Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp
Đây là mô hình sản xuất giống khoai tây sạch bệnh bằng công nghệ khí canh có tích hợp với hệ thống điều khiển 4.0. Bộ rễ khoai tây luôn trong điều kiện hảo khí, giúp cho cây phát triển tốt và rễ được phun dinh dưỡng theo định kỳ, năng suất gấp từ 5 tới 10 lần so với trồng ngoài đồng ruộng, đạt 10.000 tấn thương phẩm / năm mang lại hiệu quả sản xuất cao. Điểm đặc biệt là công nghệ khí canh được sản xuất trong nhà kính hiện đại và hệ thống điều khiển nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng đảm bảo.
Thạc sỹ Vũ Tiến Dũng, Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam chia sẻ: Sản phẩm sản xuất giống khoai tây của Viện sinh học nông nghiệp của Học viên bằng hệ thống khí canh, được giáo sư Nguyễn Quang Thạch của nghiên cứu và ứng dụng đi sâu vào sản xuất khoai tây chế biến sâu . Hệ thống sản xuất khoai tây khí canh tích hợp hệ thống điều khiển 4.0 điều khiển độ ẩm, nhiệt độ và ánh sáng, làm tăng hiệu quả sản xuất. Hiện nay, ngoài mô hình sản xuất tại học viện, học viện còn chuyển giao cho các tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang, Thái Bình, Nam Định,Vĩnh Phúc, Bắc Ninh trong sản xuất khoai tây sạch bệnh. Chủ yếu phục vụ cho chế biến sâu trong công nghiệp như sản xuất khoai tây chíp.
Thạc sỹ Vũ Tiến Dũng, Viện Sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Còn đây là hệ thống photo bioreactor ( photo bay reactor) theo công nghệ Exaren tại trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học vi tảo tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Đây cũng là hệ thống photo bioreactor duy nhất tại Việt Nam trong nuôi cấy vi tảo. Hệ thống Photo bay reactor có nhiều dạng biến đổi tuỳ thuộc vào khả năng sinh trưởng của tảo cần ánh sáng và CO2. Hệ thống được làm từ các ống thuỷ tinh đươc thiết kế cho luồng ánh sáng đi vào từ 4 hướng nên được năng suất cao. Bên cạnh đó, còn có mô hình là hệ thống các bể reway đơn giản, gồm một bể và một guồng quay, từ mô hình này có thể phóng to lên để sản xuất trong công nghiệp trong nuôi cấy vi tảo.
Kỹ thuật viên Kim Minh Tuấn, Trung tâm Nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học vi tảo, Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho biết: Hiện tại ở miền Bắc có một vài công ty tảo có sản xuất chuyên về loài vi tảo để ứng dụng trong việc làm thực phẩm chức năng, làm dược phẩm. Về hộ gia đình có những hộ gia đình sẽ nuôi theo quy mô nhỏ, giống bể kính, bể cá để dùng, một tháng có thể duy trì được. Công nghệ từ exaren sử dụng đường ống thuỷ tinh dài. Chiều dài hơn 1 km, ánh sáng sẽ xuyên ra 4 hướng, có năng suất cao gấp 40-50 lần so với bể. Tảo được dùng trong sản xuất dược phẩm, thực phẩm chức năng.
Thời gian qua, Học viện Nông nghiệp Việt Nam luôn chú trọng tới công tác đẩy mạnh nghiên cứu khoa học gắn với chuyển giao cho thực tiễn sản xuất, với hơn 40 ứng dụng tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao cho các địa phương…Chủ yếu là các giống cây trồng như lúa, cà chua, rau, hoa quả tại các tỉnh: Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Hải Dương; các giống vật nuôi cũng như các chế phẩm sinh học xử lý môi trường, xử lý đất, có giải pháp hỗ trợ dịch bệnh.
Bà Lê Huỳnh Thanh Hương, Trưởng Ban Khoa học công nghệ, Học viện Nông nghiệp Việt Nam nhấn mạnh: Giống cây trồng được coi là thế mạnh của học viện nông nghiệp Việt Nam, chủ yếu là các giống lúa, giống ngô, giống cà chua, hoa quả. Chúng tôi đã chuyển xuống hầu hết các địa phương như Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương. Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã thành lập 5 nhóm nghiên cứu và các nhóm nghiên cứu có ở đầy đủ trên các lĩnh vực nghiên cứu của học viện. Các nghiên cứu từ nghiên cứu cơ bản cho tới nghiên cứu ứng dụng để hỗ trợ cho sản xuất. Đồng thời, học viện cũng xây dựng 82 mô hình khoa học công nghệ đầy đủ trong các lĩnh vực của học viện và từ các mô hình nghiên cứu tại học viện, khi thành công sẽ chuyển giao trong sản xuất.
