ĐBQH TRỊNH NGỌC PHƯƠNG GÓP Ý VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG CÒN Ý KIẾN KHÁC NHAU CỦA DỰ THẢO LUẬT CƯ TRÚ (SỬA ĐỔI)

30/12/2020

Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV, đóng góp ý kiến về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của Dự thảo Luật Cư trú (sửa đổi), Đại biểu Quốc hội Trịnh Ngọc Phương, Đoàn ĐBQH tỉnh Tây Ninh kiến nghị bổ sung thêm vào cuối khoản 2 Điều 2 như sau: Trường hợp hộ chỉ có một người thì chính người đó là chủ hộ.

Đại biểu Trịnh Ngọc Phương, Đoàn ĐBQH tỉnh Tây Ninh phát biểu từ điểm cầu trực tuyến

Trình bày ý kiến tại phiên thảo luận, đại biểu Trịnh Ngọc Phương, Đoàn ĐBQH tỉnh Tây Ninh thể hiện thống nhất cao với Ban soạn thảo, bên cạnh đó, đại biểu đóng góp một số ý kiến như sau:

Về quy định tại khoản 7 Điều 2: "hộ gia đình và những người cùng đăng ký thường trú hoặc cùng đăng ký tạm trú phải ở một chỗ hợp pháp". Theo đại biểu, quy định như vậy thì hộ gia đình có từ 2 người trở lên cùng đăng ký thường trú, tạm trú tại chỗ ở hợp pháp, không nhất thiết phải có quan hệ huyết thống, chỉ cần có 2 người trở lên cùng cư trú hợp pháp tại một địa chỉ là gia đình. Theo đại biểu, khái niệm hộ gia đình tại khoản 2 Điều 7 của dự thảo là không phù hợp. Bởi vì, thứ nhất, theo dự thảo thì một người cư trú một mình tại chỗ ở hợp pháp của mình thì không phải là hộ gia đình. Thứ hai, khi có 2 người ngẫu nhiên trở lên cùng đăng ký thường trú, tạm trú tại chỗ ở hợp pháp thì họ trở thành một gia đình. Đây là điều không hợp lý vì theo xu thế phát triển của xã hội, việc cùng thuê nhà để ở chung hoặc trọ chung trở thành phổ biến. Thứ ba, theo quy định nêu trên, khi 2 người trong gia đình cùng chung sống với nhau thì đó là hộ gia đình, nhưng khi một người chuyển đi nơi khác cư trú hoặc qua đời thì người còn lại đang cư trú không phải là hộ gia đình nữa. Vấn đề này chưa logic và chưa phù hợp với thực tế. Thứ tư, với khái niệm nêu trên đã dẫn tới một quan điểm mới về hộ gia đình, hộ gia đình không còn nhất thiết phải là gia đình và quy định tại dự thảo Luật Cư trú đã xa rời với tư duy truyền thống về gia đình.

Tại khoản 2 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của luật này.

Tại khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Do vậy, phải chăng hộ gia đình theo Luật Cư trú, các hộ gia đình trong Luật Đất đai và không phải là gia đình trong Luật Hôn nhân và Gia đình? Đây là vấn đề không thể vì pháp luật của chúng ta là thống nhất và kỹ thuật lập pháp với phương châm dễ hiểu và không xung đột lẫn nhau. Vì vậy, đại biểu kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 2 của dự thảo như sau: Hộ gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của pháp luật và cùng đăng ký cư trú tại chỗ ở hợp pháp, hộ gia đình có thể là một người đăng ký cư trú theo quy định của pháp luật, để tương thích với khái niệm chủ hộ và phù hợp với thực tế khi hộ gia đình chỉ có 1 người. Đại biểu kiến nghị bổ sung thêm vào cuối khoản 2 Điều 2 như sau: Trường hợp hộ chỉ có một người thì chính người đó là chủ hộ.

