Đại biểu Phùng Đức Tiến – tỉnh Hà Nam: Đề nghị Chính phủ quan tâm các giải pháp nhằm thúc đẩy năng lực chế tạo và sử dụng công nghệ của các doanh nghiệp

12/06/2017

Ngày 09/6, Quốc hội dành một ngày làm việc thảo luận tại Hội trường về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2016; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tê – xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2017. Khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng, ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp hỗ trợ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát biểu tại Hội trường, đại biểu Phùng Đức Tiến – tỉnh Hà Nam đề nghị Chính phủ quan tâm đến các vấn đề nhằm thúc đẩy năng lực chế tạo và sử dụng công nghệ của các doanh nghiệp.

Đại biểu Phùng Đức Tiến - tỉnh Hà Nam phát biểu tại Hội trường          Ảnh: Đình Nam

Năng lực ngành công nghiệp cơ khí chế tạo trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu

Đại biểu Phùng Đức Tiến cho biết, trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam có xu hướng chậm lại, trung bình 14,3% năm. Giai đoạn 2006 - 2010 giảm xuống chỉ còn gần 10%, giai đoạn 2011 - 2015 giảm hầu hết trong các nhóm ngành công nghiệp. Trong đó cơ khí chế tạo có vị trí rất quan trọng, là cơ sở, động lực cung cấp toàn bộ trang thiết bị cho các ngành công nghiệp khác. Một nước đi lên không thể đi lên công nghiệp hóa hiện đại hóa nếu như không có một ngành công nghiệp phát triển ở trình độ cao, dựa trên nền tảng khoa học công nghệ tiến tiến, trong đó ngành công nghiệp nặng của nước ta đang khủng hoảng thực sự, đặc biệt cơ khí chế tạo đang đi thụt lùi so với mấy chục năm trước đây, đại biểu nhấn mạnh.

Theo số liệu thống kê hiện nay cả nước có khoảng 3100 doanh nghiệp cơ khí với 53.000 cơ sở sản xuất, trong đó có gần 450 doanh nghiệp quốc doanh, 1.250 doanh nghiệp cơ sở sản xuất tập thể, 156 xí nghiệp tư doanh, khoảng 50% cơ sở sản xuất cơ khí chuyên chế tạo, lắp ráp, còn lại chủ yếu các cơ sở sửa chữa. Nhu cầu về máy móc thiết bị giai đoạn từ năm 2011 - 2020 và những năm tiếp theo khá lớn, con số được dự báo về nhu cầu máy và thiết bị trong giai đoạn 2011 - 2025 xấp xỉ 250 tỷ USD. Tuy nhiên, năng lực trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu dự kiến trung bình mỗi năm Việt Nam phải chi hàng chục tỷ USD để nhập khẩu máy móc, thiết bị.

Năm 2015, Việt Nam nhập khẩu máy móc, thiết bị với tổng giá trị 27,57 tỷ USD, trong đó tổng giá trị xuất khẩu máy móc, thiết bị chỉ đạt 8,17 tỷ USD. Năng lực ngành cơ khí trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu trong nước. Tình trạng chung của hầu hết các doanh nghiệp trong nước đều thiếu vốn, công nghệ, thiết bị chế tạo lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về sản phẩm công nghệ cao, vốn ít. Việc tiếp cận với vốn ngân hàng lãi suất thấp hết sức khó khăn, chính sách hỗ trợ của nhà nước mặc dù đã đầy đủ nhưng doanh nghiệp chỉ được hưởng lợi trên giấy.

Việc đầu tư của ngành cơ khí chế tạo những năm qua còn phân tán và chưa đồng bộ, chưa có một cơ sở chế tạo đủ mạnh làm đòn bẩy thúc đẩy toàn ngành. Việc phối hợp liên kết chưa được thực hiện vì thiếu những công nghệ tiên tiến và thiết bị chế tạo phục vụ ngành cơ khí như công nghệ đúc, chế tạo phôi, thép, rèn, có yêu cầu chất lượng cao, khối lượng lớn, thiếu các cơ sở có máy móc thiết bị gia công, chế tạo sản phẩm cỡ lớn, thiếu nhân lực chất lượng cao cho ngành, kể cả cán bộ hoạch định chính sách, quản lý, tư vấn, thiết kết, công nhân kỹ thuật lành nghề.

