Error

Web Part Error: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe. Correlation ID: b94e66a1-a913-90f0-c4c5-0ebd85e4bbdc.

Error Details:
[UnsafeControlException: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe.]
  at Microsoft.SharePoint.ApplicationRuntime.SafeControls.GetTypeFromGuid(Boolean isAppWeb, Guid guid, Guid solutionId, Nullable`1 solutionWebId, String assemblyFullName, String typeFullName, Boolean throwIfNotSafe)
  at Microsoft.SharePoint.WebPartPages.SPWebPartManager.CreateWebPartsFromRowSetData(Boolean onlyInitializeClosedWebParts)

ĐBQH NGUYỄN NGỌC SƠN: ĐẢM BẢO NGUỒN NƯỚC SẠCH SINH HOẠT CHO NGƯỜI DÂN CẦN CÓ QUY ĐỊNH CỤ THỂ VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CÔNG TY CẤP NƯỚC

04/05/2023

Tại Kỳ họp thứ 5 tới, Quốc hội sẽ xem xét, cho ý kiến đối với dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Đề cập việc đảm bảo nguồn nước sạch sinh hoạt cho người dân, ĐBQH Nguyễn Ngọc Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho rằng, phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần có những quy định cụ thể về trách nhiệm của các công ty cấp nước.

KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC PHẢI GIẢM ĐƯỢC PHÁT SINH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH KHÔNG CẦN THIẾT

Hiện nay, cả nước có khoảng 4.500 hệ thống cấp nước tập trung lớn, nhỏ cho cả đô thị và nông thôn với tổng công suất cấp nước thiết kế đạt khoảng 10,9 triệu m3/ngày. Việc khai thác thực tế khoảng 8,3 triệu m3/ngày, trong đó khai thác nước mặt chiếm khoảng 87%, nước ngầm khoảng 13%. Tỷ lệ dân cư được cung cấp nước tập trung ở đô thị đạt 80%, ở nông thôn đạt 62% .

Trên 88,5% số dân nông thôn đã được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, (trong đó 51% sử dụng nước đạt Quy chuẩn QCVN 01-1:2018/BYT của Bộ Y tế), với khoảng 44% dân số nông thôn (29 triệu dân) được cấp nước từ công trình cấp nước tập trung, 56% dân số nông thôn (36,4 triệu dân) sử dụng công trình cấp nước quy mô hộ gia đình.


Đại biểu Quốc hội Nguyễn Ngọc Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường.

Tuy nhiên, hiện nay ở những vùng sâu, vùng xa, vùng khan hiếm nước, việc tiếp cận với nguồn nước khá khó khăn. Đặc biệt vào mùa khô, nhiều vùng bị xâm nhập mặn dẫn đến tình trạng thiếu nước sinh hoạt diễn ra khá phố biến. Thậm chí, nhiều nơi có nước nhưng không sử dụng được do nguồn nước bị ô nhiễm. Để giải quyết trình trạng trên, đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Nguyễn Ngọc Sơn­- Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng, phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần có những quy định cụ thể về trách nhiệm của các công ty cấp nước.

Phóng viên: Thưa đại biểu, tại Kỳ họp thứ 5 tới, Quốc hội sẽ xem xét, cho ý kiến đối với dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Đại biểu có thể cho biết về những nội dung, vấn đề trọng tâm nào cần thiết, kịp thời phải sửa đổi để có thể áp dụng được hiệu quả trong thực tiễn cuộc sống?

ĐBQH Nguyễn Ngọc Sơn: Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012. Qua hơn 10 năm thực hiện, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước. Tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, quy định của Luật Tài nguyên nước năm 2012 vẫn còn có những hạn chế như nội dung Chính phủ đã báo cáo; đồng thời, có nhiều chủ trương, chính sách mới của Đảng cần phải được cập nhật như Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 15/01/2019 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế. Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Qua nghiên cứu dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) trình Quốc hội, tôi nhận thấy, dự thảo Luật đã tiếp cận và quy định cơ bản đầy đủ những nội dung trọng tâm, trọng điểm để thể chế hoá các chủ trương chính sách nêu trên và khắc phục các bất cập trong thực tiễn áp dụng luật, cụ thể là:

Thứ nhất: Bổ sung các quy định nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Nội dung này được thể hiện xuyên suốt trong các Chương của dự thảo Luật, từ nguyên tắc, chính sách, điều tra, quy hoạch, bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra...

Thứ hai: Bổ sung các quy định nhằm đẩy mạnh xã hội hoá, giảm nguồn lực đầu tư của nhà nước.

Thứ ba: Bổ sung các quy định nhằm tính đúng, tính đủ giá trị của tài nguyên nước.

