ĐBQH BÙI THANH TÙNG: CẦN TỐI ƯU HÓA CƠ HỘI KHI VIỆT NAM HỘI NHẬP SÂU RỘNG

27/02/2020

Việt Nam gia nhập các Hiệp định thương mại thế giới, Hiệp định Thương mại thế hệ mới FTA đã đem lại cho nền kinh tế Việt Nam nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV, đại biểu Bùi Thanh Tùng, Đoàn ĐBQH Tp. Hải Phòng đã có chất vấn Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh về giải pháp hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp chủ động ứng phó, vượt qua thách thức.

Những tín hiệu tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế

Những năm qua, Việt Nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tích cực tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA). Nổi bật hơn cả và gần đây nhất khi Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (gọi tắt là Hiệp định CPTPP), ký kết vào ngày 8 tháng 3 năm 2018. Đối với Việt Nam, Hiệp định có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019. Các nước tham gia cam kết xóa bỏ hoàn toàn từ 97-100% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế quan trong vòng 5-10 năm.

Các nước tham gia Hiệp định CPTPP

Chiều 30/6/2019, tại Hà Nội, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) - EVFTA được ký kết và chiều 12/2/2020, tại phiên họp toàn thể ở Strasbourg (Pháp), Nghị viện châu Âu (EP) đã bỏ phiếu thông qua Hiệp định này với số phiếu tán thành đạt tỉ lệ 63,33%.

Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh khẳng định, đây là một kết quả tốt đẹp, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Việt Nam và Liên minh châu Âu. Kết quả đó là nỗ lực của quá trình chia sẻ, hợp tác không ngừng nghỉ suốt 8 năm qua của hai Bên, từ lúc bắt đầu đàm phán, ký kết, hoàn thiện thủ tục pháp lý và thông qua. Việc Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.

Việc Nghị viện châu Âu thông qua Hiệp định EVFTA đánh dấu một cột mốc quan trọng trong chặng đường 30 năm phát triển quan hệ đối tác và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU). Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, việc đàm phán, ký kết và phê chuẩn Hiệp định EVFTA thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của cả hai bên trong việc thúc đẩy quan hệ, góp phần đưa quan hệ giữa Việt Nam và EU phát triển sâu rộng và thực chất hơn.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: Tham gia các FTA cơ hội quan trọng cho các ngành kinh tế Việt Nam

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, Nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương cho rằng: Việt Nam không muốn phụ thuộc vào một nền kinh tế lớn cho nên Việt Nam đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế, quan hệ thương mại. Đây là những tiến bộ to lớn và là chiến lược, chủ trương đúng đắn. Qua đó cũng giúp cho chúng ta khẳng định hiệu quả thế đứng, vị trí cũng như tâm thế của Việt Nam. Đặc biệt là tạo ra những công cụ, cơ hội quan trọng cho các ngành kinh tế Việt Nam. Qua đó chúng ta tiếp tục tái cơ cấu, thực hiện đổi mới trong sản xuất và phát triển kinh tế xã hội theo hướng gắn với sự cạnh tranh trong thị trường toàn cầu hóa.

Hiện nay, EU là một trong số thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này năm 2019 đạt 41,48 tỉ USD và nhập khẩu đạt 14,91 tỉ USD. Ngay khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, EU xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với gần 86% số dòng thuế và hơn 99% dòng thuế được gỡ bỏ sau 7 năm. Ngược lại, Việt Nam cũng cam kết sẽ bỏ ngay 48,5% số dòng thuế cho hàng hoá EU. Sau 10 năm mức xóa bỏ thuế quan là khoảng 98,3% số dòng thuế.. Việc các FTA cắt giảm thuế quan đối với hầu hết các dòng thuế về mức 0% và nhiều biện pháp phi thuế quan là cơ hội tốt để doanh nghiệp Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu vào những thị trường mà Việt Nam đã ký kết các FTA thế hệ mới, từ đó góp phần gia tăng xuất siêu cũng như thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó cũng giúp đẩy nhanh quá trình cải cách thể chế kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hoàn thiện môi trường kinh doanh.