Hiệu quả đã rõ, nhưng còn nhiều bất cập
Từ một nước nhập khẩu lương thực, đến nay, nông sản của Việt Nam có mặt ở 180 quốc gia, vùng lãnh thổ. Thực tế cho thấy, khoa học công nghệ đã đóng góp hơn 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay, nông nghiệp đóng góp 15% vào GDP của cả nước. Năng suất, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện do nhiều địa phương cũng như doanh nghiệp đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất. Có thể nói, từ khâu giống, quy trình, canh tác đến chế biến, bảo quản... đều có dấu ấn của khoa học công nghệ. Đơn cử như cây thanh long, từ việc nghiên cứu, cải tạo giống đã cho năng suất 40-50 tấn/ha, tăng hơn 74% so với giống cũ, tạo ra lợi nhuận cho nông nghiệp khoảng 13.000 tỷ đồng/năm...
Thạc sỹ Vũ Tiến Dũng, Viện sinh học Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam: Hiện nay, ngoài các mô hình sản xuất tại học viện, chúng tôi còn chuyển giao công nghệ khí canh cho các địa phương, các tỉnh như Phú Thọ, Bắc Giang, Thái Bình, Nam Định, tiếp theo sẽ chuyển giao ở Vĩnh Phúc, Bắc Ninh. Công nghệ này được đánh giá là có hiệu quả rất cao trong sản xuất khoai tây sạch bệnh.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia, nhà quản lý đã thẳng thắn nhận định: Hoạt động khoa học công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng cho việc nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp trước bối cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu, dịch bệnh và hội nhập quốc tế. Một trong những nguyên nhân khiến nông sản bị thất thoát sau thu hoạch ở mức cao 20-30%, gây lãng phí là do việc ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực bảo quản, chế biến còn yếu…
Trồng dưa lưới ứng dụng công nghệ tại Hợp tác xã Nông nghiệp Thanh Đa, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
Ông Phạm Hữu Việt, Tổng Giám đốc APPA Group cho biết: Việc tham gia những chương trình và tiếp nhận sự hỗ trợ từ các tổ chức, các cơ quan nhà nước sẽ giúp đỡ rất nhiều trong việc giảm đi các chi phí để tìm kiếm các kênh kết nối, chi phí cho việc quảng bá hình ảnh cũng như giúp tìm kiếm cơ hội kinh doanh trong cộng đồng khởi nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp.
Huy động các nguồn lực, phát huy vai trò "đòn bẩy"
Để khoa học công nghệ phát huy vai trò “đòn bẩy” trong nông nghiệp, đồng thời tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn cho nghiên cứu, ứng dụng, thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành tạo cơ chế khuyến khích doanh nghiệp và người dân ứng dụng khoa học, công nghệ vào nông nghiệp. Cùng với đó là tạo điều kiện về thủ tục pháp lý cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia chương trình, dự án hợp tác quốc tế, phát triển nguồn nhân lực; đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao để sáng tạo ra những sản phẩm khoa học công nghệ mới, áp dụng vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp. Gắn kết giữa hệ thống nghiên cứu khoa học công nghệ của Nhà nước với doanh nghiệp, hợp tác xã, người nông dân để từng bước giải quyết các vấn đề về giống, công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch, phát triển công nghiệp và dịch vụ, chế phẩm sinh học, công nghệ bảo quản sau thu hoạch... để thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an toàn thực phẩm.
Chính phủ cần nghiên cứu thay đổi cách làm xúc tiến thương mại của cơ quan quản lý nhà nước, có cơ chế khuyến khích đối với các doanh nghiệp đầu tư ứng dụng công nghệ cao nhằm nâng cao tỷ lệ đầu tư các sản phẩm nông nghiệp có năng suất, chất lượng, có giá trị gia tăng. Trong đó, trọng tâm là các doanh nghiệp trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, sản xuất chế phẩm sinh học, chế biến nông sản, tăng sức hấp dẫn cũng như bảo vệ được doanh nghiệp nông nghiệp trước sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp nông nghiệp cần chủ động tiếp cận đánh giá nhu cầu thị trường, nâng cao trình độ quản lý, năng lực sản xuất, lành mạnh hóa tình hình tài chính và xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, hiệu quả để tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay tại các tổ chức tín dụng, đẩy mạnh sự “hỗ trợ” của ứng dụng khoa học công nghệ.
