Quốc hội thông qua Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi)

20/06/2017

Bước vào những ngày làm việc cuối cùng của Kỳ họp thứ 3, Quốc hội tập trung cho công tác lập pháp, xem xét thông qua nhiều dự án Luật quan trọng. Trong phiên họp toàn thể tại Hội trường sáng ngày 20/6, dưới sự điều hành nội dung của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi) với 458/458 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành chiếm 93,28% tổng số đại biểu Quốc hội.

Trước đó, Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi) gồm các nội dung: người được trợ giúp pháp lý; quy định hỗ trợ thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp, điển hình; hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý, đăng ký tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý; Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý; quyền và nghĩa vụ của người thực hiện trợ giúp pháp lý; tiêu chuẩn của Trợ giúp viên pháp lý; giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi)

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định nêu rõ, qua thảo luận, nhiều ý kiến nhất trí với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật về người được trợ giúp pháp lý. Có ý kiến đề nghị rà soát quy định về trẻ em, người khuyết tật, nạn nhân của hành vi mua bán người cho thống nhất với các luật có liên quan. Có ý kiến đề nghị bổ sung một số đối tượng được trợ giúp pháp lý như: người thuộc hộ cận nghèo là người bị hại, người chấp hành xong án phạt tù, chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, người Việt Nam ở nước ngoài.

Theo đó, diện người được trợ giúp pháp lý trong dự thảo Luật đã bao quát và mở rộng hơn nhiều so với Luật hiện hành, tăng từ 7 nhóm (theo Chính phủ trình) lên 14 nhóm người được trợ giúp pháp lý theo những nguyên tắc đã báo cáo Quốc hội, thể hiện đúng bản chất của trợ giúp pháp lý của Nhà nước, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và cũng đã được đa số các Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội tán thành. Đồng thời, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội tại kỳ họp này, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho tiếp tục mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý đối với tất cả trẻ em khi có yêu cầu trợ giúp pháp lý; người dân tộc thiểu số “cư trú” mà không chỉ là “thường trú” ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Đối với những người chưa được quy định trong Luật này thì vẫn có thể được các tổ chức luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật và tổ chức, cá nhân khác hỗ trợ pháp lý “miễn phí” theo quy định của pháp luật về luật sư, tư vấn pháp luật; khi điều kiện kinh tế - xã hội cho phép sẽ tiếp tục nghiên cứu để bổ sung những người này vào Luật Trợ giúp pháp lý.

Liên quan đến quy định về Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, về cơ bản, các ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với quy định trong dự thảo Luật. Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng việc quy định thành lập mới Chi nhánh sẽ làm tăng biên chế, không phù hợp với Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị. Về vấn đề này, báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội nêu: Từ thực tiễn tổng kết thi hành Luật, theo đề nghị của Chính phủ, nhằm tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác trợ giúp pháp lý, dự thảo Luật quy định phải rà soát, sắp xếp lại, sáp nhập hoặc giải thể các Chi nhánh đã được thành lập, bảo đảm hiệu quả hoạt động (khoản 4 Điều 48); việc thành lập mới Chi nhánh phải đáp ứng những yêu cầu rất chặt chẽ. Trong trường hợp thực sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập mới Chi nhánh trên cơ sở cân đối biên chế được giao của địa phương (khoản 2 Điều 11). Việc quy định như vậy sẽ không làm phát sinh thêm biên chế ở địa phương, bảo đảm phù hợp với Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Quốc hội biểu quyết thông qua Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi)                                                  Ảnh: Đình Nam

Ngoài ra, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã bỏ điều kiện đối với tổ chức hành nghề luật sư “có ít nhất 01 luật sư làm việc thường xuyên tại tổ chức” khi ký hợp đồng hoặc đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý để tránh quy định trùng lặp với quy định của Luật Luật sư; đồng thời, quy định tổ chức tư vấn pháp luật được ký kết hợp đồng trợ giúp pháp lý khi “có ít nhất 01 tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên hoặc 01 luật sư làm việc thường xuyên tại tổ chức”. Bổ sung làm rõ quyền của người được trợ giúp pháp lý có thể gửi yêu cầu trợ giúp pháp lý thông qua cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng...

Tại phiên họp, dưới sự điều hành nội dung của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi) với 458/458 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành chiếm 93,28% tổng số đại biểu Quốc hội.

Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi) gồm 8 Chương, 48 Điều quy định về người được trợ giúp pháp lý; tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý; người thực hiện trợ giúp pháp lý; hoạt động trợ giúp pháp lý; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động trợ giúp pháp lý.

Luật xác định rõ, trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong các vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.

Đại biểu Quốc hội bấm nút biểu quyết thông qua Luật

Điều 7 Luật trợ giúp pháp lý quy định người được trợ giúp pháp lý gồm: Người có công với cách mạng; Người thuộc hộ nghèo; Trẻ em; Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; Người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính: a) Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; b) Người nhiễm chất độc da cam; c) Người cao tuổi; d) Người khuyết tật; đ) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; e) Nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; g) Nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; h) Người nhiễm HIV. Đồng thời quy định, Chính phủ quy định chi tiết điều kiện khó khăn về tài chính của người được trợ giúp pháp lý quy định tại khoản này phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.

Sau 05 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, người được bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý không có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư thì bị thu hồi thẻ Trợ giúp viên pháp lý.

Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật có hiệu lực thi hành, các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý, người tham gia trợ giúp pháp lý theo Luật trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11 phải đáp ứng theo yêu cầu của Luật này; trường hợp không đáp ứng yêu cầu của Luật này thì chấm dứt tham gia trợ giúp pháp lý và chuyển hồ sơ vụ việc đang thực hiện cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước nơi đăng ký tham gia để tiếp tục thực hiện.

Vụ việc trợ giúp pháp lý đang được thực hiện theo Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11 nhưng đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa kết thúc thì tiếp tục thực hiện theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11 cho đến khi kết thúc vụ việc.

Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh rà soát các Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước đã được thành lập và căn cứ vào nhu cầu trợ giúp pháp lý, nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý và hiệu quả hoạt động báo cáo Bộ Tư pháp để thống nhất việc duy trì, sáp nhập hoặc giải thể các Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.

Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.

Bảo Yến