ĐBQH HOÀNG ĐỨC THẮNG ĐÓNG GÓP Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU LUẬT TỔ CHỨC QUỐC HỘI

26/05/2020

Tại phiên họp kỳ họp thứ 9, ngày 26/5, đại biểu Quốc hội Hoàng Đức Thắng, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị, đã đóng góp ý kiến đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.

 

Đại biểu Quốc hội Hoàng Đức Thắng, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị

Theo đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Hoàng Đức Thắng, tại kỳ họp thứ 8, đại biểu đã có ý kiến phát biểu và cơ bản đã được Ban soạn thảo, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) tiếp thu. Mong muốn chung của ĐBQH là Luật Tổ chức Quốc hội cần sửa đổi, bổ sung những vấn đề có tính căn bản, toàn diện nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, hoạt động chuyên nghiệp của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đời sống xã hội đất nước.

Đại biểu Hoàng Đức Thắng kiến nghị: Về tiêu chuẩn của ĐBQH tại  khoản 1a vào sau khoản 1, Điều 22 cần phải bổ sung quy định “ĐBQH có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” như dự thảo là đúng, nhưng chưa đủ, chưa chặt chẽ. Bởi trong trường hợp ngoài quốc tịch Việt Nam ra, ĐBQH còn có thể có thêm quốc tịch khác nữa thì cũng không sai và sẽ dẫn đến sự tranh cãi về pháp lý không cần thiết.

Việc sử dụng ngôn từ trong văn bản pháp luật phải phổ quát, đại chúng, dễ hiểu, chặt chẽ, thống nhất để không tạo ra kẻ hở mà suy diễn, hiểu nhiều nghĩa khác nhau làm sai lệch bản chất nội dung quy phạm. Vì vậy, để đảm bảo chặt chẽ của câu từ, thống nhất về nhận thức thì bổ sung thêm từ “chỉ” là cần thiết, tuyệt nhiên không có “thừa”. Như vậy, nội dung quy định sẽ luôn được hiểu đúng là “ĐBQH chỉ có duy nhất một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” mà thôi, không thể còn có bất cứ quốc tịch nào khác. Và diễn đạt lại là: “ĐBQH chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”.

Về Đoàn đại biểu Quốc hội (Đoàn ĐBQH) tại Điều 43, đại biểu Hoàng Đức Thắng cho rằng: Tiếp thu giải trình vẫn chưa thỏa đáng. Bởi vấn đề quan trọng, cốt lõi nhất là cần “định vị” địa vị pháp lý của Đoàn ĐBQH. Theo đó, nhất thiết cần bổ sung, quy định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; cơ cấu tổ chức bên trong như: vị trí, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của Trưởng Đoàn, Phó Đoàn, các ĐBQH thành viên trong hoạt động của Đoàn; mối quan hệ công tác của Đoàn ĐBQH với UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; các cơ quan thuộc UBTVQH; với hệ thống chính trị ở địa phương và với mỗi ĐBQH thuộc Đoàn như thế nào? Đây là vấn đề rất quan trọng mà Luật hiện hành chưa giải đáp cụ thể, dẫn đến hoạt động của Đoàn ĐBQH chưa rõ ràng, tính pháp lý trong hoạt động, điều hành hoạt động của Đoàn cần được minh định rõ ràng. Luật không nên chỉ xác định chung chung rằng: Đoàn ĐBQH chỉ là hình thức tổ chức hoạt động của ĐBQH theo kiểu “tập hợp cơ học” như hiện nay, mà cần phải xác định Đoàn ĐBQH là tổ chức đại diện cho Quốc hội, là tổ chức của Quốc hội thực thi nhiệm vụ của Quốc hội giao tại địa phương.

Trong thực tế, Đoàn ĐBQH đã làm các nhiệm vụ: Xây dựng pháp luật; tiếp dân; tiếp xúc cử tri; giám sát thực thi pháp luật; tiếp nhận, phản ánh và giám sát giải quyết đơn thư, kiến nghị của nhân dân; thảo luận về các quyết định quan trọng của Quốc hội; chỉ đạo tổ chức, hoạt động của Văn phòng Đoàn ĐBQH cùng một số nhiệm vụ khác …. Vậy, tại sao các vấn đề này không được cụ thể hóa vào luật? Hay nói cách khác, Đoàn ĐBQH là một chế định của Quốc hội, là một  thành phần, cơ cấu bên trong của Quốc hội, là “cánh tay nối dài” của Quốc hội ở địa phương, là chủ thể có địa vị pháp lý đầy đủ trong hệ thống chính trị. Trên cơ sở đó mà thiết kế theo hướng trao cho Đoàn ĐBQH một số quyền, trách nhiệm và nhiệm vụ cụ thể, có như thế mới thấy rõ “địa vị chính trị”, tính chính danh của Đoàn ĐBQH.

Đại biểu Hoàng Đức Thắng kiến nghị thêm, về sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 43; mục c; Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 43... Đề nghị bổ sung thêm đoạn bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Đoàn ĐBQH và  bộ máy  tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của Đoàn ĐBQH tại địa phương. Khi Quốc hội giao cho chính quyền địa phương ngoài trách nhiệm bố trí trụ sở làm việc cho Đoàn ĐBQH thì còn phải được giao nhiệm vụ bảo đảm cả về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho cả Đoàn ĐBQH và bộ máy giúp việc Đoàn như vậy mới đầy đủ, rõ trách nhiệm. Mặt khác, điều này là hoàn toàn phù hợp với nội dung sửa đổi, bổ sung ở khoản 1 Điều 101 là: Kinh phí hoạt động của Quốc hội chỉ bảo đảm cho hoạt động của Đoàn ĐBQH, lương và các khoản phụ cấp, chế độ khác của ĐBQH gắn với hoạt động Quốc hội.

Vì vậy, nội dung này cần diễn đạt đầy đủ như sau: “Chính quyền địa phương ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm bố trí trụ sở làm việc, bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Đoàn ĐBQH và bộ máy tham mưu, giúp việc phục vụ; tổ chức và bảo đảm kinh phí hoạt động cho bộ máy tham mưu, giúp việc phục vụ hoạt động của Đoàn ĐBQH tại địa phương”./.

Võ Linh

Các bài viết khác