Thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích, theo dõi và dự báo, cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không gian mạng Việt Nam; hệ thống mạng lưới chia sẻ và phân tích các mối nguy hại về an toàn thông tin; là đầu mối tiếp nhận, chia sẻ thông tin với các tổ chức quốc tế và giữa các cơ quan, tổ chức tại Việt Nam; thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu về tình hình an toàn thông tin trong nước và quốc tế.

- Đàm phán, yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như Facebook, Google thiết lập đầu mối tại Việt Nam và có cơ chế xử lý riêng dành cho Chính phủ Việt Nam để ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin vi phạm quy định pháp luật Việt Nam. Gần đây nhất, Phó chủ tịch Facebook cam kết sẽ hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam để giải quyết các vấn đề còn tồn tại và sẽ hình thành nhóm làm việc chung giữa Facebook với cơ quan quản lý Việt Nam.

- Tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra các công ty truyền thông, quảng cáo lớn trong nước, nhằm chấn chỉnh và yêu cầu không quảng cáo trên các trang mạng nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam có nội dung không phù hợp với pháp luật Việt Nam như Facebook và Google.

- Chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền thông tăng cường tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm cho người sử dụng Internet và mạng xã hội.

3. Những bất cập, khó khăn đối với công tác quản lý thông tin trên mạng trong giai đoạn hiện nay

- Hạn chế về các giải pháp kỹ thuật khiến cho việc xác định, xử lý đối tượng vi phạm trên môi trường mạng gặp nhiều khó khăn, nhất là trên các mạng xã hội nước ngoài.

- Các đối tượng phát tán thông tin thường xuyên tận dụng những thay đổi, những bước phát triển mới về công nghệ để cải tiến các hình thức phát tán thông tin.

- Người dân ngày càng phụ thuộc vào các mạng xã hội nước ngoài, đặc biệt là Facebook và Youtube, trong bối cảnh nước ta chưa có các dịch vụ tương tự phục vụ nhu cầu sử dụng của nhân dân.

- Chưa có hệ thống theo dõi, giám sát, phát hiện, phân tích thông tin vi phạm trên môi trường mạng để cảnh báo, dự báo các tình huống phát sinh có thể xảy ra do việc phát tán các thông tin xấu độc; chưa có giải pháp hiệu quả ngăn chặn dòng tiền quảng cáo phục vụ cho các mục đích xấu trên các mạng xã hội nước ngoài cung cấp tại Việt Nam do những bất cập trong các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động thanh toán, chuyển tiền giữa ngân hàng trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. 

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý Internet và thông tin trên mạng còn chưa theo kịp sự phát triển của thực tế; chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm còn thấp, chưa đủ tính răn đe.

- Việc xác định đối tượng vi phạm trên môi trường mạng còn gặp nhiều khó khăn, nhất là trên các mạng xã hội nước ngoài khi đối tượng vi phạm thường ẩn danh hoặc giả mạo người khác gây khó khăn trong công tác điều tra.

- Các mạng xã hội nước ngoài như Facebook, Google đang cung cấp dịch vụ cho người dùng Việt Nam nhưng không có văn phòng đại diện nên việc phối hợp để ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật trên các nền tảng dịch vụ mạng xã hội của nước ngoài chưa đạt hiệu quả cao.

4. Giải pháp triển khai trong thời gian tới

- Sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quản lý về thông tin điện tử: Nghị định số 72/2013/NĐ-CP và Nghị định số 27/2018/NĐ-CP, Nghị định số 174/2013/NĐ-CP.

- Chỉ đạo các nhà mạng triển khai các giải pháp kỹ thuật mới để ngăn chặn hiệu quả sự phát tán của thông tin xấu độc, phản cảm trên các trang web, mạng xã hội có tên miền quốc tế, đặt máy chủ ở nước ngoài.

- Đầu tư trang thiết bị, công cụ, phần mềm đánh giá xếp hạng trang thông tin điện tử và nội dung thông tin trên mạng, nhằm thiết lập công cụ trong việc đánh giá, quản lý nội dung thông tin trên mạng (đối với các hệ thống trang mạng được nhà nước Việt Nam cấp phép hoạt động).

- Xây dựng chính sách ưu tiên phát triển mạng xã hội trong nước, tích hợp nhiều dịch vụ khác để thu hút người Việt Nam sử dụng, có khả năng cạnh tranh với mạng xã hội nước ngoài; xây dựng hệ sinh thái nội dung số thuần Việt, từ đó chủ động trong công tác quản lý nội dung.