Thứ tư: Bổ sung các quy định về quản lý khai thác, sử dụng nước nhằm kiểm soát hoạt động khai thác, sử dụng nước.

Thứ năm: Bổ sung các quy định về phòng, chống sạt, lở lòng bờ, bãi sông, hồ và các quy định về việc lập, công bố danh mục hồ, ao, đầm phá không được san lấp.

Thứ sáu: Quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành địa phương, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng kịch bản ứng phó, điều hoà, phân bổ nguồn nước khi xảy ra hạn hán thiếu nước và thực hiện điều hòa, phân phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước.

Thứ bảy: Bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương trong toàn bộ dự thảo Luật. Hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư vào của nhà nước.


Tại Kỳ họp thứ 5 tới, Quốc hội sẽ xem xét, cho ý kiến đối với Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). 

Tuy nhiên, qua ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, ý kiến của các chuyên gia, tổ chức trong các hội thảo, cuộc khảo sát cho thấy, hiện vẫn còn một số nội dung, khoảng trống pháp lý cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Tôi cho rằng, nếu cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ các ý kiến xác đáng của các tổ chức, cá nhân thì dự thảo Luật khi trình Quốc hội xem xét, thông qua sẽ khắc phục các bất cập hiện nay, đáp ứng các yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Phóng viên: Hiện nay, chưa có chính sách, quy định cụ thể tính toán đầy đủ giá trị của tài nguyên nước nên các đơn vị, doanh nghiệp chưa tính toán đủ giá thành sản phẩm, chưa xác định chính xác hiệu quả sử dụng nước, dẫn đến việc tính thiếu, thu không đủ. Cũng vì chưa có chính sách, quy định cụ thể giá trị của tài nguyên nước nên vẫn còn tình trạng sử dụng nước không tiết kiệm gây thất thu ngân sách cũng như không kêu gọi được việc xã hội hóa trong ngành nước… Quan điểm và giải pháp của đại biểu về vấn đề trên như thế nào khi sửa đổi Luật Tài nguyên nước?

ĐBQH Nguyễn Ngọc Sơn: Dự thảo Luật lần này đã bổ sung nhiều quy định để tính đúng, tính đủ giá trị tài nguyên nước, đẩy mạnh xã hội hoá, giảm nguồn lực đầu tư của Nhà nước. Tôi cho rằng để sử dụng hiệu quả tài nguyên nước cần sử dụng tổng hợp nhiều giải pháp, trong đó cần chú trọng một số giải pháp sau:

- Trước hết, cần chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước nhằm nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng nước. Sửa đổi, bổ sung quy định về tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, đặc biệt cần bổ sung thu tiền đối với nước sinh hoạt và có lộ trình thu tiền đối với sản xuất nông nghiệp.

- Thứ hai, cần có biện pháp kiểm soát các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước thông qua các công cụ như đăng ký, cấp phép, quan trắc, giám sát… không phân biệt Nhà nước khai thác nước hay tư nhân khai thác nước để đảm bảo tính thống nhất tránh thất thoát tài nguyên, thậm chí gây thất thu ngân sách nhà nước.

- Thứ ba, cần đẩy mạnh công tác tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả của người dân, doanh nghiệp.

- Thứ tư, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời xử lý những trường hợp khai thác không phép hoặc có giấy phép nhưng khai thác sai phép để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Phóng viên: Việc đảm bảo nguồn nước sạch sinh hoạt cho người dân được cả xã hội quan tâm, đặc biệt cho những vùng miền khó khăn, đời sống Nhân dân còn thấp hay vào những mùa, thời điểm người dân phải sử dụng nhiều. Đại biểu có thể cho biết giải pháp hữu hiệu để đảm bảo nguồn nước sạch bền vững phục vụ cho người dân?

ĐBQH Nguyễn Ngọc Sơn: Theo tôi được biết, Hiện nay, cả nước có khoảng 4.500 hệ thống cấp nước tập trung lớn, nhỏ cho cả đô thị và nông thôn với tổng công suất cấp nước thiết kế đạt khoảng 10,9 triệu m3/ngày. Việc khai thác thực tế khoảng 8,3 triệu m3/ngày, trong đó khai thác nước mặt chiếm khoảng 87%, nước ngầm khoảng 13%. Tỷ lệ dân cư được cung cấp nước tập trung ở đô thị đạt 80%, ở nông thôn đạt 62% .

Trên 88,5% số dân nông thôn đã được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, (trong đó 51% sử dụng nước đạt Quy chuẩn QCVN 01-1:2018/BYT của Bộ Y tế), với khoảng 44% dân số nông thôn (29 triệu dân) được cấp nước từ công trình cấp nước tập trung, 56% dân số nông thôn (36,4 triệu dân) sử dụng công trình cấp nước quy mô hộ gia đình.


