ĐBQH VŨ THỊ NGUYỆT: CẦN TÍCH CỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG DO NƯỚC THẢI TRONG SINH HOẠT VÀ CHĂN NUÔI Ở KHU VỰC NÔNG THÔN

25/02/2021

Tham gia thảo luận tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV, đại biểu Quốc hội Vũ Thị Nguyệt, Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên kiến nghị chính quyền các địa phương cần có phương án và quyết liệt di dời các hộ chăn nuôi còn xen kẽ trong các vùng dân cư ra khu vực tập trung riêng để thuận tiện cho việc thu gom cũng như là xử lý nước thải về chăn nuôi.

Đại biểu Quốc hội Vũ Thị Nguyệt, Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên phát biểu tại phiên họp

Tham gia thảo luận tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV, đại biểu Quốc hội Vũ Thị Nguyệt, Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên bày tỏ đặc biệt quan tâm đến vấn đề ô nhiễm môi trường do nước thải trong sinh hoạt và chăn nuôi ở khu vực nông thôn.

Đại biểu cho biết, năm 2020 là năm mà nhiều tỉnh, nhiều địa phương đã hoàn thành việc về đích thực hiện mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới ở các cấp độ khác nhau. Nhiều địa phương cũng đã tiến tới các mục tiêu, hoàn thành các tiêu chí nâng cao. Có thể nói, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã mang lại hạ tầng nông thôn phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi bộ mặt ở nhiều vùng nông thôn.

Bên cạnh những mặt đã đạt được, các vùng nông thôn vẫn còn rất nhiều các vấn đề cần được quan tâm và cần sớm có phương án giải quyết để nâng cao chất lượng đời sống của người dân, trong đó có vấn đề liên quan tới tình trạng môi trường cụ thể là vấn đề ô nhiễm nguồn nước tại các khu vực nông thôn.

Đại biểu Vũ Thị Nguyệt nhấn mạnh ô nhiễm môi trường từ rác và nước thải đã thực sự trở thành nỗi ám ảnh đối với người dân ở rất nhiều vùng nông thôn. Riêng đối với rác thải sinh hoạt, hiện nay các địa phương đã có nhiều giải pháp từ phân loại, thu gom, xử lý nên nguồn ô nhiễm này đã dần được giải quyết. Tuy nhiên, đối với nước thải thì lại khác. Hiện nay, lượng nước thải ở khu vực nông thôn thải ra môi trường rất là lớn, gây ô nhiễm môi trường sống, làm ô nhiễm các dòng sông, nguồn nước dùng trong sinh hoạt và cả sản xuất nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng. Thực tế, khi đi về các vùng nông thôn, không khó để thấy tình trạng nước thải sinh hoạt chảy tràn ra đường, ao hồ, sông ngòi, vừa xấu về hình ảnh và vừa gây khó chịu do mùi, rất nhiều hệ thống kênh mương có chiều dài vài kilômét cũng có tình trạng như vậy. Hình ảnh những con sông êm đềm, xanh ngát đã dần dần thay thế bằng những dòng sông chết, bởi chúng phải hứng chịu chất thải sinh hoạt, chất thải chăn nuôi của người dân, bên cạnh nước thải từ các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu làng nghề. Lượng nước thải này ngấm xuống đất làm ô nhiễm không chỉ nước mặt mà đối với cả nước ngầm, tồn tại từ năm này sang năm khác, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, sinh hoạt, môi trường sinh thái cũng như sản xuất của người dân.

Hiện nay, nước thải sinh hoạt và nước thải chăn nuôi chỉ có một phần nhỏ là được xử lý, còn đa phần là thải trực tiếp ra môi trường hoặc là tự thấm mà chưa được thu gom, xử lý triệt để đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường. Nhiều cuộc giám sát về chất lượng nước mặt của các cơ quan chức năng cho thấy có nhiều thông số nguy hại vượt quy chuẩn quốc gia về môi trường. Theo số liệu nghiên cứu của Viện Nước tưới tiêu và môi trường ở một địa phương về nước mặt, nước ngầm và hệ thống tưới tiêu cho thấy ở ao, hồ có khoảng 13% mẫu nước ô nhiễm ở mức độ nghiêm trọng và không sử dụng được cho một mục đích nào, có 25% chỉ sử dụng được cho mục đích giao thông thủy lợi, có 48% có thể sử dụng được cho mục đích tưới tiêu và chỉ có khoảng 18% có thể sử dụng được cho mục đích cấp nước sinh hoạt. Đối với nguồn nước ngầm thì các chỉ tiêu về xitrat, mangan, sắt, chì đều vượt các ngưỡng tiêu chuẩn. Đây không phải là con số đại diện cho tình trạng nguồn nước chung trên cả nước nhưng cũng là những con số rất có ý nghĩa để chúng ta phải suy ngẫm. Bởi ở nông thôn thì đây là nguồn nước chính phục vụ cho tưới tiêu, cây trồng cũng như phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.

Tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở nông thôn có tác động rất lớn tới cuộc sống của người dân.