- Tổ chức giao ban, hội thảo định kỳ với các doanh nghiệp lớn cung cấp dịch vụ nội dung số: trang tin tổng hợp, mạng xã hội, trò chơi điện tử, cung cấp dịch vụ nội dung trên di động để trao đổi, đề xuất các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp.

- Tiếp tục đàm phán với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới yêu cầu phải có đầu mối tiếp nhận thông tin vi phạm tại Việt Nam giúp quy trình xử lý, gỡ bỏ thông tin vi phạm được nhanh và hiệu quả hơn. Ngoài ra, Bộ TTTT cũng đã yêu cầu Youtube bỏ chức năng "gợi ý” (suggest) đề xuất với các nội dung của các kênh xấu độc, tin giả (fake news). 

- Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân về hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, xấu, độc hại, phản cảm trên mạng xã hội. 

- Tăng cường sự phối hợp, tham gia quản lý của các Bộ, ngành để việc quản lý nội dung, dịch vụ trên mạng đạt hiệu quả, theo đó, phân cấp trách nhiệm của các Bộ, ngành có liên quan như sau:

+ Bộ TTTT: Là cơ quan chịu trách nhiệm đầu mối quản lý, xử lý thông tin vi phạm nói chung theo quy định về quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin trên mạng;

+ Bộ Công an: Điều tra, phối hợp để xác định hành vi, nhân thân vi phạm, chuyển Bộ TTTT để xử lý vi phạm hành chính đối với những trường hợp xác định không xử lý hình sự.

+ Sở TTTT các tỉnh, thành phố: Phối hợp với Bộ TTTT và các Sở chức năng tại địa phương để xử lý đối với vi phạm xuất phát tại địa phương hoặc cá nhân vi phạm ở địa phương.

+ Các Bộ, ngành khác căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình cần phối hợp với Bộ TTTT để xử lý các thông tin vi phạm chuyên ngành liên quan đến thuế, thanh toán trực tuyến, thương mại điện tử.

Câu 29. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Cử tri tiếp tục phản ánh về việc một số trang mạng xã hội phát tán các bài xuyên tạc, bôi nhọ cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Cử tri đề nghị xem xét, chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền sớm ban hành các quy định, hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, có các chế tài xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, quản lý mạng xã hội thật chặt chẽ, nhằm ngăn chặn các thông tin xấu trên các trang mạng xã hội.

Trả lời: Tại Công văn số 703/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

Ngày 12/7/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 851/2018/QĐ-TTg ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản, quy định chi tiết thi hành các luật được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 5, trong đó, giao cho Bộ Công an chủ trì xây dựng Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng.

Liên quan đến hoạt động báo chí, bên cạnh việc phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan tăng cường công tác quản lý an ninh mạng, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi cố tình đưa tin sai sự thật, gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng, xã hội, Bộ TTTT đã chỉ đạo các cơ quan báo chí chủ động cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ để định hướng dư luận xã hội, tạo niềm tin trong Nhân dân.

Bộ thường xuyên chỉ đạo, định hướng các cơ quan báo chí trong nước tăng cường thông tin những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước, nỗ lực trong công tác điều hành của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế, xã hội, chăm lo đời sống người dân, kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tình hình an ninh trật tự xã hội… nhằm góp phần tăng niềm tin của người dân, tạo sự đồng thuận của người dân với các chủ trương, chính sách và công tác điều hành đất nước, cung cấp cho người dân đầy đủ thông tin để đánh giá đúng tình hình, không bị các thế lực thù địch lợi dụng. 

Câu 30. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Hiện nay, tình trạng quảng cáo, rao vặt lừa đảo, sai sự thật còn xảy ra tràn lan trên các trang mạng Internet. Đề nghị Bộ TTTT phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan siết chặt quản lý vấn đề trên; đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền cung cấp thông tin về việc xử lý các vụ việc trên để người dân biết và có phương thức đề phòng hợp lý.

Trả lời: Tại Công văn số 703/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

Theo Luật Quảng cáo, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ TTTT đã thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo liên quan đến lĩnh vực quản lý của Bộ.

Theo quy định của pháp luật về quảng cáo, quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt như thuốc, mỹ phẩm, hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, sữa, sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ, thực phẩm, dịch vụ khám chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y... phải đăng ký và được Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chấp thuận về nội dung. Cơ quan báo chí chỉ được quảng cáo các hàng hóa, dịch vụ đặc biệt theo nội dung chấp thuận của các cơ quan chức năng. Bộ Thông tin và Truyền thông thường xuyên nhắc nhở, yêu cầu các cơ quan báo chí thực hiện đúng quy định của pháp luật về quảng cáo trên báo chí; tổ chức thanh tra, kiểm tra định kỳ nhằm hướng dẫn, nhắc nhở, chấn chỉnh các cơ quan báo chí trong việc thực hiện quy định của pháp luật về quảng cáo trên báo chí.

