ĐBQH TÔ VĂN TÁM GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT BIÊN PHÒNG VIỆT NAM

22/06/2020

Góp ý vào dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, đại biểu Tô Văn Tám, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Kon Tum cho rằng, vấn đề xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia được quy định trong nhiều đạo luật khác nhau vì vậy cần cần rà soát, đối chiếu các quy định tránh chồng chéo, trùng lắp hay mâu thuẫn.

 

Theo ĐBQH Tô Văn Tám, xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Để bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới, cần thiết phải có khung pháp lý đồng bộ, thống nhất. Do vậy, việc ban hành Luật Biên phòng là cần thiết.

Tuy nhiên, vấn đề xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia còn được quy định trong các đạo luật khác như Luật Biên giới quốc gia, Luật An ninh quốc gia... Do đó, ĐBQH Tô Văn Tám đề nghị cần rà soát, đối chiếu các quy định ở các đạo luật này để tránh chồng chéo, trùng lắp hay mâu thuẫn. Ví dụ, như Luật An ninh quốc gia quy định bộ đội biên phòng là lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia tại Điều 22. Như Luật Biên giới quốc gia quy định về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, quy định bộ đội biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách. Dự thảo Luật Biên phòng quy định bộ đội biên phòng là lực lượng chuyên trách thực thi nhiệm vụ biên phòng, lực lượng nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân. Như vậy, có khác nhau hay không và sẽ hiểu theo quy định nào.

Đại biểu Tô Văn Tám, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Kon Tum

Về nguyên tắc thực thi nhiệm vụ biên phòng tại khoản 2 Điều 6 có quy định là "đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý của Chính phủ", ĐBQH Tô Văn Tám đề nghị bổ sung thêm "sự chỉ huy của Bộ Quốc phòng", bởi vì lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng quy định tại Điều 7 vẫn là lực lượng vũ trang là nòng cốt, bộ đội biên phòng là chuyên trách. Các quy định phối hợp thực thi nhiệm vụ biên phòng tại khoản 1 Điều 9 thì Bộ Quốc phòng vẫn là cơ quan chủ trì. Do đó, bổ sung như vậy là cần thiết. Nguyên tắc này có thể được biểu đạt là "đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý của Chính phủ và sự chỉ huy của Bộ Quốc phòng".

Về lực lượng bộ đội biên phòng, tại Chương IV, ĐBQH Tô Văn Tám cho rằng bộ đội biên phòng là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, như những binh chủng, quân chủ khác. Do vậy, đều chịu sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và trong quá trình thực thi nhiệm vụ biên phòng giữ vai trò là nòng cốt.

Trên cơ sở đó, ĐBQH Tô Văn Tám đề nghị Ban soạn thảo làm rõ: Tại khoản 5 Điều 14, nhiệm vụ của bộ đội biên phòng có quy định thực hiện hợp tác quốc tế về biên phòng, đối ngoại biên phòng, đối ngoại quốc phòng. Như vậy, khi thực thi nhiệm vụ này, bộ đội biên phòng có được đứng với vị thế tư cách là một chủ thể độc lập với Bộ Quốc phòng hay không? Nếu đối chiếu với Điều 28 thì đối ngoại biên phòng thuộc Bộ Ngoại giao và như thế Bộ Ngoại giao là chủ thể chính. Bộ Quốc phòng và các bộ cơ quan ngang bộ là các chủ thể phối hợp và Bộ Ngoại giao hướng dẫn lực lượng chuyên trách thực thi nhiệm vụ biên phòng về nghiệp vụ biên phòng. Tức là, ở khoản 2 Điều 28 quy định Bộ Ngoại giao hướng dẫn nghiệp vụ. Với nhận thức bộ đội biên phòng như trên thì bộ đội biên phòng có là chủ thể độc lập trong hợp tác quốc tế, đối ngoại quốc phòng và đối ngoại biên phòng hay không?

Trọng Quỳnh