QUỐC HỘI NGHE BÁO CÁO GIẢI TRÌNH, TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ THẢO LUẬT ĐẤT ĐAI (SỬA ĐỔI)
Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) là dự án Luật lớn, có tính chất quan trọng đặc biệt, có tác động sâu rộng đến hoạt động phát triển kinh tế - xã hội và đời sống người dân. Dự thảo Luật đã được Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại 03 kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp cho ý kiến về dự án Luật tại 07 phiên họp, Chính phủ đã tổ chức nhiều phiên họp chuyên đề để hoàn thiện dự án Luật. Dự thảo Luật đã được lấy ý kiến Nhân dân, quá trình hoàn thiện dự thảo Luật đã có sự tham gia của đông đảo các cơ quan, tổ chức, chuyên gia.
Tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5, sau khi được tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Luật gồm 16 chương và 260 điều bỏ 05 điều, sửa đổi, bổ sung tại 250 điều (cả về nội dung và kỹ thuật văn bản) so với dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6.
Quốc hội tiến hành thảo luận phiên toàn thể tại Hội trường về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
Đánh giá cao quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật
Phát biểu tại phiên thảo luận, đại biểu Nguyễn Đại Thắng bày tỏ tán thành cao với Báo cáo tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và cơ bản tán thành với những nội dung của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Đồng thời, đánh giá rất cao sự nỗ lực, cố gắng và quyết tâm của cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm tra và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình tham gia soạn thảo dự án Luật Đất đai (sửa đổi).
Cũng theo đánh giá của đại biểu, Hồ sơ dự án luật sửa đổi trình Quốc hội lần này được chuẩn bị rất công phu, kỹ lưỡng, đã rất lắng nghe, tiếp thu đầy đủ, thận trọng các ý kiến tham gia hợp lý của các vị đại biểu Quốc hội, của các chuyên gia, các nhà khoa học và các cơ quan, tổ chức có liên quan, ý kiến của cử tri và Nhân dân cả nước; thận trọng đối với những vấn đề lớn, vấn đề khó và còn có ý kiến khác nhau vì dự án Luật Đất đai (sửa đổi) có vai trò rất quan trọng, có sự ảnh hưởng và tác động sâu rộng đến mọi tổ chức, cá nhân, đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm tới. “Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) trình tại kỳ họp lần này đã tương đối hoàn thiện, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi thực tiễn đặt ra, cơ bản khắc phục được những hạn chế của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 6, đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ 5”, đại biểu nhấn mạnh.
Đại biểu Nguyễn Đại Thắng – Phó Trưởng đoàn chuyên trách phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên
Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn dự thảo luật, đại biểu góp ý hoàn thiện một số nội dung liên quan đến: quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng đất do nhà nước cho thuê đất thu tiền hằng năm; thông báo thu hồi đất và chấp hành quyết định thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng; nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Cụ thể:
Đơn vị sự nghiệp công lập được quyền góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất thuê theo hướng quy định chi tiết điều kiện góp vốn
Thứ nhất, về quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng đất do nhà nước cho thuê đất thu tiền hằng năm. Tại khoản 2 Điều 34 dự thảo luật quy định "Đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hằng năm không thuộc trường hợp sử dụng đất để đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp quy định tại Điều 202 của luật này thì có quyền, nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 điều này, trừ quyền bán, quyền thế chấp và quyền góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất và quyền thuê trong hợp đồng thuê". Quy định đơn vị sự nghiệp công lập khi lựa chọn hình thức thuê đất trả tiền hằng năm thì không được quyền bán, quyền thế chấp tài sản gắn liền với đất là hợp lý và phù hợp với việc bảo toàn đất do Nhà nước giao cho đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng; ngăn chặn được việc tài sản có thể bị phát mại nếu thế chấp. Tuy nhiên, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu có thể xem xét cho đơn vị sự nghiệp công lập được quyền góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất thuê theo hướng quy định chi tiết điều kiện góp vốn để tạo điều kiện và giảm áp lực về tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập, nhất là các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ.
Bổ sung trường hợp không liên lạc được với người có đất thu hồi
Thứ hai, về thông báo thu hồi đất và chấp hành quyết định thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng. Tại khoản 1 Điều 85 dự thảo luật quy định trước khi ban hành quyết định thu hồi đất, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải gửi văn bản thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (nếu có) biết chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp.
Theo đại biểu, thực tế một số trường hợp chủ sở hữu có đất thu hồi không có mặt tại địa phương và không xác định được nơi ở sẽ gây khó khăn trong quá trình thực hiện, ảnh hưởng đến tiên tiến độ giải phóng mặt bằng, triển khai dự án. Vì vậy, đề nghị nghiên cứu bổ sung vào khoản 1 Điều 85 nội dung như sau: "Trường hợp không liên lạc được với người có đất thu hồi thì thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã".
Ghi rõ trong luật nguyên tắc việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
Thứ ba, tại Điều 91 dự thảo luật về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất: Đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu ghi rõ trong luật nguyên tắc việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm người có đất bị thu hồi có chỗ ở, bảo đảm thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Đây là nguyên tắc được quy định rõ trong Nghị quyết 18 của Trung ương và cần thể chế hóa trong Luật Đất đai (sửa đổi). Mặc dù các quy định trong dự thảo luật đã thể hiện cụ thể hóa nguyên tắc này, tuy nhiên đại biểu đề nghị cần quy định rõ trong luật để bảo đảm triển khai thực hiện được nghiêm túc, đầy đủ nguyên tắc này trong thực tiễn.
Đồng thời, đại biểu cũng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu sửa đổi khoản 2 Điều 91 theo hướng chỉ bồi thường bằng đất khác mục đích sử dụng với loại đất thu hồi khi địa phương không có đất cùng mục đích sử dụng. Bởi vì, quy định như trong dự thảo luật sẽ gây khó khăn trong quá trình bồi thường đất và ảnh hưởng tới việc thu hồi đất do nhu cầu của mỗi người là khác nhau và căn cứ vào đâu để được xem xét bồi thường bằng đất khác mục đích sử dụng như trong quy định tại khoản 2 Điều 91 của dự thảo luật./.