Ảnh hưởng đầu tiên là về cảnh quan môi trường không còn tươi đẹp, có rất nhiều mùi khó chịu, ruồi muỗi cũng như côn trùng phát triển xung quanh.

Ảnh hưởng thứ hai là gây hại cho việc nuôi trồng thủy sản. Mặc dù, đây là nguồn ô nhiễm chất hữu cơ nhưng khi lượng chất hữu cơ này vượt quá khả năng tiếp nhận nguồn nước thì sẽ tiêu thụ hết hết lượng ôxy, dẫn đến các loài thủy sản không có ôxy và bị chết. Tình trạng cá chết hoặc giảm năng suất, chất lượng của các loài thủy sản cũng là khá phổ biến.

Ảnh hưởng thứ ba là, nhiều khu vực ở nông thôn không thể lấy nước mặn để xử lý phục vụ cho vấn đề cấp nước sinh hoạt cho người dân.

Ảnh hưởng thứ tư là đối với cây trồng bị tưới các loại chất ô nhiễm này và nghiêm trọng nhất là ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân. Theo số liệu điều tra ở vùng có ô nhiễm cho thấy, phụ nữ ở các khu vực này mắc các bệnh về phụ khoa và da liễu tăng. Tỷ lệ người dân mắc các bệnh về đường tiêu hóa, ung thư tăng và thực tế đã xuất hiện nhiều làng ung thư.

Nguyên nhân của thực trạng nêu trên cũng có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.

Thứ nhất, do lượng rác thải và mức độ ô nhiễm của nguồn nước thải ngày nay càng tăng.

Thứ hai, nước thải sinh hoạt ở khu vực nông thôn hầu như chưa được xử lý mà đều để tự ngắm hoặc là đổ thẳng ra môi trường.

Thứ ba, do đầu tư cơ sở hạ tầng ở nông thôn chưa được quan tâm ở các giai đoạn trước đây. Rất nhiều địa phương chưa có hệ thống thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt cũng như là nước thải trong chăn nuôi.

Thứ tư, người dân chưa thực sự ý thức được trách nhiệm và vai trò của mình trong việc quản lý nguồn nước thải cũng như chưa được hướng dẫn một cách đầy đủ các biện pháp để xử lý các nguồn nước thải này.

Thứ năm, công nghệ và chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng các công trình xử lý nước thải và cơ chế vận hành của các công trình này thì còn hạn chế.

Thứ sáu, vẫn còn tình trạng các hộ chăn nuôi lớn vẫn còn nằm xen kẽ ở trong các khu dân cư.

Trước thực trạng môi trường nông thôn bị rác thải sinh hoạt, chăn nuôi gây ô nhiễm thì người dân cũng hết sức bức xúc và nhiều lần kiến nghị tới các cấp chính quyền. Đặc biệt là, trong các buổi tiếp xúc cử tri của nhiều đoàn đại biểu Quốc hội thì cử tri cũng phản ánh nội dung này.

Thực tế ở các địa phương, chính quyền cũng đã vào cuộc, đã có bước đầu xử lý nước thải ở khu vực nông thôn như là mô hình xử lý nước thải theo hộ hoặc một số hộ gia đình. Một số loại mô hình xử lý bước đầu cho kết quả khả quan thì số lượng còn rất là ít, còn một số các loại mô hình khác cho hiệu quả thấp do cách vận hành chưa đúng, chưa bài bản cũng như là thiếu nguồn lực để có thể duy trì các công trình này.

Giải quyết được thực trạng trên đòi hỏi phải huy động rất nhiều nguồn lực, kinh phí cũng như mất một khoảng thời gian dài, tuy nhiên không vì thế mà chúng ta không làm.

Từ những phân tích trên, đại biểu Vũ Thị Nguyệt đưa ra một số kiến nghị sau.

Thứ nhất là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người dân trong việc kiểm soát nguồn nước thải từ chính gia đình cũng như từ khu vực xung quanh.

Thứ hai là, chính quyền các địa phương cần có phương án và quyết liệt di dời các hộ chăn nuôi còn xen kẽ trong các vùng dân cư ra khu vực tập trung riêng để thuận tiện cho việc thu gom cũng như là xử lý nước thải về chăn nuôi.

Thứ ba là, áp dụng công nghệ tiên tiến phù hợp và nhà nước cần phải hỗ trợ kinh phí để xây dựng các công trình thu gom, xử lý nước thải và đặc biệt là hỗ trợ kinh phí để có thể duy trì vận hành các công trình này.

Đại biểu Vũ Thị Nguyệt nêu rõ thực trạng ô nhiễm môi trường do nước thải trong sinh hoạt và chăn nuôi ở khu vực nông thôn ở nhiều địa phương vẫn còn nóng mà liên quan trực tiếp tới đời sống cũng như sản xuất của người dân. Đại biểu bày tỏ hy vọng rằng các cơ quan chức năng, chính quyền và người dân sẽ nâng cao ý thức trách nhiệm để bảo vệ môi trường, cũng như là góp phần xây dựng các mục tiêu về nông thôn mới một cách bền vững hơn./.

Minh Hùng