Để đảm bảo nguồn nước sạch sinh hoạt cho người dân, đặc biệt ở những vùng miền khó khăn, cần nhiều giải pháp đồng bộ (ảnh minh họa: Internet).

Tuy nhiên, hiện nay ở những vùng sâu, vùng xa, vùng khan hiếm nước, việc tiếp cận với nguồn nước khá khó khăn. Đặc biệt vào mùa khô, nhiều vùng bị xâm nhập mặn dẫn đến tình trạng thiếu nước sinh hoạt diễn ra khá phố biến. Thậm chí, nhiều nơi có nước nhưng không sử dụng được do nguồn nước bị ô nhiễm. Để giải quyết trình trạng này, tôi cho rằng, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp:

Một là, sửa đổi Luật Tài nguyên nước năm 2012 theo hướng tích hợp các quy định về cấp nước sinh hoạt cho người dân trong một luật về nước, trong đó chú trọng đến các quy định về chất lượng, số lượng nước cho sinh hoạt, cần có những quy định cụ thể trách nhiệm của các công ty cấp nước để tránh xảy ra những tình trạng như sự cố của Nhà máy nước sông Đà trước đây.

Hai là, triển khai thực hiện các quy hoạch về tài nguyên nước, đặc biệt là quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long; điều tra, đánh giá, bảo vệ tài nguyên nước; quan trắc, giám sát tài nguyên nước dưới để kịp thời ứng phó khi sự cố xảy ra. Thực hiện các đề án, dự án nhằm phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm.

Ba là, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần theo dõi chặt chẽ, cập nhật liên tục các bản tin cảnh báo, dự báo diễn biến tình hình khí tượng, thủy văn, hạn hán, thiếu nước xâm nhập mặn để chủ động trong triển khai các kế hoạch sản xuất, thực hiện các biện pháp phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn trong đó ưu tiên cao nhất đảm nguồn nước sinh hoạt cho Nhân dân.

Bốn là, chỉ đạo việc nghiên cứu, sử dụng hiệu quả các tài liệu, kết quả của chương trình điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất, số liệu quan trắc, dự báo và cảnh báo tài nguyên nước đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường chuyển giao cho các địa phương để thực hiện các giải pháp phòng, chống hạn hán thiếu nước, xâm nhập mặn trước mắt cũng như lâu dài, đặc biệt là bảo đảm cấp nước sinh hoạt cho nhân dân những vùng đang xảy ra tình trạng thiếu nước nghiêm trọng.

Năm là, tăng cường chia sẻ sẻ thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước; xây dựng cơ sở dữ liệu tích hợp dùng chung cho cả nước và cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa trung ương và địa phương, các ngành.

Ngoài ra, cũng cần chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ tài nguyên nước của người dân và doanh nghiệp.

Phóng viên: Trong bối cảnh tài nguyên nước của nước ta đang phải chịu nhiều thách thức như phụ thuộc lớn vào nước ngoài; phân bố nước không đều theo không gian, thời gian; tác động của biến đổi khí hậu; suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước. Vậy theo đại biểu, vấn đề bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia nên được quy định cụ thể trong Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) như thế nào?

ĐBQH Nguyễn Ngọc Sơn: Theo tôi, cần phải bổ sung các quy định nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Nội dung này cần được thể hiện xuyên suốt trong các chương của dự thảo Luật, trong đó tôi cho rằng cần phải quan tâm để nghiên cứu, sửa đổi những quy định cụ thể như:

Nguyên tắc, chính sách, hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước, quản lý các thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước, quản lý nhu cầu khai thác, sử dụng nước, quy hoạch về tài nguyên nước, quản lý việc điều hòa, phân phối nguồn nước cho các mục đích sử dụng; đảm bảo chất lượng cho các mục đích sử dụng như: chức năng nguồn nước; hành lang bảo vệ nguồn nước, đảm bảo chất lượng nước cho nước sinh hoạt…; đảm bảo hệ sinh thái và môi trường như: dòng chảy tối thiểu trên các sông, đoạn sông, hồ, ngưỡng khai thác nước dưới đất và giảm thiểu tác hại do nước gây ra.

Đồng thời, tôi cho rằng, dự thảo Luật lần này cần bổ sung các quy định về an toàn đập, hồ chứa nước, chủ động tích trữ, điều hòa, phân phối nguồn nước đáp ứng yêu cầu sử dụng nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế-xã hội, nhất là trong điều kiện hạn hán, thiếu nước theo đúng tinh thần của Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn đại biểu!

Bích Lan