Kiến nghị giải pháp thúc đẩy và nâng cao hiệu quả đầu tư của khoa học công nghệ cho lĩnh vực nông nghiệp
Đến nay, nhiều thành tựu khoa học công nghệ được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Nông sản Việt Nam hiện có mặt trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Cơ cấu ngành Nông nghiệp đã đạt nhiều thành tựu quan trọng cả về quy mô và trình độ sản xuất. Đặc biệt, khoa học công nghệ đã hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, hoạt động khoa học cũng như ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp vẫn còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu đặt ra từ thực tế, đặc biệt trong bối cảnh thị trường thế giới hiện nay đang đặt ra những yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng sản phẩm.
Trước thực tế như vậy, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XIV, đại biểu Bùi Thanh Tùng, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nội dung chất vấn của đại biểu nêu rõ: Theo Bộ trưởng, nút thắt nào hay rào cản cơ bản trong việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ vào lĩnh vực sản xuất, bảo quản hay tiêu thụ nông sản nằm ở lĩnh vực nào, khâu nào? Bộ có định hướng, giải pháp gì để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả đầu tư trong khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn?
Ngay sau khi đại biểu chất vấn, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có phần giải trình trước Quốc hội, Bộ trưởng khẳng định: Trong chương trình phát triển kinh tế nói chung, đặc biệt là tái cơ cấu nông nghiệp, khoa học công nghệ là một giải pháp then chốt và quyết định. Đất nước chúng ta chỉ có 10 triệu ha đất, hơn 30 năm đổi mới, đi từ chỗ đói tới chỗ đủ ăn, lại xuất khẩu được là một giải pháp khoa học công nghệ. Mà khoa học công nghệ ở đây ngoài kỹ thuật, giống cây mới, quy trình mới, chính sách cũng là giải pháp khoa học công nghệ. Đường lối đổi mới, chúng ta biến thành sản phẩm khoa học công nghệ để có thành quả như ngày hôm nay. Cho đến nay, hội nhập quốc tế sâu rộng, chúng ta từ chỗ đói thành chỗ đủ ăn là một bước phấn đấu. Nó có điều kiện, để làm giàu hơn nữa, giá trị gia tăng hơn nữa đúng là phải tập trung tháo nút thắt.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường
Bộ trưởng cho biết: Qua hơn 30 năm đổi mới, chúng ta đã có được một đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đủ sức, đủ tầm về quản trị, về tư bản, về khát vọng để hướng tới cùng chung với khu vực nông nghiệp. Tại sao trong hai, ba năm vừa qua, mỗi năm có tới hàng chục, hai chục dự án lớn. Năm nay có 17 dự án vừa khởi công vừa khánh thành với giá trị 20 nghìn tỷ đầu tư vào. Sản phẩm sữa của chúng ta đã xuất đi được Trung Quốc, trong khi đó thị trường Trung Quốc yêu cầu cực kỳ khắt khe mà chúng ta vào được, chúng ta đi được. Con cá tra đi được. Vậy cái khó là gì? Phải làm sao để xây dựng thành được vùng nguyên liệu rộng hơn. Đây là một khâu bức bách nhất của chúng ta hiện nay. Còn với công nghệ, các nhà quản trị chúng ta sẵn sàng. Nhưng làm sao lan toả để từ doanh nghiệp hạt nhân đến tất cả tới vùng. Về giải pháp, chúng ta không có con đường nào khác là phải thành lập các hợp tác xã để cùng với doanh nghiệp hình thành cái này. Sơn La có 386 hợp tác xã nông nghiệp, nếu tăng lên thì cùng với doanh nghiệp trong 4 năm nâng diện tích cây ăn quả lên từ 20.000 ha lên 72 .000 ha, lớn nhất cả nước. Các khâu sản phẩm cần làm tốt, để chuyển giao. Như vậy, có doanh nghiệp hạt nhân, có tổ chức hợp tác xã, có chính quyền vào cuộc quyết liệt. Nút thắt khoa học công nghệ còn lại của chúng ta là tổ chức sản xuất để hình thành hình thái khoa học công nghệ, khuyến khích tất cả các mặt đi lê.
Qua phần trả lời của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, có thể thấy Chính phủ, Bộ đã nhìn nhận được vấn đề và có những giải trình cụ thể liên quan tới giải pháp thúc đẩy và nâng cao hiệu quả đầu tư của khoa học công nghệ cho lĩnh vực nông nghiệp thông qua việc hướng tới doanh nghiệp, thành lập các hợp tác xã, sự vào cuộc kịp thời của chính quyền, hình thành các vùng nguyên liệu. Vậy giải pháp cụ thể, sự vào cuộc của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ được thực hiện như thế nào? Đại biểu kỳ vọng gì vào những giải pháp thực tế của ngành nông nghiệp đưa ra trong thời gian tới? Phóng viên Cổng thông tin điện tử Quốc hội đã có cuộc trao đổi với Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng về vấn đề này.
Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng
Phóng viên: Xuất phát từ thực tế như thế nào, Đại biểu có nội dung chất vấn đối với Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XIV?
Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng: Trước những vấn đề như những nút thắt cơ bản trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ vào khâu sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ nông sản, hiệu quả đầu tư khoa học công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn. Với nền sản xuất manh mún trước đây, việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ đem lại kết quả trong khâu canh tác, khâu sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thì nhanh nhưng để tạo ra được một sản lượng lớn, với quy mô sản xuất rộng, với quy mô hàng hoá thì chúng ta có những cái khó trong ứng dụng kỹ thuật hay chuyển giao công nghệ. Như báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bắt đầu đã có sự đầu tư của các doanh nghiệp lớn liên quan tới khâu chế biến, bảo quản và cũng bắt đầu từng bước xây dựng chuỗi để tiêu thụ sản phẩm. Trong đó có việc xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị trường và gắn kết giữa thương hiệu với thị trường cùng những thành tựu về khoa học công nghệ trong các sản phẩm nông nghiệp. Đây là một thách thức bởi không phải tất cả tiến bộ khoa học công nghệ cũng dễ dàng đưa về nông thôn. Tôi đặt câu hỏi để Bộ trưởng làm rõ cũng như giải thích chi tiết nút thắt cơ bản trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ hoặc trong chuyển giao công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn là ở đâu ? Ở lĩnh vực nào? Ở khâu nào và làm thế nào để chúng ta tháo gỡ?
Phóng viên: Ngay sau chất vấn, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã trả lời trực tiếp tại nghị trường đối với Đại biểu. Đại biểu đánh giá như thế nào về nội dung trả lời của Bộ trưởng?
Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng: Tất cả những ý mà Bộ trưởng nêu nhìn chung nhấn mạnh rõ những yếu tố cốt lõi, những vấn đề mà hiện nay chúng ta cần phải quan tâm. Rõ ràng về mặt tiến bộ kỹ thuật cũng như các công nghệ, chúng ta không thiếu. Tuy nhiên, tại sao hiện nay chúng ta vướng, chính vì bản thân các hộ sản xuất nhỏ lẻ nên để đầu tư được khoa học công nghệ hiệu quả, để đưa được tiến bộ kỹ thuật và chuyển giao được tiến bộ khoa học hiệu quả vào trong nông nghiệp thì rõ ràng vai trò của doanh nghiệp là rất quan trọng. Nếu chúng ta làm tốt khâu kết nối tốt giữa ba đối tượng này, giữa doanh nghiệp, giữa nhóm hợp tác xã kiểu mới, các hộ nông dân, chúng ta sẽ khắc phục nút nghẽn trong ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ cũng như chuyển giao công nghệ vào nông nghiệp và nông thôn. Và ở đây tôi thấy vai trò của doanh nghiệp cũng như của hợp tác xã sẽ giúp việc ứng dụng kỹ thuật cũng như chuyển giao công nghệ lan toả rộng hơn tới từng hộ gia đình.
Phóng viên: Trong nội dung trả lời chất vấn, Đại biểu có suy nghĩ gì về giải pháp mà Bộ Nông nghiệp đã và đang triển khai nâng cao hiệu quả đầu tư của khoa học công nghệ cho lĩnh vực nông nghiệp ?
Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng: Có thể nói là chúng ta đã ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ cũng như chuyển giao công nghệ mới vào trong sản xuất rất hiệu quả. Thứ nhất là khâu giống, thứ hai là chúng ta đã đưa được rất nhiều tiến bộ kỹ thuật vào trong hoạt động sản xuất, trong trồng trọt, trong chăn nuôi. Vấn đề là chúng ta chưa làm hiệu quả đó là khâu bảo quản, tiêu thụ sản phẩm có gắn với thương hiệu, gắn với đặc thù của địa phương với quy mô sản xuất hàng hoá lớn. Cái khó nhất trong ứng dụng tiến bộ kỹ thuật chính là ở khâu này. Để giải quyết khâu này thì người dân không thể tự xây dựng được những cơ sở sản xuất chế biến ở quy mô lớn mà ứng dụng công nghệ hiện đại được mà phải là doanh nghiệp. Thứ nữa là ứng dụng khoa học kỹ thuật trong khâu tạo ra thương hiệu, phát huy giá trị thương hiệu để có lợi thế về hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường.