Vấn đề thứ hai, điểm b khoản 3 Điều 20, đại biểu lựa chọn phương án 1. Tuy nhiên, theo đại biểu, phải bỏ đi vấn đề thông qua Hội đồng nhân dân, bởi vì nếu thông qua Hội đồng nhân dân thì sẽ có những vấn đề như Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giải trình sẽ có sự không công bằng. Do đó, đại biểu đề nghị quy định trong luật luôn là tối thiểu, nhưng không thấp hơn 8m2/ người. Bởi vì, thực tế theo Quyết định 2127 về Chiến lược quốc gia về phát triển nhà ở năm 2020 thì đến năm 2020 là chúng ta phải đạt được 25m2/người và đến năm 2030 là chúng ta phải đạt được 30m2/người. Theo thống kê năm 2019 chúng ta đạt 23,6m2/người, tăng khoảng 6,5m2/người.

Vấn đề thứ ba, quy định về địa điểm không được đăng ký nơi thường trú mới. Tại đoạn đầu Điều 23 của dự thảo quy định: "công dân không được đăng ký thường trú mới tại chỗ ở thuộc một trong các trường hợp sau đây, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 20 của luật này". Tại điểm a khoản 2 Điều 20 quy định: "vợ về ở với chồng, chồng về ở với vợ; con đẻ, con nuôi về ở với cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi về ở với con đẻ và con nuôi". Chiếu theo quy định tiếp theo tại Điều 23 của dự thảo, đại biểu cho rằng đây là các quy định không phù hợp, bởi các lý do sau đây:

Thứ nhất, theo quy định dẫn chiếu tại điểm a khoản 2 Điều 30 thì thường trú mới tại nơi được quy định tại khoản 1 Điều 23, đây là nơi không thể đăng ký thường trú mới cho dù đối tượng đăng ký thường trú là ai.

Thứ hai, về sự tương quan thì các đối tượng còn lại quy định tại các điểm b, điểm c, khoản 2 Điều 20 là các đối tượng yếu thế trong xã hội, chưa đầy đủ năng lực hành vi dân sự, thậm chí khiếm khuyết về thể chất và tinh thần nên rất cần được quan tâm, cần nơi nương tựa, cần nơi cư trú nhưng lại có sự phân biệt so với các đối tượng khác quy định tại điểm a khoản 2 Điều 20 của dự thảo là không đảm bảo tính nhân đạo, sự công bằng trong việc đăng ký cư trú.

Theo nội dung quy định tại khoản 2 Điều 23, không phải là chỗ ở hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 20 của dự thảo, nhưng những đối tượng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 20 vẫn được đăng ký cư trú mới là không công bằng với các chủ thể khác quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 20 và không đảm bảo tính nghiêm minh khi đăng ký cư trú. Bản thân những người đang cư trú đã không hợp pháp thì những người đăng ký cư trú mới vào cư trú chung với họ lại càng không hợp pháp.

Bên cạnh đó, về các chỗ ở quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 23 của dự thảo đều là những nơi đăng ký mới, không còn phù hợp với bất cứ đối tượng nào, các chỗ ở này sẽ được triển khai thi hành theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, các đối tượng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 20 được đặc cách đăng ký thường trú mới tại nơi khác cũng không phù hợp. Mặt khác, chỗ ở quy định tại Điều 23 không đảm bảo tính an toàn và tính hợp pháp, trong một chừng mực nào đó nếu có người nào đó vẫn sinh sống tại các nơi này thì cơ quan nhà nước sẽ thực hiện việc quản lý theo quy định tại Điều 19 của dự thảo.

Do vậy, đại biểu kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 23 như sau: bỏ nội dung “công dân không được đăng ký nơi thường trú mới tại chỗ ở thuộc một trong các trường hợp sau đây, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 20 của luật này”.

Tiếp đến, cần bổ sung thêm vào khoảng 6 Điều 23 như sau: quy định tại khoản 2 Điều 20 được đăng ký thường trú mới tại chỗ ở là nhà ở mà một phần hoặc toàn bộ diện tích nhà ở đang tranh chấp, khiếu nại liên quan đến quyền sở hữu, sử dụng nhưng chưa được giải quyết theo quy định của pháp luật.

Minh Hùng