Trong 02 năm gần đây, các vi phạm về quảng cáo như: thông tin quảng cáo quá tính năng, tác dụng của hàng hóa; quảng cáo sản phẩm chức năng có nội dung không rõ ràng gây hiểu lầm đó là sản phẩm thuốc; quảng cáo thực phẩm chức năng không phù hợp với nội dung đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận vẫn xảy ra nhưng đã giảm đáng kể so với các năm trước.

Trong thời gian tới, Bộ TTTT tiếp tục tăng cường công tác thanh kiểm tra, chấn chỉnh hoạt động quảng cáo trên báo chí, yêu cầu các cơ quan báo chí thực hiện đúng quy định của pháp luật về quảng cáo trên báo chí; đặc biệt, yêu cầu các cơ quan báo chí điện tử có biện pháp kỹ thuật nhằm ngăn chặn quảng cáo chứa mã độc phát tán trên mạng Internet; đồng thời, chỉ đạo các cơ quan báo chí tuyên truyền, nâng cao ý thức người sử dụng Internet để tránh truy cập vào những trang thông tin quảng cáo có chứa mã độc.

Bên cạnh đó, Bộ thường xuyên chỉ đạo, định hướng các cơ quan báo chí thông tin, tuyên truyền nhằm góp phần tạo môi trường quảng cáo lành mạnh, đúng pháp luật. Cơ quan quản lý nhà nước về quảng cáo và các cơ quan liên quan cần cung cấp thông tin để các cơ quan báo chí thông tin, tuyên truyền về việc xử lý sai phạm trong lĩnh vực quảng cáo một cách chính xác, kịp thời.

Câu 31. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Cử tri phản ánh tình trạng thông tin trên mạng xã hội ngày càng phức tạp nhiều trang mạng có nội dung xuyên tạc về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chỉ trích bôi nhọ các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước,... gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Do đó, đề nghị Bộ TTTT tăng cường công tác kiểm tra, quản lý và có chế tài xử lý nghiêm những vi phạm và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ để định hướng cho nhân dân.

Trả lời: Tại Công văn số 703/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

Sự phát triển của Internet đã đồng hành và thúc đẩy mạng xã hội phát triển. Tuy nhiên, thông tin trên mạng xã hội là thông tin không chính thống, chưa được kiểm chứng và có những thông tin xuyên tạc, sai lệch. 

Bên cạnh việc phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan tăng cường công tác quản lý an ninh mạng, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi cố tình đưa tin sai sự thật, gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng, xã hội. Bộ TTTT đã chỉ đạo các cơ quan báo chí chủ động cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ để định hướng dư luận xã hội, tạo niềm tin trong Nhân dân.

Bộ thường xuyên chỉ đạo, định hướng các cơ quan báo chí trong nước tăng cường thông tin những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước, nỗ lực trong công tác điều hành của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế, xã hội, chăm lo đời sống người dân, kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tình hình an ninh trật tự xã hội… nhằm góp phần tăng niềm tin của người dân, tạo sự đồng thuận của người dân với các chủ trương, chính sách và công tác điều hành đất nước, cung cấp cho người dân đầy đủ thông tin để đánh giá đúng tình hình, không bị các thế lực thù địch lợi dụng. 

Song song với đó, Bộ cũng thường xuyên đề nghị các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện đúng quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin; đồng thời Bộ thường xuyên phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương chủ động mời đại diện các bộ, ban ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan đến dự họp giao ban báo chí hằng tuần để cung cấp thông tin kịp thời về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là những chủ trương, chính sách, văn bản mới được ban hành, những vấn đề mà dư luận quan tâm để lãnh đạo các cơ quan báo chí nắm rõ, tổ chức thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ đến nhân dân nhằm cảnh báo và định hướng dư luận xã hội, đặc biệt là các thông tin liên quan đến an ninh chính trị, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội và sức khỏe cộng đồng. 

Câu 32. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri đề nghị cần chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin phản cảm trên Internet gây ảnh hưởng đến tư tưởng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước.