Những năm qua, Việt Nam ghi nhận sự chuyển biến của cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã thâm nhập được vào các thị trường lớn với mức tăng trưởng tốt. Nếu như năm 2011, Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 96,91 tỷ USD với 21 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD thì năm 2019 xuất khẩu của Việt nam đã đạt 263,45 tỷ USD với 32 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Đáng chú ý là hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới hầu hết các thị trường trên thế giới và tận dụng hiệu quả các FTA. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường là thành viên CPTPP đạt mức tăng tốt, điển hình như xuất khẩu sang Canada đạt 3,86 tỷ USD, tăng 28,2%; xuất khẩu sang Me-hi-co đạt 2,84 tỷ USD, tăng 26,8%...

Những thách thức đặt ra khi Việt Nam hội nhập

Cùng với các cơ hội, việc thực thi các FTA thế hệ mới cũng đặt ra không ít thách thức, nhất định. Ngoài việc thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm, nguy cơ nhập khẩu tăng lên, do giá thành sản phẩm của các nước tham gia Hiệp định rẻ hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng, phong phú hơn. Trên thực tế, hiện nay sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp Việt Nam cũng như từng sản phẩm còn thấp, mặt khác, hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gia công lắp ráp, nguyên phụ liệu đầu vào chủ yếu phải nhập khẩu; Tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu thấp, trong khi tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm chậm được cải thiện.

Tham gia FTA cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật; các biện pháp phòng vệ liên quan đến chống bán phá giá, chống trợ cấp, xuất xứ hàng hóa một cách rõ nét hơn so với những năm trước đây. Ngoài ra, Việt Nam sẽ trở thành nơi trung chuyển hàng hóa, bởi khi Việt Nam tham gia hội nhập sâu rộng được hưởng các ưu đãi về thuế quan rất lớn, thậm chí về 0%, thì các nước không tham gia Hiệp định sẽ tranh thủ cơ hội này để chuyển hàng hóa sang Việt Nam, hoặc chuyển hóa hàng hóa từ nước ngoài thành của Việt Nam để làm thủ tục xuất đi EU thay bằng xuất đi từ chính các nước của họ.

Lực lượng TP. Hồ Chí Minh bắt giữ hàng hóa nước ngoài gắn nhãn mác Việt Nam

Thực tiễn cho thấy, thời gian qua lực lượng chức năng các địa phương liên tục phát hiện và bắt giữ nhiều sản phẩm hàng hóa nước ngoài có gắn nhãn mác của Việt Nam. Cụ thể, ngày 03/01/2020. Cục Hải quan TP.Hồ Chí Minh cùng các đơn vị nghiệp vụ tiến hành kiểm tra thực tế, phát hiện 4.036 bao nệm hàng từ Trung Quốc nhưng có nhãn mác ghi “Made in Vietnam” và “Manufactured by Super Foam Vietnam Ltd” (Công ty Super Foam, địa chỉ tại Bình Dương) đồng thời ghi tên nhà nhập khẩu là một doanh nghiệp có địa chỉ tại Hoa Kỳ. Lực lượng hải quan xác định công ty này đã nhập hàng Trung Quốc giả mạo xuất xứ Việt Nam với mục đích chuyển tải bất hợp pháp sang tiêu thụ tại thị trường Mỹ.

Trước đó, tại Quốc lộ 2, Công an tỉnh Phú Thọ bắt giữ 44.868 túi giữ nhiệt sản xuất và nhập khẩu từ nước ngoài, nhưng được gắn mác "Made in Việt Nam" để giả mạo nguồn gốc xuất xứ. Đáng chú ý, tất cả số hàng hóa trên được Công ty Lang Yue (địa chỉ tại xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh) nhập khẩu từ Hồng Kông qua cảng Hải Phòng.

