ĐBQH NGUYỄN THỊ LỆ THỦY: PHÂN BIỆT RÕ ĐẤT SỬ DỤNG VÀO MỤC ĐÍCH CÔNG CỘNG VỚI ĐẤT XÂY DỰNG CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG

10/07/2023

Tham gia phát biểu tại phiên thảo luận về Dự án Luật Đất đai (sửa đổi), đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy – Đoàn ĐBQH tỉnh Bến Tre đề nghị cần phân biệt rõ đất sử dụng vào mục đích công cộng với đất xây dựng các công trình công cộng; đồng thời, thống nhất một số khái niệm giữa luật này và các luật có liên quan.

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP CHIỀU 21/6: QUỐC HỘI TIẾP TỤC THẢO LUẬN DỰ ÁN LUẬT ĐẤT ĐAI (SỬA ĐỔI)

Bảo vệ nguồn nước do chính các công ty thủy điện quản lý

Phát biểu tại phiên thảo luận, đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy đề nghị làm rõ sự khác nhau giữa đất có mặt nước là ao, hồ, đầm được giao để nuôi thủy sản tại Điều 188 và đất sông, ngòi, kênh rạch, suối và mặt nước chuyên dùng cũng được giao để nuôi trồng thủy sản tại Điều 209, cũng như là các dạng tích tụ nước mà theo khái niệm về nguồn nước trong Luật Tài nguyên nước bao gồm là sông, suối, kênh, rạch, hồ, ao, đầm phá.

Theo đại biểu, luật chỉ nên điều chỉnh theo dạng tích tụ nước, không nên điều chỉnh theo mục đích sử dụng nước, bởi vì ở đâu có nước thì ở đó có thể nuôi thủy sản và không chỉ có ao, hồ, đầm mới được nuôi thủy sản. Ngoài ra, việc nuôi trồng thủy sản cũng có thể sử dụng đất có mặt nước cho các mục đích khác. Đồng thời, đại biểu đề nghị ghi rõ việc san lấp hoặc đào hồ, đầm phải được phép của cơ quan có thẩm quyền về tài nguyên nước để dễ áp dụng và để thống nhất với Luật Tài nguyên nước.

Đối với đất rừng, các quy định tại các điều từ Điều 184 đến Điều 186 đã tương thích với pháp luật về lâm nghiệp. Tuy nhiên, thực tế đất thuộc hành lang bảo vệ nguồn nước của các hồ thủy điện cũng cần được nghiên cứu chuyển mục đích sử dụng phù hợp để trồng rừng phòng hộ, nhằm mục đích bảo vệ phát triển nguồn sinh thủy, hạn chế xói lở, bảo vệ các cột mốc chỉ giới, hành lang bảo vệ nguồn nước do chính các công ty thủy điện quản lý.

Đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy – Đoàn ĐBQH tỉnh Bến Tre 

Trong thực tế hiện nay, các công ty thủy điện được nhà nước giao đất, cho thuê đất vẫn phải bồi thường diện tích đất trong hành lang bảo vệ nguồn nước, nhưng không được sử dụng mà phải giao lại cho địa phương và địa phương lại giao cho các hộ dân canh tác nông nghiệp trồng rừng. Nhưng việc trồng rừng thì thiếu đồng bộ, không đảm bảo mục tiêu phòng hộ đầu nguồn hoặc bị bỏ hoang hóa đất trong hành lang bảo vệ nguồn nước ở những vị trí xung yếu, hiểm trở, dẫn đến nguy cơ sạt lở, đe dọa an toàn công trình, mất mát các mốc chỉ giới, do đó đại biểu đề nghị cần xem xét các trường hợp đặc thù này.

Ngoài ra, đại biểu đề nghị cân nhắc bỏ khoản 2 Điều 186 quy định "Ban quản lý rừng đặc dụng phối hợp với chính quyền địa phương lập dự án di dân ra khỏi phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng". Với lý do quy định này mong muốn giải quyết một tình huống cụ thể đã tồn tại từ lâu về dân di cư đang sống trong phân khu nghiêm ngặt của rừng đặc dụng, nhưng nếu quy định như vậy sẽ không giải quyết dứt điểm tình trạng này mà còn khuyến khích tình trạng vi phạm và đi ngược lại Chỉ thị 13 của Ban Bí thư là không nên luật hóa một hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, thay vì đưa vào luật thì nên có giải pháp riêng để giải quyết và hiện nay thì sơ kết Chỉ thị 13 cũng đã có đề xuất giải pháp riêng cho tình trạng này.

Đối với đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản, Điều 203, đại biểu đề nghị làm rõ khái niệm thuê đất mặt tại cuối điểm d khoản 2 Điều 203. Quy định này chưa được đề cập trong luật, chưa rõ là thuê đất mặt trong trường hợp nào, hình thức cho thuê và độ sâu của lớp đất mặt.