Chưa có sự lan tỏa thúc đẩy phát triển công nghệ hỗ trợ

Về công nghiệp hỗ trợ, đại biểu Phùng Đức Tiến cho hay, mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài không chỉ là thu hút vốn mà còn cả công nghệ, kinh nghiệm quản lý thông qua việc chuyển giao công nghệ và hình thành chuỗi liên kết. Nhưng sau 30 năm đổi mới thu hút đầu tư, tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việc nâng cao trình độ công nghệ cho nền kinh tế nước ta chưa rõ nét, chưa có sự lan tỏa thúc đẩy phát triển công nghệ hỗ trợ và phát triển khu vực tư nhân, kết quả của các chương trình phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ rất chậm, trong một thời gian dài công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức và đang tồn tại nhiều yếu kém, rất nhiều sản phẩm, linh kiện rất đơn giản nhưng chưa sản xuất được.

Hiện nay cả nước có khoảng 1.383 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, chia làm ba nhóm ngành sản xuất chính, cơ khí, điện tử, nhựa và cao su. So với tổng số 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước thì doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chỉ chiếm 0,03%, trong đó có khoảng 500 doanh nghiệp cung ứng sản phẩm cho ngành sản xuất ô tô, xe máy, điện tử, hầu hết, nguyên vật liệu cho công nghiệp chế tạo phụ tùng và thiết bị phụ trợ phải nhập khẩu.

Tỷ lệ cung ứng nguyên phụ liệu trong nước của một số nhóm, ngành trọng điểm như ô tô chỉ từ 20-30%, giày da, dệt may >10%. Điều này dẫn đến hệ quả giá trị gia tăng thấp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kém. Các doanh nghiệp cung cấp linh kiện, bán sản phẩm hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc đang đầu tư vào Việt Nam, tiếp theo là các doanh nghiệp Đài Loan, cuối cùng mới là doanh nghiệp Việt Nam với một tỷ trọng ít ỏi.

Xây dựng cơ chế chính sách đặc thù cho trong ngành công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo

Phát biểu tại Hội trường, đại biểu Phùng Đức Tiến nêu rõ, theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam có tiềm năng rất lớn về phát triển công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là các ngành có tiềm năng xuất khẩu như hóa dầu, chế biến nông sản, kinh tế biển, công nghệ thông tin, ô tô. Với vai trò đặc biệt quan trọng, ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp hỗ trợ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đại biểu đề nghị Chính phủ quan tâm một số vấn đề sau:

Một là, đánh giá một cách nghiêm túc về sự suy giảm của ngành cơ khí chế tạo, nhất là những ngành, lĩnh vực có vị trí xứng đáng một thời, từ đó có giải pháp phù hợp để thúc đẩy phát triển ngành.

Hai là, thúc đẩy năng lực chế tạo và sử dụng công nghệ của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có công nghệ cao, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cải thiện hạ tầng khoa học công nghệ và môi trường kinh doanh để thúc đẩy các doanh nghiệp FDI đầu tư chuyển giao công nghệ và triển khai hoạt động thiết kế, chế tạo tại Việt Nam thay vì tăng cường gia công lắp ráp, sử dụng lao động giá rẻ, lựa chọn và xây dựng chính sách nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao trong công nghệ hỗ trợ và cơ khí chế tạo.

Ba là, xây dựng cơ chế chính sách đặc thù cho hoạt động nghiên cứu, sản xuất một số lĩnh vực, sản phẩm trọng yếu, mũi nhọn trong ngành công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo. Lựa chọn ngành và lĩnh vực, sản phẩm để phát triển theo lộ trình, chỉ đạo quyết liệt, thống nhất thường xuyên giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các tập đoàn kinh tế trong việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án khoa học công nghệ quy mô lớn.

Bốn là, lựa chọn và xây dựng thí điểm các doanh nghiệp tiên phong có đủ năng lực, tiềm lực để hỗ trợ tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ quy mô lớn, các sản phẩm quốc gia thuộc lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo. Tập trung thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm hình thành và phát triển các doanh nghiệp khoa học công nghệ, các cơ sở ươm tạo công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo.

Năm là, đầu tư nâng cao tiềm lực, năng lực nghiên cứu, triển khai các viện nghiên cứu, các tập đoàn, tổng công ty, lựa chọn và tập trung, hỗ trợ triển khai nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ một số nhóm, nhiệm vụ có quy mô lớn thuộc các ngành công nghiệp ưu tiên chương trình phát triển sản phẩm quốc gia.

Bảo Yến

Các bài viết khác