Ông Tô Hoài Nam: 30-40% doanh nghiệp tận dụng tốt các ưu đãi về thuế khi xuất khẩu vào các thị trường có FTA

Ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, cho rằng, so với các nước trong khu vực đã ký FTA với Liên minh châu Âu (EU)-EVFTA, Việt Nam là nước có nền kinh tế, trình độ phát triển thấp nhất từ nguồn nhân lực cho tới khoa học công nghệ. Đặc biệt, với đặc thù 95% doanh nghiệp của Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, nhiều doanh nghiệp chưa nắm rõ nội dung về các FTA cũng như những lợi thế mà việc cắt giảm thuế mang lại. Mặt khác, có doanh nghiệp dù biết nhưng do năng lực sản xuất, cung ứng còn hạn chế nên không đáp ứng được các yêu cầu. Thống kê của Bộ Công Thương cho thấy chỉ có khoảng từ 30-40% doanh nghiệp tận dụng tốt các ưu đãi về thuế khi xuất khẩu vào các thị trường có FTA. Do đó, việc hàng hóa của Việt Nam tham gia hội nhập vào chuỗi cung ứng của thị trường FTA sẽ có nhiều khó khăn, thách thức, áp lực cạnh tranh là rất lớn.

Sức ép cạnh tranh là khá lớn, nhất là những ngành có năng lực, sức cạnh tranh còn nhiều hạn chế như ngành nông nghiệp của Việt Nam. Mặc dù năm 2019, nông thủy sản của Việt Nam đã được xuất khẩu sang thị trường hơn 190 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 41,3 tỉ USD, tăng 3,5% so với năm 2018. Nhiều loại hoa quả có giá trị như thanh long, xoài, chôm chôm, vải… đã được xuất khẩu sang các thị trường lớn như Ô-xtrây-li-a, Nhật Bản,...., Song với đặc thù nhỏ lẻ, phân tán, các quốc gia lại có quy định chặt chẽ về các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật, hàng rào kỹ thuật trong thương mại, đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững thì là thách thức lớn đối với người nông dân, ngành nông nghiệp của Việt Nam.

Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt chưa tận dụng được lợi thế từ các hiệp định thương mại, nhiều ngành hàng sản xuất của Việt Nam còn đối mặt với việc xuất khẩu có tăng nhưng giá trị gia tăng đem lại không cao, chủ yếu vẫn là cung ứng nguyên liệu thô và hàng gia công. Trong khi phần lớn giá trị gia tăng nằm ở khâu chế biến thì chỉ có 10% được chế biến sâu, 90% vẫn xuất khẩu dưới dạng thô. Điển hình là có tới 90% cà phê Việt Nam là xuất khẩu thô; đối với hạt điều là mặt hàng chủ lực của Việt Nam với thị phần trên 60% tổng giá trị xuất khẩu nhân điều thế giới. Tuy nhiên, ngành điều Việt không thể chủ động về đầu vào khi có tới 70% nguyên liệu là nhập khẩu từ các quốc gia Châu Phi. Với năng lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế, thì những yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và mối lo ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh trả lời chất vấn

Trước những khó khăn, thách thức mà Việt Nam gia nhập các Hiệp định thương mại thế giới, Hiệp định Thương mại thế hệ mới FTA trong đó có Hiệp định CPTPP và Hiệp định thương mại Việt Nam-EU, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV, Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng đã có chất vấn Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh về giải pháp hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp khi hiện nay khối doanh nghiệp nhỏ và vừa nhận thức về những thách thức này cũng như kỹ năng ứng phó, xử lý tranh chấp khi xây dựng ra những tranh chấp thương mại vẫn còn khá mơ hồ và lúng túng.

Ngày 23 tháng 9 năm 2019, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã ký văn bản số 1198 trả lời chất vấn của Đại biểu Bùi Thanh Tùng.

Văn bản trả lời nêu rõ: Một trong những đặc điểm chính của hợp tác kinh tế – thương mại quốc tế trong thời gian gần đây là việc xuất hiện của những mối liên kết hợp tác kinh tế mới và sự phát triển mạnh của các xung đột thương mại ở cấp độ song phương, khu vực và thậm chí là cả khuôn khổ đa phương của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trong bối cảnh phức tạp và khó lường đó, Việt Nam là một trong số ít nước vẫn duy trì quyết tâm mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới trên cơ sở các nguyên tắc phù hợp với đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ, mà kết quả rõ nhất là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được Quốc hội Việt Nam chính thức thông qua và có hiệu lực vào tháng 1 năm 2019.