Phóng viên: Đánh giá của đại biểu về hiệu quả thực tế sau thời gian ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp?
Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng: Tôi cho là thành công nhất trong ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học cũng như chuyển giao công nghệ vào nông nghiệp của chúng ta trong thời gian qua là việc tập trung hỗ trợ xây dựng các vùng sản xuất lớn cũng như tạo ra được một số loại nông sản mang lại giá trị kinh tế cao, tạo ra được nhiều thương hiệu sản phẩm có giá trị và những vùng sản xuất tập trung mà có thể áp dụng các tiến bộ kỹ thuật. Có thể kể đến như vùng gà đồi của Yên Thế, Bắc Giang; vải Lục Ngạn hay các nhóm sản phẩm Ocop của tỉnh Quảng Ninh hay vùng sản xuất Thanh Long ở khu vực phía Nam và nhiều sản phẩm khác. Chúng ta đã phát triển một đàn bò sữa rất ấn tương và việc này phải có ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, phải có tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Sản phẩm sữa của chúng ta đã đi được nhiều nước trên thế giới, kể cả thị trường Mỹ, thị trường Nga là những thị trường khó tính.
Phóng viên: Theo đại biểu, để thực hiện thúc đẩy và nâng cao hiệu quả đầu tư của khoa học công nghệ cho lĩnh vực nông nghiệp thì ngành nông nghiệp phải làm gì?
Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng: Cái khó nhất hiện nay với việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học cũng như chuyển giao công nghệ vào nông nghiệp nông thôn đấy là quy mô nền sản xuất, tập quán nền sản xuất của người nông dân chúng ta là nhỏ lẻ, manh mún, hộ gia đình và thiếu tính liên kết. Cho nên mặc dù các kết quả nghiên cứu nhiều, công nghệ nhiều nhưng làm thế nào ứng dụng có hiệu quả, chuyển giao có hiệu quả thì rõ ràng cần có đầu tàu. Cần có những đơn vị, doanh nghiệp đủ năng lực để có vai trò lan toả. Và giải pháp mà Bộ trưởng nêu ra là gì, là tập trung cho khối doanh nghiệp, có cơ chế hỗ trợ nhóm này để đưa về nông thôn xây dựng các dự án sản xuất gắn với tiến bộ kỹ thuật cũng như gắn với công nghệ mới. Bên cạnh đó phát triển hệ thống các hợp tác xã hiểu mới. Đây được coi là cầu nối với bà con nông dân hiệu quả.
Phóng viên: Đại biểu kỳ vọng gì vào những giải pháp mà ngành nông nghiệp đưa ra trong thời gian tới để góp phần ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp đem lại những hiệu quả tích cực hơn?
Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng: Chúng ta phải có những cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh hơn trong sản xuất nông nghiệp. Cùng với việc đầu tư đó thì các doanh nghiệp cũng cần phải có hành lang pháp lý đủ mạnh để có thể tạo ra được, kết nối một cách công bằng và tháo gỡ khó khăn cho nông sản. Hiện nay, người dân sản xuất ra nhưng không tiêu thụ được và chúng ta vẫn nói tới chuyện được mùa mất giá. Tôi hoàn toàn tin tưởng với những nhóm giải pháp mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đưa ra cũng như cố gắng của chúng ta một cách đồng bộ trong việc vừa cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp vừa đưa giải pháp khoa học công nghệ cũng như ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp; kết hợp với chủ trương đẩy mạnh mở rộng thị trường, tìm kiếm các thị trường tiêu thụ sản phẩm, kể cả thị trường khó tính như Mỹ, EU thì tin rằng chúng ta có thể làm được một cách hiệu quả và tích cực.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn đại biểu
Theo các chuyên gia, để khoa học công nghệ thực sự phát huy hiệu quả trong nông nghiệp, trước hết, hệ thống chính sách về khoa học công nghệ cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng gắn kết và phục vụ trực tiếp cho việc nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh; tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh; chuyển giao đổi mới công nghệ; hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp. Bên cạnh đó, theo Đại biểu Quốc hội, Chính phủ cần xây dựng quy hoạch mang tính bền vững, ổn định và hiệu quả. Ưu tiên cho những ngành, sản phẩm mũi nhọn trong nông nghiệp từ khâu quy hoạch cho đến chính sách, cơ chế khuyến khích đầu tư, xúc tiến thương mại vì các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài nên rất cần sự bảo đảm ổn định và bền vững của quy hoạch./.