ĐBQH TRỊNH NGỌC PHƯƠNG ĐÓNG GÓP VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG CÒN Ý KIẾN KHÁC NHAU CỦA DỰ THẢO LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG (SỬA ĐỔI)

30/12/2020

Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, đại biểu Trịnh Ngọc Phương – Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh đóng góp quan điểm về một số nội dung còn khác nhau của dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi).

Đại biểu Trịnh Ngọc Phương – Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh cho rằng: Theo phương án 1 tại mục 4a, từ Điều 40.a1 đến Điều 48.a1 và mục b từ Điều 40.b1 đến Điều 50.b1 của Chương IV dự thảo Luật Bảo vệ môi trường quy định về giấy phép môi trường, chỉ sử dụng một loại giấy phép môi trường được tích hợp 6 loại giấy phép khác nhau theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường hiện hành, Luật Tài nguyên nước và Luật Thủy lợi, bao gồm: Giấy xác nhận hoàn thành bảo vệ môi trường; Giấy xác nhận đủ điều kiện bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất; Giấy phép xử lý chất thải nguy hại; Sổ đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại; Giấy phép xả thải công nghiệp; Giấp phép xả nước vào nguồn nước hoặc Giấy phép xả thải vào công trình thủy lợi. Theo đó, khoản 2 của phương án 1, Điều 173 dự thảo tại điểm c bãi bỏ Điều 58. Do vậy, với dự thảo Luật Bảo vệ môi trường này thì giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi theo Luật Thủy lợi sẽ do ngành tài nguyên và môi trường thực hiện, ngành nông nghiệp không còn thẩm quyền này. Quy định như vậy là không phù hợp, bởi vì:

Thứ nhất, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực quản lý liên quan đến các chủ thể quản lý tương ứng khác nhau. Tại khoản 3 Điều 2 Luật Thủy lợi quy định công trình thủy lợi là công trình hạ tầng kỹ thuật thủy lợi bao gồm đập, hồ chứa nước, cống, trạm bơm, hệ thống dẫn, kè bao thủy lợi và công trình khác phục vụ quản lý, khai thác thủy lợi. Tại khoản 11 chủ quản lý công trình thủy lợi là cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thủy lợi thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Ủy ban Nhân dân các cấp hoặc tổ chức được nhà nước giao quyền, trách nhiệm đại diện chủ sở hữu, tổ chức thủy lợi cơ sở, tổ chức, cá nhân tự đầu tư xây dựng công trình thủy lợi. Như vậy, công trình thủy lợi thuộc trách nhiệm quản lý của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, nhưng khi một chủ thể khác xả thải vào công trình thủy lợi là do ngành tài nguyên và môi trường cấp phép là không phù hợp. Điều này chẳng khác thải nước thải vào nhà tôi mà tôi không có quyền gì.


Đại biểu Trịnh Ngọc Phương – Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh.

Thứ hai, nguyên tắc quản lý, khai thác công trình thủy lợi tại khoản 1 Điều 19 Luật Thủy lợi quy định quản lý thống nhất thay hệ thống cống công trình thủy lợi từ công trình đầu mối để công trình thủy lợi nội đồng phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ của hệ thống, đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng nước phục vụ sản xuất dân sinh và các ngành kinh tế. Như vậy, với quy định của dự thảo Luật Bảo vệ môi trường thì thẩm quyền cấp phép xả thải ra công trình thủy lợi là do ngành tài nguyên và môi trường quyết định thì nguyên tắc quản lý, khai thác công trình thủy lợi nêu trên sẽ bị phá vỡ những vấn đề có tính cơ bản, có tính căn cơ, làm ảnh hưởng đến mục tiêu, nhiệm vụ có tính hệ thống và khó đảm bảo về yêu cầu số lượng, chất lượng nước phục vụ sản xuất, dân sinh và các ngành kinh tế.