Trả lời: Tại Công văn số 708/BTTTT-VP ngày 15/3/2019

1. Thực trạng, phân loại thông tin cung cấp trên mạng

Nội dung thông tin trên mạng hiện nay được cung cấp bởi các cơ quan báo chí trong nước (gồm báo chí in, báo chí điện tử và phát thanh, truyền hình) và từ truyền thông xã hội (do các tổ chức, cá nhân trong nước và mạng xã hội nước ngoài). Với hai nguồn cung cấp như trên, tác động của từng nguồn đối với xã hội cũng khác nhau.

 Qua theo dõi thông tin trên mạng, Bộ TTTT thấy các thông tin tiêu cực như thông tin sai lệch, xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá nhân, thông tin phản cảm, vi phạm thuần phong mỹ tục Việt Nam, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước... chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài, đặc biệt là trên Facebook và Google.

Nguyên nhân của vấn đề này là do nhận thức của người sử dụng cho rằng mạng xã hội là môi trường ảo nên có thể tự do phát ngôn mà không phải chịu trách nhiệm.

2. Các biện pháp Bộ đã triển khai:

- Tham mưu Quốc hội, Chính phủ ban hành, sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm tăng cường quản lý Internet và thông tin trên mạng gồm:

+ Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 01/3/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.

+ Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016 quy định chi tiết về việc cung cấp thông tin công cộng qua biên giới, tạo cơ sở pháp lý để yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp thông tin qua biên giới phải có trách nhiệm phối hợp, gỡ bỏ thông tin vi phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam.

+ Bộ đang nghiên cứu, trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 159/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí, xuất bản; Nghị định số 174/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.

- Tăng cường công tác hậu kiểm, xử lý các hành vi vi phạm, đặc biệt là việc xử lý các đối tượng có hành vi sai trái, phát ngôn thiếu chuẩn mực trên mạng xã hội như: nhắc nhở, rút kinh nghiệm; xử phạt vi phạm hành chính, thu hồi giấy phép, thu hồi tên miền, v.v...

- Triển khai các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn nguồn phát tán thông tin vi phạm: chỉ đạo, điều phối các ISP tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống kỹ thuật “chặn lọc” thông tin trên mạng Internet để đồng bộ, điều phối các ISP về mặt kỹ thuật để thống nhất ngăn chặn các nguồn phát tán thông tin vi phạm.

- Bộ đã và đang tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp tại Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (Cục An toàn thông tin) nhằm thực hiện công tác giám sát nội dung thông tin và giám sát kỹ thuật an toàn, an ninh mạng. Hiện tại, Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia đang thực hiện giám sát an toàn thông tin trên toàn bộ không gian mạng Việt Nam, thiết lập mạng lưới giám sát an toàn thông tin mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên thông, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giám sát tập trung giữa các hệ thống giám sát của cơ quan, tổ chức và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng, Nhà nước. Thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích, theo dõi và dự báo, cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không gian mạng Việt Nam; hệ thống mạng lưới chia sẻ và phân tích các mối nguy hại về an toàn thông tin; là đầu mối tiếp nhận, chia sẻ thông tin với các tổ chức quốc tế và giữa các cơ quan, tổ chức tại Việt Nam; thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu về tình hình an toàn thông tin trong nước và quốc tế.

- Yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như Facebook, Google thiết lập đầu mối tại Việt Nam và có cơ chế xử lý riêng dành cho Chính phủ Việt Nam để ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin vi phạm quy định pháp luật Việt Nam. Gần đây nhất, Phó chủ tịch Facebook cam kết sẽ hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam để giải quyết các vấn đề còn tồn tại và sẽ hình thành nhóm làm việc chung giữa Facebook với cơ quan quản lý Việt Nam.

- Tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra các công ty truyền thông, quảng cáo lớn trong nước, nhằm chấn chỉnh và yêu cầu không quảng cáo trên các trang mạng nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam có nội dung không phù hợp với pháp luật Việt Nam như Facebook và Google.

- Chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền thông tăng cường tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm cho người sử dụng Internet và mạng xã hội.

3. Những bất cập, khó khăn đối với công tác quản lý thông tin trên mạng trong giai đoạn hiện nay

- Hạn chế về các giải pháp kỹ thuật khiến cho việc xác định, xử lý đối tượng vi phạm trên môi trường mạng gặp nhiều khó khăn, nhất là trên các mạng xã hội nước ngoài.

- Các đối tượng phát tán thông tin thường xuyên tận dụng những thay đổi, những bước phát triển mới về công nghệ để cải tiến các hình thức phát tán thông tin.

- Người dân ngày càng phụ thuộc vào các mạng xã hội nước ngoài, đặc biệt là Facebook và Youtube, trong bối cảnh nước ta chưa có các dịch vụ tương tự phục vụ nhu cầu sử dụng của nhân dân.

