ĐBQH NGUYỄN MINH SƠN- TIỀN GIANG: CẦN LÀM RÕ ĐỊA CHỈ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG DỰ ÁN THUA LỖT

29/05/2018

Sáng 28/5, Quốc hội thảo luận về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản NN tại DN và CP hóa doanh DNNN giai đoạn 2011-2016. Phát biểu tại hội trường, ĐBQH Nguyễn Minh Sơn - Đoàn ĐBQH tỉnh Tiền Giang, cho rằng nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản NN tại DN xuất phát từ công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với DNNN...

Đại biểu Nguyễn Minh Sơn phát biểu tại hội trường

Tìm nguyên nhân từ góc độ của đại diện chủ sở hữu và quản trị doanh nghiệp

Phát biểu tại hội trường đại biểu Nguyễn Minh Sơn – Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang bày tỏ cơ bản tán thành nhiều nội dung mà Báo cáo kết quả giám sát và Báo cáo của Chính phủ đã nêu.

Bên cạnh đó, đại biểu cũng nhấn mạnh, vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Nghiêm trọng hơn, thời gian qua đã xảy ra những vi phạm trong lĩnh vực này dẫn đến những hậu quả nặng nề khó khắc phục. Một số vụ việc đã phải gửi qua cơ quan điều tra, xử lý hình sự.

Đại biểu cho rằng, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này xuất phát từ công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với DNNN. Vấn đề này cần nhìn nhận ở hai góc độ. Góc độ của đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và góc độ quản trị doanh nghiệp.

Từ góc độ của đại diện chủ sở hữu, theo đại biểu Nguyễn Minh Sơn, phần lớn các doanh nghiệp này có vẫn có tổ chủ quản hoặc chính quyền cấp tỉnh chủ quản. Các cơ quan quản lý nhà nước cùng lúc thực hiện hai chức năng nên dễ gây xung đột lợi ích trong việc ban hành chính sách với chỉ đạo thực hiện và kiểm tra giám sát. Cách thức thực hiện giám sát, đánh giá hiện chủ yếu căn cứ vào các báo cáo của DNNN mang tính thống kê hơn là báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu của chủ sở hữu. Việc giám sát, đánh giá chủ sở hữu cũng căn cứ vào kết quả thực hiện so với kết quả do DNNN tự xây dựng và đăng ký, nên đánh giá chưa rõ được yêu cầu và đòi hỏi của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN. Việc hình thành và quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu, thống kê của DNNN nói chung để phục vụ công tác giám sát, đánh giá còn hạn chế.    

Từ góc độ quản trị doanh nghiệp, cần thấy rằng, hoạt động kiểm soát nội bộ doanh nghiệp còn hạn chế. Một số trường hợp còn thiếu tính độc lập với Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Ban điều hành doanh nghiệp, nên không thể phát huy vai trò là công cụ cảnh báo sớm, ngăn ngừa các vi phạm về quản lý, sử dụng vốn tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.

Do đó, muốn khắc phục các bất cập này, theo đại biểu, trong từng DNNN cần tạo lập 3 vòng kiểm soát theo thông lệ quốc tế. Một là, phát hiện và quản lý rủi ro trong hoạt động hàng ngày thông qua kiểm soát nội bộ. Hai là, theo dõi, giám sát rủi ro trong toàn bộ doanh nghiệp thông qua hệ thống quản trị rủi ro. Ba là, kiểm toán nội bộ để bảo vệ tài sản, vốn của nhà nước, kinh tế của nhà nước.

Cần làm rõ dự án thuộc ngành, lĩnh vực nào lỗ và lãi

Nêu rõ, báo cáo Chính phủ trang 38, tính đến 31/12/2016 đã có 18 tập đoàn, tổng công ty 100% vốn nhà nước có dự án đầu tư ra nước ngoài, thực hiện đầu tư 110 dự án với tổng vốn đầu tư đã thực hiện hơn 7 tỷ USD, chủ yếu tập trung trong khai thác dầu khí, viễn thông, trồng cây cao su, khai thác khoáng sản… Trong đó, 25,5% dự án báo lỗ, 29% dự án lỗ, 46,6% dự án không có báo cáo doanh thu, lợi nhuận. Chỉ riêng năm 2016, lợi nhuận được chia cho Việt Nam là 145 triệu USD. Đại biểu Nguyễn Minh Sơn đánh giá, nội dung này của báo cáo còn tương đối đơn giản, chưa lột tả được bức tranh tổng thể đầu tư ra nước ngoài của các DNNN.