Thứ ba, khoản 14 Điều 2 Luật Thủy lợi quy định sản phẩm, dịch vụ thủy lợi là sản phẩm dịch vụ được tạo ra do khai thác công trình thủy lợi. Tại khoản 1 Điều 32 quy định hợp đồng cung cấp sản phẩm, dịch vụ thủy lợi là hợp đồng dân sự và phải có tiêu chuẩn, số lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ thủy lợi, quyền và nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Như vậy, sản phẩm dịch vụ thủy lợi được coi là một loại hàng hóa, dịch vụ được tạo ra từ khai thác công trình thủy lợi, được chủ thể có quyền cung cấp cho chủ đề khác, có nhu cầu sử dụng, nhưng sản phẩm, dịch vụ đó có đảm bảo chất lượng hay không thì chính chủ thể cung cấp lại không có quyền quyết định. Do vậy, ngành tài nguyên và môi trường có thẩm quyền cấp phép xả thải vào công trình thủy lợi của ngành nông nghiệp quản lý là không phù hợp.

Thứ tư, tại khoản 2 Điều 46 Luật Thủy lợi quy định tổ chức, cá nhân cung cấp sản phẩm dịch vụ thủy lợi trực tiếp bảo vệ chất lượng nước trong công trình thủy lợi, kiểm soát việc xả nước thải vào công trình thủy lợi. Như vậy, với quy định này thì tổ chức, cá nhân cung cấp sản phẩm, dịch vụ thủy lợi có quyền bảo vệ sản phẩm, dịch vụ. Nhưng tại dự thảo Luật Bảo vệ môi trường thì việc làm cho sản phẩm, dịch vụ thủy lợi có chất lượng hay không lại lệ thuộc vào chủ thể khác quyết định. Đây là quy định không logic, không khả thi và mất đi vai trò chủ động quản lý chất lượng dịch vụ mà mỗi chủ thể phải có trách nhiệm quản lý do mình cung cấp.

Thứ năm, tại điểm b khoản 2 Điều 56 Luật Thủy lợi quy định về công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo về thủy lợi. Theo quy định này thì có khiếu nại hoặc tố cáo liên quan đến việc xả thải vào công trình thủy lợi hoặc sản phẩm dịch vụ thủy lợi không đạt chất lượng thì thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo là của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tuy nhiên, việc giao cho ngành tài nguyên cấp phép xả thải vào công trình thủy lợi là không phù hợp. Vì thế, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc lại vì chúng ta điều chỉnh việc xả thải vào công trình thủy lợi không phải đơn thuần là 1, 2 điều của Luật Thủy lợi mà cả kết cấu của Luật Thủy lợi, trong khi đó Luật Thủy lợi chúng ta mới vừa thông qua chưa kịp ráo mực và chưa kể khoảng hơn 10 điều luật phải chỉnh sửa theo đó. Từ những lý do trên, đại biểu Trịnh Ngọc Phương đề nghị giao ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm về số lượng và chất lượng nước trong công trình thủy lợi, thực hiện cấp giấy phép xả thải vào công trình thủy lợi, còn ngành Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm môi trường nói chung. Trước mắt, tập trung vào bảo vệ chất lượng nước của nguồn nước tự nhiên là khoa học và phù hợp với thực tiễn.

Tại Chương IV của dự thảo có 4 mục, từ mục 2 đến mục 4 trong dự thảo chia ra 2 phương án. Phương án 1 là Chính phủ trình phân loại dự án theo thủ tục đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường, từ Điều 29a đến Điều 48a2. Phương án 2 là phương án phân loại dự án theo tiêu chí tác động đến môi trường từ Điều 29b đến Điều 49b2. Đại biểu Trịnh Ngọc Phương đề nghị Quốc hội chọn phương án 2 vì tiêu chí tác động môi trường chúng ta hướng tới để thuận tiện trong thực tiễn áp dụng và quản lý. Về hiệu quả tiến hành tại Điều 173 từ phân tích nêu trên, đại biểu Trịnh Ngọc Phương kiến nghị áp dụng phương án 2 của dự thảo. Còn về các điều khoản chuyển tiếp tại Điều 154, đại biểu kiến nghị áp dụng phương án 2 của dự thảo./.

Bích Lan