Error

Web Part Error: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe. Correlation ID: b2f766a1-a96d-90f0-c4c5-0530b8f5e6ce.

Error Details:
[UnsafeControlException: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe.]
  at Microsoft.SharePoint.ApplicationRuntime.SafeControls.GetTypeFromGuid(Boolean isAppWeb, Guid guid, Guid solutionId, Nullable`1 solutionWebId, String assemblyFullName, String typeFullName, Boolean throwIfNotSafe)
  at Microsoft.SharePoint.WebPartPages.SPWebPartManager.CreateWebPartsFromRowSetData(Boolean onlyInitializeClosedWebParts)

ĐBQH VŨ TIẾN LỘC – THÁI BÌNH: TẠO ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP, NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC

29/05/2018

Phát biểu tại hội trường trong phiên giám sát tối cao của Quốc hội sáng 28/5 về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2011-2016, đại biểu Vũ Tiến Lộc – Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Bình cho biết, chỉ tiêu hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự phát huy được vai trò dẫn dắt trong nền kinh tế cần quyết liệt thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới.

Đại biểu Vũ Tiến Lộc phát biểu tại hội trường

Hiệu quả sử dụng vốn thấp tại DNNN nằm ở động lực phát triển của doanh nghiệp

Đại viểu Vũ Tiến Lộc cho biết, hệ số ICOR của khu vực doanh nghiệp nhà nước luôn cao hơn nhiều so với các thành phần kinh tế khác. Năm 2016 các doanh nghiệp nhà nước phải bỏ ra gần 10 đồng vốn đầu tư mới thu được 1 đồng tăng trưởng, cao gấp gần 2 lần so với mức chi trên 5 đồng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và cao gấp hơn 1,5 lần so với mức trên 6 đồng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước.

Hơn nữa, mức sinh lời trên vốn chủ sở hữu và tài sản tại các doanh nghiệp nhà nước không chỉ ở mức thấp, mà còn có xu hướng giảm liên tục theo thời gian, từ 16,4% và 6,5% năm 2012 xuống còn 10% và 4,6% năm 2016. Ngân sách nhà nước cũng đã nhiều năm thất thu với thành phần kinh tế nhà nước, tốc độ tăng thu chỉ đạt mức trung bình 3%/năm trong giai đoạn 2011-2016.

Điểm rất cần lưu ý là xu hướng sụt giảm hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước nêu trên lại diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế đang trên đà phục hồi, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, tức là nó diễn ra ngược chiều với xu thế chung. Điều này cho thấy, những yếu kém của khu vực doanh nghiệp nhà nước chủ yếu là vấn đề nội tại của khu vực này, chứ không phải do những tác động từ môi trường bên ngoài.

Đoàn giám sát của Quốc hội đã chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp tại các doanh nghiệp nhà nước như, hệ thống pháp luật còn chồng chéo, thiếu rõ ràng, nên chưa tạo đầy đủ quyền chủ động cho doanh nghiệp; thiếu hệ thống công cụ đánh giá tổng thể về quản trị doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; năng lực, hiệu quả quản lý của người đại diện chủ sở hữu, người điều hành doanh nghiệp còn chưa cao. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả; việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi xảy ra vi phạm chưa nghiêm…

Bày tỏ đồng tình với những đánh giá, nhận định trong báo cáo của Đoàn giám sát song đại biểu Vũ Tiến Lộc cũng cho rằng đây chưa phải là những nguyên nhân sâu xa nhất. Những kết quả yếu kém của khu vực doanh nghiệp nhà nước so với khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và khu vực doanh nghiệp FDI tồn tại trong một thời gian dài và phổ biến không chỉ ở nước ta, mà ở hầu hết các nền kinh tế trên thế giới, kể cả các nền kinh tế có trình độ quản trị tiên tiến nhất, đã cho thấy nguyên nhân gốc rễ nằm ở vấn đề sở hữu và động lực phát triển của doanh nghiệp.