Đồng thời, khoản 5 quy định: "Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, bố trí quỹ đất, giao đất để lực lượng công an nhân dân bảo đảm an toàn, trật tự đối với khu vực hoạt động khoáng sản khi có yêu cầu". Đề nghị làm rõ nguồn gốc đất thuộc dự án hay không thuộc dự án, có phải đất quốc phòng, an ninh hay không và cần làm rõ việc hoàn lại đất khi dự án kết thúc hoặc khi tình hình an ninh, trật tự không còn phức tạp, ai sẽ chịu trách nhiệm bảo đảm điều kiện về nhân sự và chế độ cho lực lượng này đối với việc bảo vệ an ninh, trật tự cho một công trình, dự án cụ thể.

Đại biểu cho biết, qua thực tiễn giám sát các dự án khai thác khoáng sản cho thấy còn nhiều bất cập trong việc thuê đất và hoàn lại từng phần đất sau thuê theo tiến độ khai thác khoáng sản. Mặc dù quy định này đã được quy định trong Luật Đất đai 2013 nhưng tính khả thi không cao do chưa có những quy định cụ thể về trình thủ tục và quy định quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi hoàn lại đất đã thuê, dẫn đến nhà đầu tư không muốn hoàn lại, không thể hoàn lại hoặc không được hoàn lại đất theo tiến độ khai thác cho địa phương, trong khi địa phương thì rất cần quỹ đất để phát triển kinh tế.

Phân biệt rõ đất sử dụng vào mục đích công cộng với đất xây dựng các công trình công cộng

Bên cạnh đó, đại biểu đề nghị cần phân biệt rõ đất sử dụng vào mục đích công cộng ở Điều 201 với đất xây dựng các công trình công cộng có hành lang bảo vệ Điều 204 và đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng ở Điều 209 vì có sự trùng lắp với nhau.

Theo đó, đất sử dụng vào mục đích công cộng ở Điều 201 bao gồm đất để xây dựng các công trình công cộng, trong đó có sân bay, bến cảng. Như vậy, có trùng lắp với đất cảng hàng không sân bay dân dụng tại Điều 202 hay không. Ngoài ra, đất sử dụng vào mục đích công cộng Điều 201 cũng bao gồm đất xây dựng công trình giao thông thủy lợi, trong khi đất xây dựng các công trình công cộng có hành lang bảo vệ tại Điều 204 cũng bao gồm đất xây dựng các hệ thống giao thông thủy lợi. Đồng thời, hồ thủy điện về hình thức cũng giống hồ thủy lợi, cũng có hành lang bảo vệ công trình nhưng lại chịu sự điều chỉnh của Điều 209 quy định về đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng và theo pháp luật về thủy lợi, hồ chứa nước chỉ là một phần của công trình thủy lợi, lại vừa bị điều chỉnh bởi Điều 204, vừa chịu sự điều chỉnh của Điều 209.

Đại biểu nêu rõ, hiện nay ngoài việc kết hợp nuôi thủy sản thì các hồ thủy điện còn có hoạt động du lịch và năng lượng, chịu sự điều chỉnh của loại đất sử dụng đa mục đích ở Điều 212 hay đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng, Điều 209. Do đó, đại biểu đề nghị tiếp tục nghiên cứu quy định cụ thể hơn. Ngoài ra, cần nghiên cứu bổ sung các quy định cụ thể nguyên tắc xác định nghĩa vụ tài chính đối với người sử dụng đất đa mục đích để tránh rủi ro cho cơ quan quản lý nhà nước khi cấp phép, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tránh chồng lấn về thẩm quyền cấp phép và thất thoát ngân sách nhà nước.

Đồng thời, đại biểu đề nghị cần thống nhất các khái niệm đất thuộc phạm vi vùng phụ cận công trình thủy điện, thủy lợi; hành lang bảo vệ công trình theo luật này với hành lang bảo vệ nguồn nước theo Luật Tài nguyên nước; hành lang bảo vệ công trình thủy lợi theo Luật Thủy lợi; hành lang bảo vệ đê điều theo Luật Đê điều; khu vực cấm, khu vực bảo vệ, vành đai an toàn và hành lang an toàn kỹ thuật theo pháp luật về quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự để việc áp dụng được thuận lợi trong thực tiễn.

Ngoài ra, cần rà soát, quy định kỹ về các trường hợp chuyển tiếp đối với các trường hợp đất có người đang sử dụng hợp pháp được pháp luật thừa nhận mà đất đó nằm trong các hành lang bảo vệ an toàn theo quy định của luật này; nằm trong hành lang bảo vệ nguồn nước theo quy định của Luật Tài nguyên nước; nằm trong hành lang bảo vệ công trình thủy lợi theo pháp luật về thủy lợi và khu vực bảo vệ vành đai an toàn và hành lang an toàn kỹ thuật theo pháp luật về quản lý, bảo vệ công trình và khu quân sự.

Hồ Hương

Các bài viết khác