ĐBQH HUỲNH CAO NHẤT GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG (SỬA ĐỔI)

03/07/2020

Góp ý vào dự thảo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi), đại biểu Huỳnh Cao Nhất, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Định đề nghị cần xây dựng cơ chế cung cấp thông tin hỗ trợ cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài một cách thực chất, có hệ thống.

 

Đại biểu Huỳnh Cao Nhất, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Định

Theo đại biểu Huỳnh Cao Nhất, một thực tế hiện nay nhiều lao động có nhu cầu đi lao động ở nước ngoài hoặc chuẩn bị đi lao động nhưng không nắm được đầy đủ thông tin hoặc muốn tìm kiếm thông tin chính thống, đáng tin cậy về thị trường lao động cũng như các quy định cần thiết về điều kiện lao động, chi phí cho việc đi lao động, chế độ đãi ngộ là rất khó khăn. Đến khi lao động xong về nước thì không biết mình sẽ được hỗ trợ gì, tìm việc ở đâu, nơi nào có nhu cầu tuyển dụng ngành nghề phù hợp. Tất cả những điều này gây bất lợi cho người lao động và cho cả cơ quan quản lý nhà nước.

Vì vậy, đại biểu cho rằng nếu chúng ta xây dựng và hình thành được một hệ thống cơ sở dữ liệu với tất cả các nội dung cần thiết, đáng tin cậy được cập nhật thường xuyên để cung cấp kịp thời cho người lao động trước, trong và sau khi về nước. Đồng thời với đó là cơ chế cung cấp thông tin hiệu quả. Người lao động được tiếp cận thông tin một cách dễ dàng nhất hoặc hệ thống sẽ chủ động cung cấp thông tin cho người lao động một cách nhanh nhất. Từ đó, người lao động có sự chuẩn bị đầy đủ hơn về mọi mặt, đặc biệt là tâm lý sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thử thách khi làm việc ở nước ngoài và yên tâm khi trở về nước.

Theo đại biểu, mặc dù trong dự thảo luật cũng như luật hiện hành có đề cập một số nội dung về cung cấp thông tin cho người lao động theo hướng quyền của người lao động và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, như vậy là chưa đủ, không có sự thống nhất về thông tin và khó kiểm soát về thông tin và thực tế hiện nay điều này làm chưa tốt. Đại biểu dẫn chứng, theo số liệu của Tổ chức Lao động quốc tế và Tổ chức Di cư quốc tế thực hiện năm 2018 cho thấy thông tin tin cậy về di cư an toàn không có sẵn cho người di cư lao động Việt Nam và chỉ có 1/3 tức là khoảng 34% người lao động di cư Việt Nam nhận được thông tin giúp họ đưa ra quyết định đi lao động nước ngoài.

Từ thực tiễn về hệ thống cơ sở dữ liệu và việc cung cấp thông tin cho người lao động xuất phát từ nhu cầu của người lao động và khuyến cáo của Tổ chức Lao động quốc tế và Tổ chức Di cư quốc tế, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung thêm chính sách đó là nhà nước có chính sách xây dựng cơ chế cung cấp thông tin hỗ trợ cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Nếu chúng ta xây dựng được cơ chế cung cấp thông tin hỗ trợ cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài một cách thực chất, có hệ thống chính là chúng ta đã bảo vệ quyền, lợi ích người lao động ngay từ trong nước.

Về thời hạn cấp giấy phép lao động, đại biểu thống nhất không quy định thời hạn 5 năm như dự thảo luật mà giữ nguyên như luật hiện hành.

Ngoài ra, về quy định lao động bỏ trốn ở lại trái phép sau khi hết hợp đồng. Theo Đại biểu, đây là vấn đề gây ra nhiều hệ lụy cho người lao động và những người có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài nhưng không đi được vì thị trường bị đóng cửa do quá nhiều người bỏ trốn, đồng thời làm xấu đi hình ảnh quốc gia. Một thực tế là khi trốn ra ngoài lao động hoặc ở lại trái phép sau khi hết hợp đồng, người lao động cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức và rủi ro như là bị bắt, bị xâm hại sức khỏe, bị xâm hại tình dục, bị bắt buộc lao động quá mức hoặc trở thành nạn nhân của bọn buôn người, nhưng tại sao họ vẫn trốn? Đại biểu cho rằng, đây là vấn đề phải có đánh giá khách quan để tìm ra giải pháp lâu dài. Có phải chăng người lao động bỏ trốn ra ngoài lao động hoặc ở lại lao động trái phép nhưng chúng ta chưa có chế tài xử lý đủ sức răn đe nên họ không sợ. Hay là do thông tin của doanh nghiệp cho người lao động về thị trường lao động, chế độ yêu cầu công việc không trung thực, thiếu rõ ràng, thậm chí còn bị lừa gạt, vì vậy người lao động phải đối mặt với những khó khăn mà họ không thể ngờ tới, buộc phải trốn ra ngoài để tìm kiếm cơ hội tốt hơn nhưng cũng không kém rủi ro, thua thiệt trong khi đó doanh nghiệp lại không bị xử lý. Hay là do thu nhập thấp không tương xứng với đòi hỏi cao của công việc và thu nhập sau khi trang trải cho sinh hoạt và trừ đi các khoản chi phí khác để có được thì người lao động không còn lại được bao nhiêu, buộc họ phải trốn ra ngoài làm để có thu nhập cao hơn, có tích lũy hơn. Hay như khi trốn ra ngoài làm việc hoặc ở lại trái phép sau khi hết hợp đồng, nếu không có doanh nghiệp nào của nước sở tại thu nhận vào làm việc thì làm sao người lao động dám trốn. Vậy giữa ta và bạn cần phải có những giải pháp chung nào để xử lý và ngăn chặn vấn đề này. Có thể còn nhiều lý do nữa tác động đến việc người lao động bỏ trốn ra ngoài làm việc hoặc ở lại trái phép sau khi hợp đồng.

Vì vậy, đại biểu đề nghị Chính phủ cần phải có đánh giá một cách khách quan, đầy đủ nguyên nhân của vấn đề này để xây dựng thành các điều luật, làm cơ sở pháp lý xử lý nghiêm các sai phạm và đề ra các giải pháp căn cơ, ngăn chặn có hiệu quả lao động bỏ trốn và ở lại trái phép sau khi hết hợp đồng./.

Trọng Quỳnh

Các bài viết khác