Giữa năm 2019, nước ta tiếp tục ký kết Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA). Như vậy, không chỉ có một mà đến hai hiệp định thương mại tự do (FTA) “thế hệ mới” được Việt Nam tham gia, góp phần thiết lập quan hệ đối tác bình đẳng, trên cơ sở đôi bên cùng có lợi với một số nền kinh tế phát triển nhất thế giới.

Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đem lại rất nhiều kỳ vọng cho Việt Nam. Theo kết quả nghiên cứu chính thức từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hiệp định CPTPP sẽ giúp GDP và xuất khẩu của Việt Nam tăng tương ứng là 1,32% và 4,04% đến năm 2035. Trong khi đó, Hiệp định EVFTA sẽ góp phần làm GDP của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân 2,18-3,25% (năm 2019-2023) và lên tới 7,07-7,72% trong giai đoạn 2029-2033; và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 44,37% vào năm 2030. Cùng với các cơ hội thì việc thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng đặt ra không ít thách thức, đặc biệt đối với Hiệp định EVFTA khi Việt Nam là nền kinh tế có trình độ phát triển thấp nhất so với các nước trong khu vực đã ký FTA với EU.

Trong thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 121 ngày 24 tháng 01 năm 2019 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP. Quyết định đã xác định rõ những công việc cụ thể nhằm triển khai việc thực thi Hiệp định CPTPP. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tính đến thời điểm ngày 9 tháng 7 năm 2019, đã có 23 Bộ, ngành, cơ quan trung ương và 55 cơ quan cấp địa phương ban hành kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP của mình.

Nhằm hiện thực hóa các kỳ vọng và giúp doanh nghiệp chủ động ứng phó, vượt qua các thách thức trong bối cảnh Việt Nam đang tham gia vào ngày càng nhiều các hiệp định thương mại tự do, thời gian qua, các cơ quan cấp trung ương, địa phương đã bám sát Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP của Chính phủ để tổ chức các hội thảo, hội nghị, tọa đàm nhằm phổ biến thông tin về hiệp định và thị trường của các nước thành viên. Bộ Công Thương với vai trò là đầu mối thông tin về các hiệp định thương mại tự do nói chung tích cực cung cấp thông tin và giải đáp, tháo gỡ vướng mắc cho cộng đồng doanh nghiệp, người dân trong quá trình thực thi các hiệp định.

Thời gian tới, trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của 02 Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có quy mô lớn, Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa phương tiếp tục tích cực, chủ động bám sát Nghị quyết số 06 năm 2016 của Ban chấp hành Trung ương đảng về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và Kế hoạch hành động thực thi Hiệp định CPTPP nói riêng và Hiệp định EVFTA, để định hướng, hỗ trợ và hướng dẫn các địa phương, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp chủ động ứng phó vượt qua các thách thức.

Tối ưu hóa các cơ hội, vượt qua được thách thức

Đại biểu Bùi Thanh Tùng: Tối ưu hóa các cơ hội, vượt qua được thách thức

Tác động của các FTA tới các ngành kinh tế nói chung luôn có hai chiều. Thông qua việc mở cửa, chấp nhận cạnh tranh với bên ngoài, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển dịch tích cực, hỗ trợ cho tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng của đất nước và được các đối tác đánh giá rất cao. Các FTA cũng hứa hẹn mang lại cơ hội hợp tác về vốn, về những mô hình, phương thức quản lý mới, hiện đại và hiệu quả hơn cho doanh nghiệp Việt Nam. Và để tối ưu hóa các cơ hội, vượt qua được thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Việt Nam cần có những giải pháp thực sự hữu hiệu và khả thi. Phóng viên Cổng Thông tin điện tử Quốc hội đã có cuộc trao đổi với đại biểu Bùi Thanh Tùng, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng, về vấn đề này:

Phóng viên: Thưa đại biểu, xuất phát từ thực tiễn nào tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV, đại biểu đã lựa chọn vấn đề về những khó khăn thách thức của doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới?

Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng: Khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại thế hệ mới và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì ngay trên sân nhà các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam phải cạnh tranh với hàng hóa sản phẩm dịch vụ của các nước phát triển, các nước trong khu vực mà người ta có truyền thống mở cửa thị trường từ lâu. Xét về góc độ nào đó, một số mặt hàng của các nước có chất lượng cao hơn so với các sản phẩm hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ hai khi mở cửa thị trường chúng ta phải đối phó rất nhiều quy định liên quan đến thương mại quốc tế, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ, liên quan đến các quy định chặt chẽ nghiêm ngặt về xuất xứ hàng hóa hay tiêu chuẩn, trong khi đó ngoài những tập đoàn, công ty lớn chúng ta đã có thị trường xuất khẩu thì nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam ở nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có nhiều kinh nghiệm trong thương mại quốc tế cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm trong xử lý các tình huống liên quan đến pháp luật. Chính vì những lý do này tôi đã chất vấn Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh.

Phóng viên: Ngày 13/9/2019, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh đã có văn bản trả lời đại biểu. Quan điểm của đại biểu về nội dung trả lời của Phó Thủ tướng?

Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng: Tôi hoàn toàn đồng tình với nội dung trả lời của Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh. Trước hết tôi đánh giá cao tính chủ động và rất quyết tâm của Chính phủ trong việc ngay sau khi Quốc hội phê chuẩn Hiệp định CPTPP và có hiệu lực từ 14/01/2019 thì ngày 24/01/2019 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Trên sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ thì các bộ ngành trung ương, các địa phương đã xây dựng kế hoạch triển khai hiệp định.

Cũng qua trả lời của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh, chúng ta thấy rõ hiện nay Chính phủ cũng đang giao cho bộ Công thương chủ trì phối hợp với nhiều Bộ ngành, địa phương tổ chức rất nhiều hội nghị, hội thảo phổ biến thông tin liên quan đến các Hiệp định, liên quan đến thị trường các quốc gia trong hiệp định thương mại thế mới mà chúng ta tham gia. Bên cạnh đó cũng phổ biến thêm những thông tin liên quan đến các lĩnh vực ngành hàng, thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam hay các mảng thị trường Việt Nam có lợi thế, có cơ hội để phát triển ở các quốc gia là thành viên của các Hiệp định Thương mại thế hệ mới FTA.

Phóng viên: Khi Việt Nam hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, chúng ta có những thời cơ gì, thưa đại biểu?

Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng: Tiến trình hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng nâng tầm thế và lực cho Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao thu nhập cho người dân. Qua đó cũng khẳng định quyết tâm của chúng ta về việc đổi mới hội nhập với nền kinh tế thế giới một cách toàn diện và sâu rộng. Cũng qua ký kết tham gia vào các Hiệp định, Việt Nam cũng khẳng định vai trò của mình, khẳng định vị thế của Việt Nam đối với các nước ASEAN, đối với khu vực và các nước trên thế giới.

Qua việc Việt Nam tham gia vào Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, chúng ta sẽ góp phần tăng cường lợi ích đan xen cũng như tăng cường sâu hơn mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước thành viên tham gia Hiệp định, đặc biệt là các quốc gia đã có mối quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam từ trước đến nay.

Điều tôi thấy được khi chúng ta tham gia các Hiệp định Thương mại thế hệ mới với nguyên tắc mở cửa thị trường hàng hóa sản phẩm dịch vụ, thị trường đầu tư, thị trường vốn thì cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập vào thị trường các nước thuận lợi hơn rất nhiều.

Phóng viên: Bên cạnh những thời cơ, khó khăn thách thức của doanh nghiệp Việt gặp phải là gì, thưa đại biểu?

Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng: Với thực tế hơn 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa với năng lực về quản trị doanh nghiệp, quản trị sản xuất cũng như năng lực về công nghệ hay chất lượng sản phẩm dịch vụ mà các doanh nghiệp chúng ta cung cấp hiện nay cũng còn chưa được bằng so với các quốc gia phát triển. Đặc biệt với các nước tham gia vào Hiệp định giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam – EVFTA thì doanh nghiệp Việt của chúng ta đang ở mức thấp nhất so với các quốc gia này. Đây là một thách thức rất lớn.