- Chưa có hệ thống theo dõi, giám sát, phát hiện, phân tích thông tin vi phạm trên môi trường mạng để cảnh báo, dự báo các tình huống phát sinh có thể xảy ra do việc phát tán các thông tin xấu độc; chưa có giải pháp hiệu quả ngăn chặn dòng tiền quảng cáo phục vụ cho các mục đích xấu trên các mạng xã hội nước ngoài cung cấp tại Việt Nam do những bất cập trong các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động thanh toán, chuyển tiền giữa ngân hàng trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. 

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý Internet và thông tin trên mạng còn chưa theo kịp sự phát triển của thực tế; chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm còn thấp, chưa đủ tính răn đe.

- Việc xác định đối tượng vi phạm trên môi trường mạng còn gặp nhiều khó khăn, nhất là trên các mạng xã hội nước ngoài khi đối tượng vi phạm thường ẩn danh hoặc giả mạo người khác gây khó khăn trong công tác điều tra.

- Các mạng xã hội nước ngoài như Facebook, Google đang cung cấp dịch vụ cho người dùng Việt Nam nhưng không có văn phòng đại diện nên việc phối hợp để ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật trên các nền tảng dịch vụ mạng xã hội của nước ngoài chưa đạt hiệu quả cao.

4. Giải pháp triển khai trong thời gian tới

- Sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quản lý về thông tin điện tử: Nghị định số 72/2013/NĐ-CP và Nghị định số 27/2018/NĐ-CP, Nghị định số 174/2013/NĐ-CP.

- Chỉ đạo các nhà mạng triển khai các giải pháp kỹ thuật mới để ngăn chặn hiệu quả sự phát tán của thông tin xấu độc, phản cảm trên các trang web, mạng xã hội có tên miền quốc tế, đặt máy chủ ở nước ngoài.

- Đầu tư trang thiết bị, công cụ, phần mềm đánh giá xếp hạng trang thông tin điện tử và nội dung thông tin trên mạng, nhằm thiết lập công cụ trong việc đánh giá, quản lý nội dung thông tin trên mạng (đối với các hệ thống trang mạng được nhà nước Việt Nam cấp phép hoạt động).

- Xây dựng chính sách ưu tiên phát triển mạng xã hội trong nước, tích hợp nhiều dịch vụ khác để thu hút người Việt Nam sử dụng, có khả năng cạnh tranh với mạng xã hội nước ngoài; xây dựng hệ sinh thái nội dung số thuần Việt, từ đó chủ động trong công tác quản lý nội dung.

- Tổ chức giao ban, hội thảo định kỳ với các doanh nghiệp lớn cung cấp dịch vụ nội dung số: trang tin tổng hợp, mạng xã hội, trò chơi điện tử, cung cấp dịch vụ nội dung trên di động để trao đổi, đề xuất các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp.

- Tiếp tục yêu cầu với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới yêu cầu phải có đầu mối tiếp nhận thông tin vi phạm tại Việt Nam giúp quy trình xử lý, gỡ bỏ thông tin vi phạm được nhanh và hiệu quả hơn. Ngoài ra, Bộ TTTT cũng đã yêu cầu Youtube bỏ chức năng "gợi ý” (suggest) đề xuất với các nội dung của các kênh xấu độc, tin giả (fake news). 

- Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân về hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, xấu, độc hại, phản cảm trên mạng xã hội. 

- Tăng cường sự phối hợp, tham gia quản lý của các Bộ, ngành để việc quản lý nội dung, dịch vụ trên mạng đạt hiệu quả, theo đó, phân cấp trách nhiệm của các Bộ, ngành có liên quan như sau:

+ Bộ TTTT: Là cơ quan chịu trách nhiệm đầu mối quản lý, xử lý thông tin vi phạm nói chung theo quy định về quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin trên mạng;

+ Bộ Công an: Điều tra, phối hợp để xác định hành vi, nhân thân vi phạm, chuyển Bộ TTTT để xử lý vi phạm hành chính đối với những trường hợp xác định không xử lý hình sự.

+ Sở TTTT các tỉnh, thành phố: Phối hợp với Bộ TTTT và các Sở chức năng tại địa phương để xử lý đối với vi phạm xuất phát tại địa phương hoặc cá nhân vi phạm ở địa phương.

+ Các Bộ, ngành khác căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình cần phối hợp với Bộ TTTT để xử lý các thông tin vi phạm chuyên ngành liên quan đến thuế, thanh toán trực tuyến, thương mại điện tử.

Cổng Thông tin điện tử Quốc hội

File đính kèm