Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng Trần Đình Văn phát biểu ý kiến về Dự thảo Luật Cảnh sát cơ động
Về Dự thảo Luật Cảnh sát cơ động, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng Trần Đình Văn Trần Đình Văn tham gia góp ý 3 nội dung, cụ thể:
Thứ nhất: Việc xác định Cảnh sát cơ động là “lực lượng chuyên trách, nòng cốt thực hiện biện pháp vũ trang bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự xã hội” cần được rà soát kỹ, một mặt bảo đảm phản ánh đúng vị trí, chức năng đặc thù của Cảnh sát cơ động so với các lực lượng khác trong Công an nhân dân, mặt khác, không chồng chéo với chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ trật tự xã hội, như:
Dự thảo Luật chỉ quy định Cảnh sát cơ động “là lực lượng vũ trang nhân dân, thuộc Công an nhân dân Việt Nam, là lực lượng nòng cốt, chuyên trách thực hiện biện pháp vũ trang bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội” mà không nhắc tới nhóm đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là chưa tương thích với Luật Công an nhân dân.
Mặt khác, quy định như dự thảo Luật chưa thấy rõ vị trí, chức năng của Cảnh sát cơ động khác với các lực lượng khác của Công an nhân dân nói chung ở điểm nào. Do vậy, cần làm rõ và sâu sắc hơn tính “vũ trang”, tính “cơ động”, yêu cầu tác chiến nhanh, xử lý những tình huống khẩn cấp của lực lượng cảnh sát cơ động trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Đó mới chính là điểm khác biệt căn bản khi so sánh với các thành phần khác (như cảnh sát điều tra chú trọng vào nghiệp vụ tư pháp; cảnh sát giao thông chú trọng vào quản lý hành chính,…).
Thứ hai: Nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, hoạt động cảnh sát cơ động
Các quy định trong dự thảo Luật cần được rà soát kỹ bảo đảm hài hòa giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật với bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Cảnh sát cơ động cần được cân nhắc và quy định cụ thể, chặt chẽ về quyền hạn, trách nhiệm, thủ tục, trình tự thực hiện quyền, trách nhiệm pháp lý của từng chủ thể khi vượt quá giới hạn công vụ. Nếu không quy định chặt chẽ sẽ có nguy cơ lạm quyền, vi phạm quyền con người, quyền công dân, như:
Việc quy định nội dung vũ trang cho cảnh sát cơ động“giải tán các vụ tập trung đông người gây rối an ninh, trật tự, biểu tình trái pháp luật” (điểm c khoản 2 Điều 9) cần quy định chi tiết hơn về các trường hợp và các mức độ trang bị vũ khí cho cảnh sát cơ động. Bởi lẽ, việc tập trung đông người và biểu tình, thường là những hoạt động đông người tham gia và thường diễn ra nơi công cộng. Việc trang bị, sử dụng vũ khí không phù hợp, dễ đưa đến tình trạng người dân hoang mang và dễ bị kích động theo tâm lý đám đông, rơi vào tình trạng bạo loạn. Vì vậy, nên có quy định chi tiết các mức độ trang bị vũ khí cho các trường hợp trên ngay trong luật, để tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho chiến sĩ cảnh sát cơ động thi hành nhiệm vụ trong trường hợp này.
Theo khoản 5, Điều 10 quy định Cảnh sát cơ động có quyền: “Huy động người, phương tiện, thiết bị của cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam trong trường hợp cấp bách theo quy định tại Điều 17 của Luật này và pháp luật có liên quan”. Đây là nội dung liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mà trực tiếp là quyền sở hữu về tài sản của người dân. Mặc dù, nội dung Điều khoản này dẫn chiếu đến Điều 17 dự Luật, quy định chi tiết các trường hợp, thẩm quyền của chủ thể cho phép huy động phương tiện, thiết bị của cơ quan, tổ chức, công dân, cũng như các trường hợp người, tài sản bị huy động làm nhiệm vụ thiệt hại thì được hưởng chế độ, chính sách đền bù. Tuy nhiên, vẫn còn một trường hợp nên quy định bổ sung thêm để tránh tình trạng lúng túng khi áp dụng trên thực tiễn, đó là, đặt ra nguyên tắc huy động tài sản: những loại tài sản nào được phép huy động, huy động ở mức độ nào? trong trường hợp nếu tình hình chưa đến mức cấp bách mà cán bộ, chiến sĩ huy động tài sản của người dân và gây thiệt hại thì sẽ phải chịu trách nhiệm như thế nào? Để tránh tình trạng lợi dụng việc thi hành công vụ mà gây tổn hại đến tài sản của người dân.
Thứ ba: Vị trí, chức năng của Cảnh sát cơ động (tại Điều 3)
Chức năng chung của Công an nhân dân nói chung là: “bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội” (Điều 3 Luật Công an nhân dân). Do vậy, việc dự thảo Luật chỉ quy định Cảnh sát cơ động “là lực lượng vũ trang nhân dân, thuộc Công an nhân dân Việt Nam, là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, thực hiện biện pháp vũ trang bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội” mà không nhắc tới nhóm đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là chưa tương thích với Luật Công an nhân dân. Mặt khác, quy định như dự thảo Luật chưa thấy rõ vị trí, chức năng của Cảnh sát cơ động khác với các lực lượng khác của Công an nhân dân nói chung ở điểm nào. Do vậy, cần làm rõ và sâu sắc hơn tính “vũ trang” của lực lượng cảnh sát cơ động. Đó mới chính là điểm khác biệt căn bản khi so sánh với các thành phần khác. Có thể thể hiện rõ hơn như sau: “Cảnh sát cơ động là lực lượng của Công an nhân dân Việt Nam, đóng vai trò là lực lượng vũ trang nhân dân chuyên trách, nòng cốt thực hiện các biện pháp vũ trang chuyên nghiệp/đặc biệt để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
+ Việc diễn đạt Cảnh sát cơ động là “lực lượng nòng cốt, chuyên trách thực hiện biện pháp vũ trang bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội” là chưa thật chính xác. Thực chất, Cảnh sát cơ động chỉ là một trong số các “lực lượng nòng cốt, chuyên trách thực hiện biện pháp vũ trang bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”. Bởi lẽ:
+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật An ninh quốc gia thì cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm: Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh vệ Công an nhân dân; Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị bảo vệ an ninh quân đội, tình báo Quân đội nhân dân; Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia ở khu vực biên giới trên đất liền và khu vực biên giới trên biển.
+ Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, theo khoản 2 Điều 2 Luật Công an nhân dân là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội. Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì ngoài Công an nhân dân còn có những cơ quan khác như Ủy ban nhân dân các cấp, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, Thanh tra chuyên ngành…/.