Với thị trường trong nước, khi chúng ta mở cửa thị trường, khi chế độ thuế quan được miễn giảm hoàn toàn thì không chỉ hàng hóa của các nước tham gia hiệp định đổ về thị trường Việt Nam mà hàng hóa của nhiều nước không tham gia hiệp định cũng rất có thể trà trộn, len lỏi vào thị trường nước ta. Nếu chúng ta không chuẩn bị một cách kỹ lưỡng thì rõ ràng hàng hóa của chúng ta không đủ sức cạnh tranh với hàng hóa sản phẩm của nước ngoài ngay cả trên sân nhà.

Đối với thị trường xuất khẩu, chúng ta cũng biết các nước tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới hiện nay thì chúng ta ở vị trí khá thấp, đặc biệt là Hiệp định thương mại Vệt Nam-EU thì Việt Nam có tầm phát triển kinh tế thấp nhất trong nhóm các nước ký kết. Và đối với các nước phát triển hơn họ có rất nhiều kinh nghiệm trong thương mại quốc tế, họ có rất nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý những vấn đề tranh chấp liên quan đến lợi ích của các bên khi triển khai các hiệp định, khi triển khai các hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp với nhau. Như vậy, tôi thấy rằng các doanh nghiệp của ta hiện nay đang thiếu kinh nghiệm này.

Một vấn đề nữa cũng cần được lưu ý là các nước ký kết hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thì họ quan tâm đến các quy định chặt chẽ về xuất xứ hàng hóa, liên quan đến các quy tắc về mặt bảo hộ sở hữu trí tuệ và liên quan đến các quy định rất nghiêm ngặt về chất lượng hàng hóa. Do vậy, tôi nghĩ, các doanh nghiệp Việt Nam cũng  cần phải hết sức lưu tâm về vấn đề này để có những chiến lược, định hướng đúng đắn.

Phóng viên: Ngoài giải pháp Chính phủ đưa ra, đại biểu có đề xuất kiến nghị gì để hàng hóa của doanh nghiệp Việt đứng vững trên sân nhà và các doanh nghiệp chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới?

Đại biểu Bùi Thanh Tùng, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng: Mặc dù Chính phủ có chương trình hành động, các Bộ ngành địa phương có chương trình hành động thì thực tế từ chương trình hành động đến các bước triển khai cụ thể cần phải có sự nỗ lực, cố gắng tổng hòa của các Bộ ngành, các cấp chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người dân.

Các cơ quan nhà nước cần phải đồng hành cùng các doanh nghiệp, hướng dẫn các doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp các vấn đề về pháp lý, thị trường, khoa học công nghệ để hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao khả năng quản trị doanh nghiệp, quản trị sản xuất, tiếp cận được với chuẩn mực quốc tế.

Hiện nay nhận thức của của các doanh nghiệp Việt Nam đối với thị trường quốc tế còn rất nhiều hạn chế cho nên một trong những giải pháp quan trọng đầu tiên đó là nâng cao tuyên truyền phổ biến kiến thức cho các doanh nghiệp về những quy định quốc tế liên quan đến thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế, quy định liên quan đến các vấn đề pháp lý để doanh nghiệp chủ động nắm bắt thông tin, cũng như có kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện quốc tế, những rào cản thương mại của các thị trường (nếu có).

Quan trọng hơn, cộng đồng doanh nghiệp phải có sự nỗ lực, chủ động, khát vọng, quyết tâm, có lộ trình thích hợp nhằm tăng sức mạnh cạnh tranh, bắt nhịp với xu thế của thế giới thì chắc chắn các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ có những bước vững chắc hơn./.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn đại biểu!

Cũng theo đại biểu Bùi Thanh Tùng, thời gian qua tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đạt được những kết quả tích cực, Nếu như năm 2011, Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 96,91 tỷ USD với 21 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD thì năm 2019 xuất khẩu của Việt nam đã đạt 263,45 tỷ USD với 32 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Đáng chú ý là hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới 200 quốc gia và vùng lãnh thổ và tận dụng hiệu quả các FTA. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới diễn biến khó lường, Việt Nam cần chủ động hội nhập lên mức toàn diện, sâu rộng, đổi mới sáng tạo và hiệu quả hơn để tận dụng tối đa những cơ hội và hạn chế những rủi ro mà một số FTA thế hệ mới mang lại góp phần đưa kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững./.

 

Lê Phương