Đại biểu nêu rõ, nếu tỷ trọng sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp vẫn được duy trì ở mức cao áp đảo thì những nỗ lực cải cách khác nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước như hoàn thiện hệ thống pháp lý cho bớt chồng chéo, tăng tính chủ động của doanh nghiệp, xác lập các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, hay tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra cũng sẽ không có nhiều ý nghĩa và không thể đem lại những kết quả như mong muốn.

Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều hành phiên họp toàn thể tại hội trường của Quốc hội sáng ngày 28/5

Quyết liệt thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Theo đại biểu Vũ Tiến Lộc, chủ trương đúng đắn và rất cần được quán triệt xuyên suốt trong quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước để từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn bộ nền kinh tế là phải quyết liệt đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước một cách thực chất và thoái vốn nhà nước ra khỏi hầu hết các lĩnh vực kinh doanh mà Nhà nước không cần phải nắm giữ theo đúng tinh thần của các nghị quyết của Đảng. Nhưng điều đáng tiếc là tiến trình cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước thời gian qua lại diễn ra rất chậm chạp và rất hình thức.

Trong giai đoạn 2011-2016, cả nước đã cổ phần hoá được 571 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, nhưng chỉ thu về được khoảng 43 nghìn tỷ đồng là quá ít ỏi. Nhiều tổng công ty chỉ bán từ 1% đến 2% vốn điều lệ ra bên ngoài, nên khó có thể gọi đó là cổ phần hóa theo đúng nghĩa, thậm chí là vô nghĩa. Lượng vốn nhà nước sở hữu tại các doanh nghiệp đã bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng vẫn còn rất lớn, theo Báo cáo kết quả giám sát chiếm tới 81,1% vốn điều lệ, nên một lượng lớn các nguồn lực tài chính đến nay vẫn chưa tìm được người chủ sở hữu có đủ động lực để sử dụng chúng một cách hiệu quả.

Thực tiễn cho thấy, sự chậm trễ trong tiến trình cổ phần hóa không chỉ do những nguyên nhân mang tính khách quan, như khó khăn trong định giá doanh nghiệp và xử lý nợ tồn đọng, hay do bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế chưa thuận lợi…, mà còn do những yếu tố mang tính chủ quan, như những lo ngại của ban lãnh đạo doanh nghiệp về việc phải chịu trách nhiệm cho những sai phạm, kết quả yếu kém của công ty khi doanh nghiệp khi phải thực hiện kiểm toán và đánh giá lại giá trị để thực hiện cổ phần hóa.

Điều quan trọng hơn là phải kể đến là sự thiếu quyết liệt trong điều hành của các bộ, ngành, dẫn đến nhiều chính sách, giải pháp là đúng đắn nhưng hiệu lực thực thi chưa cao. Chẳng hạn như các quy định về niêm yết trên thị trường chứng khoán đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa - yêu cầu minh bạch được coi là sơ đẳng cho một doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế thị trường, dù đã được ban hành rộng rãi nhưng lại không được các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc. Theo báo cáo của Đoàn giám sát, đến tháng 8.2017 có tới 747 doanh nghiệp cổ phần hóa chưa thực hiện nội dung này, nhưng vẫn chưa có ai phải chịu trách nhiệm về sự chậm trễ.

Những sự chậm trễ, thậm chí là những trì hoãn những nỗ lực cải cách như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến niềm tin của người dân, niềm tin của các nhà đầu tư vào triển vọng cải cách doanh nghiệp nhà nước nói riêng và cải cách nền kinh tế nói chung.

Đại biểu bày tỏ hy vọng rằng, trong thời gian tới, Chính phủ sẽ thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước một cách quyết liệt như đã và đang thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính, cắt bỏ “giấy phép con” và điều kiện kinh doanh thời gian qua. Nếu được như vậy thì động lực phát triển tại các doanh nghiệp sẽ được khơi dậy và tạo tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân. Từ đó thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và cải thiện chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta.

Đại biểu cũng kiến nghị, Quốc hội nghiên cứu ban hành Luật về cổ phần hóa. Đây sẽ là khung khổ chính sách để thúc đẩy khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước tham gia được vào quá trình thoái vốn nhà nước trong doanh nghiệp.

Bảo Yến

Các bài viết khác