Vì vậy, đại biểu đề nghị báo cáo cần làm rõ, dự án thuộc ngành, lĩnh vực nào lỗ và lãi, hạn chế vướng mắc và nguyên nhân của việc lỗ. Chính phủ, cần rà soát, tổng kết vấn đề này, để đánh giá thực chất hơn, đưa ra các giải pháp xử lý, cơ cấu lại đối với những dự án đầu tư kém hiệu quả theo hướng bán, chuyển nhượng. Trong đó, cũng cần chú ý đưa ra các giải pháp xử lý kịp thời vướng mắc cho doanh nghiệp, bảo đảm không làm ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả đầu tư đối với một số dự án quan trọng mang tính chiến lược. Xin kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong phân công công tác đối ngoại năm 2019 cho các cơ quan của Quốc hội, ngoài việc triển khai thực hiện theo lĩnh vực phụ trách thì giao thêm nhiệm vụ khảo sát, nắm tình hình của các dự án tại các nước khi đến làm việc.

Cần xem xét lại quy định về xác định giá trị quyền thuê đất và giá trị DNNN khi cổ phần hóa

Về cổ phần hóa doanh nghiệp, đại biểu cho rằng, xử lý đất đai và xác định quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp cổ phần hóa là vấn đề được quan tâm nhất trong quá trình cổ phần hóa thời gian qua. Theo Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, hầu hết các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa giai đoạn 2011 - 2015 đều không tính giá trị lợi thế quyền thuê đất vào giá trị doanh nghiệp. Trong thực tế cho thấy, một số doanh nghiệp có diện tích đất lớn, vị trí đắc địa nhưng không tính giá trị lợi thế quyền thuê đất vào giá khởi điểm để đấu giá trị giá đúng giá cao hơn nhiều với giá khởi điểm.

Ví dụ, đối với trường hợp doanh nghiệp thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm theo Nghị định số 59 của về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần: Tiền thuê đất không tính vào giá trị doanh nghiệp và giá trị lợi thế; tiền thuê đất do đó cũng không được tính vào giá trị doanh nghiệp (Khoản 1 Điều 16 và Khoản 3, Điều 31); Nghị định 126 cũng kế thừa quy định này của Nghị định số 59. Cách tiền thuê đất hiện nay như sau: Tiền thuê đất thu một năm được tính bằng diện tích phải nộp tiền thuê đất nhân với đơn giá thuê đất hàng năm (Điều 12 Nghị định 46); đơn giá thuê đất hàng năm bằng tỷ lệ phần trăm nhân với giá đất tính thu tiền thuê đất (Khoản 1, Điều 4, Nghị định 46).

Đại biểu nhấn định, tỷ lệ phần trăm tính đơn giá thuê đất đối với các đất thuộc đô thị, trung tâm thương mại dịch vụ, đầu mối giao thông, khu dân cư tập trung có khả năng sinh lợi đặc biệt, có lợi thế trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh thương mại và dịch vụ thì căn cứ vào thực tế địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tỷ lệ phần trăm để xác định đơn giá thuê đất một năm nhưng tối đa không quá 3%. Con số 3% thấp hơn lãi suất gửi ngân hàng một năm. Giá đất tính thu tiền thuê đất theo quy định của pháp luật đất đai là giá đất cụ thể.

Quá trình sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 19 của Hội nghị Trung ương 6 Khóa XI về việc tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại cho thấy, việc xác định giá đất cụ thể tại một số địa phương còn lúng túng, bộ máy và cơ sở vật chất bảo đảm cho việc xác định giá đất còn chưa đáp ứng yêu cầu, thông tin về giá đất thị trường còn thiếu và độ tin cậy chưa cao.

Như vậy, hai thông số quan trọng trong việc xác định giá đất là tỷ lệ phần trăm và giá đất cụ thể đều không thể hiện hết tính hiệu quả trong xác định giá trị, lợi thế quyền thuê đất của doanh nghiệp cổ phần. Do đó, kiến nghị Chính phủ để bảo đảm lợi ích nhà nước và phản ánh đúng giá trị thực tế của doanh nghiệp cần xem xét lại quy định liên quan đến xác định giá trị quyền thuê đất và giá trị DNNN khi cổ phần hóa.

Bảo Yến

Các bài viết khác