Error

Web Part Error: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe. Correlation ID: 022d54a1-89ae-90f0-c4c5-0cd361be6403.

Error Details:
[UnsafeControlException: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe.]
  at Microsoft.SharePoint.ApplicationRuntime.SafeControls.GetTypeFromGuid(Boolean isAppWeb, Guid guid, Guid solutionId, Nullable`1 solutionWebId, String assemblyFullName, String typeFullName, Boolean throwIfNotSafe)
  at Microsoft.SharePoint.WebPartPages.SPWebPartManager.CreateWebPartsFromRowSetData(Boolean onlyInitializeClosedWebParts)

ĐBQH PHẠM TRỌNG NGHĨA: CẦN CÓ QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LĨNH VỰC DÂN TỘC

26/05/2022

Đóng góp vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa – Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn nêu quan điểm: Cần có quy phạm pháp luật ở tầm luật để điều chỉnh thống nhất các chính sách dân tộc, làm công cụ pháp lý nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc.


Thực hiện Kỳ họp thứ 3, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Quốc hội vừa thảo luận ở hội trường về dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022.

Tham gia góp ý vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa – Đoàn Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tỉnh Lạng Sơn thống nhất cao với các nhận xét trong Báo cáo số 223 ngày 20/5/2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Có thể nhận thấy, việc thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh ngày càng nghiêm túc với nhiều cải tiến thiết thực, hiệu quả. Từ đầu khoá XV đến nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã 5 lần điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, trung bình 2 tháng 1 lần, trong đó bổ sung 3 luật và 4 nghị quyết. Các dự án luật được bổ sung đều thuộc danh mục trong Đề án định hướng xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Các nghị quyết được bổ sung đều là những vấn đề mới phát sinh, đòi hỏi phải được quy định, điều chỉnh. Điều này thể hiện sự nhanh chóng, kịp thời, linh hoạt của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhằm phúc đáp đòi hỏi của thực tiễn.


Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa – Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều dự án đã được đưa vào chương trình nhưng phải xin lùi thời hạn, có dự án phải hoàn thiện báo cáo lại cơ quan thẩm tra và Ủy ban Thường vụ Quốc hội vì chưa đảm bảo chất lượng. Mặc dù Điều 64 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ về thời gian gửi hồ sơ và đề ra yêu cầu, cơ quan thẩm tra không tiến hành thẩm tra dự án, dự thảo khi hồ sơ gửi không đúng thời hạn theo quy định nhưng nhiều hồ sơ, dự án, dự thảo khi được trình ra Quốc hội vẫn còn chậm. Thực tiễn này cần được xem xét, đánh giá và xử lý. Bên cạnh đó, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 sửa đổi năm 2020 cũng như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 chỉ quy định về việc lập chương trình đối với luật và pháp lệnh mà không đặt vấn đề đưa nghị quyết vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Điều này xuất phát từ phạm vi, đối tượng và bản chất khác nhau giữa luật, pháp lệnh với nghị quyết. Theo đó, luật, pháp lệnh để quy định những vấn đề có tính chất ổn định, lâu dài, có phạm vi rộng, có tác động lớn. Trong khi đó, Nghị quyết chủ yếu để điều chỉnh những vấn đề cụ thể, có tính chất khẩn cấp, áp dụng không lâu nhưng Nghị quyết của Quốc hội để quy định tỷ lệ phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi ngân sách, thực hiện thí điểm một số chính sách mới, quy định về tình trạng khẩn cấp hay đại xá. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để giải thích Hiến pháp, luật, bãi bỏ pháp lệnh hay tổng động viên hoặc động viên cục bộ.

Đối với các dự án luật, pháp lệnh, quy trình để đưa vào chương trình rất chặt chẽ, đó là phải lập đề nghị, phải có đánh giá tác động, phải lấy ý kiến các cơ quan, đối tượng liên quan. Đối với Nghị quyết thì không có quy định này. Hiện nay, theo Nghị định số 34 năm 2016 của Chính phủ thì chỉ có 2 trong 5 loại Nghị quyết của Quốc hội thực hiện quy trình nêu trên. Do đó, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa đề nghị:

Thứ nhất, rà soát nghiên cứu để xác định rõ những vấn đề thuộc thẩm quyền, phạm vi của luật theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì phải ban hành luật để điều chỉnh, không sử dụng hình thức nghị quyết để quy định các nội dung mà Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật yêu cầu phải được thể hiện dưới hình thức luật. Thứ hai, rà soát, đánh giá kỹ việc đưa các nghị quyết vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh để thực hiện đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nghị quyết chủ yếu để điều chỉnh, giải quyết những vấn đề cụ thể, ngắn hạn phát sinh khó dự báo trước. Vì vậy, nếu đưa nghị quyết vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh thì sẽ thường xuyên phải điều chỉnh chương trình này. Thay vào đó có thể đưa các nghị quyết vào chương trình kỳ họp của Quốc hội, phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Về đề nghị chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 và điều chỉnh năm 2022, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa thống nhất cao với dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, nhất là với việc chỉ lùi thời hạn trình Luật Đất đai (sửa đổi) một kỳ họp, từ kỳ họp thứ 3 sang kỳ họp thứ 4 và vẫn xem xét theo quy trình 3 kỳ họp. Đồng thời nhất trí đề nghị bổ sung việc sửa đổi Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản vào chương trình để cùng trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5.

Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa khẳng định: Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về công tác dân tộc. Ngày 18/11/2019, Quốc hội đã thông qua Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2012-2030. Đây là sự kiện mang tính lịch sử cho sự phát triển của vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Lần đầu tiên đồng bào có được văn bản do Quốc hội ban hành, tích hợp đầy đủ nhất các chính sách đầu tư phát triển cho đồng bào. Nghị quyết số 88 cũng yêu cầu Chính phủ tổ chức rà soát các văn bản pháp luật liên quan đến chính sách dân tộc, kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ các văn bản không còn phù hợp.

Ngay từ năm 2005, Nghị quyết số 48 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân tộc theo hướng tăng cường đoàn kết đồng bào các dân tộc trên cơ sở đại đoàn kết toàn dân tộc". Kết luận số 65 ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới cũng yêu cầu "Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số".

Quan điểm về chính sách dân tộc luôn được đổi mới, hoàn thiện qua các bản Hiến pháp. Nếu như Hiến pháp 1992 quy định "Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số" để nhấn mạnh việc trợ giúp đồng bào thì Điều 5 Hiến pháp 2013 đã thể hiện tinh thần rất mới. Đó là, bên cạnh việc thực hiện chính sách hỗ trợ cho đồng bào để phát triển toàn diện, Hiến pháp xác định Nhà nước phải tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước. Quan điểm và tinh thần mới này của Hiến Pháp cần được thể chế hóa để đi vào cuộc sống.

Hiện nay, theo rà soát của Ủy ban Dân tộc, hệ thống quy phạm pháp luật về công tác dân tộc nằm rải rác ở hơn 300 văn bản, chủ yếu là văn bản ở cấp Chính phủ, cấp bộ với 52 nghị định, 11 nghị quyết của Chính phủ, 118 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và hơn 50 thông tư của các Bộ trưởng.

Điểm e khoản 1 Điều 15 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định Quốc hội ban hành luật để quy định chính sách dân tộc. Vì vậy, cần có quy phạm pháp luật ở tầm luật để điều chỉnh thống nhất các chính sách dân tộc, làm công cụ pháp lý nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc. Đạo luật này cần thể hiện rõ phạm vi, đối tượng điều chỉnh có tính chiến lược và tầm nhìn dài hạn, có tính ổn định và tính khả thi cao. Việc Quốc hội ban hành luật về lĩnh vực dân tộc cũng là kinh nghiệm lập pháp ở các quốc gia có nhiều dân tộc sinh sống như Philippines, Ba Lan, Czech, Hungary và Croatia. Ở nước ta, dự án Luật Dân tộc đã được soạn thảo từ năm 1993 theo Quyết định số 18 ngày 4/2/1993 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến nay đã gần 30 năm, đã qua nhiều lần dự thảo, nhiều lần xin ý kiến nhưng vẫn chưa được trình Quốc hội.

Trong đề án định hướng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV mới chỉ có nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng dự thảo nghị quyết của Quốc hội, quy định danh mục, thành phần, tên gọi các dân tộc Việt Nam mà chưa có dự án luật về công tác dân tộc.

Với các căn cứ chính trị, pháp lý và thực tiễn nêu trên, với mong muốn tha thiết của cử tri, đồng bào các dân tộc thiểu số về một văn bản luật có giá trị pháp lý cao, điều chỉnh tổng thể và toàn diện về dân tộc thiểu số, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa đề nghị Chính phủ sớm tổng kết việc thực hiện Nghị định số 05 năm 2011 về công tác dân tộc và các quy định có liên quan để lập hồ sơ đề nghị xây dựng dự án luật về công tác dân tộc. Ngoài ra, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét đưa dự án này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 hoặc chậm nhất là năm 2024 để xem xét, thông qua trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV./.

Bích Lan