TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP CHIỀU 21/6: QUỐC HỘI TIẾP TỤC THẢO LUẬN DỰ ÁN LUẬT ĐẤT ĐAI (SỬA ĐỔI)
Rà soát thêm để phù hợp với pháp luật về quyền dân sự, về quyền cư trú
Về điều kiện chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp quy định ở Điều 48, đại biểu cho biết, Dự thảo quy định cá nhân sử dụng đất nông nghiệp chỉ được chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp trong cùng đơn vị hành chính cấp huyện cho cá nhân khác để thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Đại biểu Phan Thị Mỹ Dung – Đoàn ĐBQH tỉnh Long An
Đại biểu cho rằng quy định này cần phải nghiên cứu, rà soát thêm để phù hợp với pháp luật về quyền dân sự, về quyền cư trú, đâu phải người đi đâu thì tài sản theo đó và thực tế chưa hẳn việc chuyển đổi đất trong cùng một đơn vị hành chính cấp huyện là gần, thuận lợi. Ví dụ như hai mảnh đất gần sát nhau, cách nhau một con đường, một bờ mương nhưng có thể là hai xã của hai huyện khác nhau. Thực tế, có trường hợp một xã vùng thượng cách một xã vùng hạ của cùng một huyện gần cả trăm km, xa hơn gấp bao nhiêu lần so với một xã thuộc 2 huyện khác nhau nhưng giáp ranh. Mặt khác, quy định này có thể cản trở hoạt động sản xuất sinh hoạt của người dân như là không liền canh, liền cư. Do đó, đại biểu đề xuất cho phép khi đủ điều kiện là được phép chuyển đổi trong phạm vi đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Quy định 4 phương pháp định giá đất
Về nguyên tắc, phương pháp định giá đất ở Điều 158, đại biểu cho biết, qua chỉnh lý từ các ý kiến đóng góp đến nay, dự thảo luật chỉnh lý bổ sung thành phương pháp định giá đất theo nguyên tắc thị trường. Đại biểu đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát, bổ sung, làm rõ, minh bạch nguyên tắc thị trường để đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư.
Theo đại biểu, thực tiễn trong thời gian qua, việc bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi không chỉ ở vấn đề tính tiền bồi thường khi thu hồi đất mà còn ở phương án hỗ trợ tái định cư theo tinh thần Nghị quyết 18, để sau khi thu hồi đất thì người dân có đất bị thu hồi phải có chỗ ở đảm bảo cuộc sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Việc duy trì một mặt bằng hợp lý các chi phí liên quan đến đất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát triển bền vững, từ đó tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà nước.
Về phương pháp định giá đất ở khoản 4, đại biểu đồng tình với một số đại biểu rằng quy định 4 phương pháp là phương pháp so sánh trực tiếp chiết trừ thu nhập hệ số điều chỉnh giá đất, đề nghị tiếp tục đánh giá để quy định cho hoàn thiện vì hiện nay trong 4 phương pháp nêu trên theo quy định hiện hành là có vướng mắc, khó khăn, lúng túng trong quá trình thực hiện.
Về quy định Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể ở khoản 2, khoản 3 Điều 161, đại biểu bày tỏ thống nhất như dự thảo quy định. Tuy nhiên, một vấn đề thực tiễn đặt ra là công tác xác định giá đất trong thời gian qua đã gặp nhiều khó khăn, đó là việc lựa chọn đơn vị tư vấn xác định giá đất.
Theo quy định hiện hành trường hợp giá gói thầu trên 100 triệu đồng thì phải áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi đã mất rất nhiều thời gian để chọn đơn vị tư vấn giá, đồng thời có trường hợp khi đấu thầu có thời điểm không có đơn vị đăng ký tư vấn giá đăng ký tham gia. Do đó, để giải quyết khó khăn, vướng mắc này đại biểu đề nghị dự thảo luật cần bổ sung quy định trong một số trường hợp như là không có đơn vị tư vấn giá đăng ký tham gia thầu hoặc loại dự án có tính chất đặc thù ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương thì giao cho địa phương thành lập hội đồng. Hội đồng này khác và độc lập với hội đồng thẩm định giá đất cụ thể hoặc đơn vị tư vấn xác định giá đất trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, có chức năng tư vấn, xác định giá đất và chịu trách nhiệm với kết quả thực hiện, nhằm để địa phương chủ động, kịp thời quản lý và triển khai thực hiện các dự án ở địa phương.
Liên quan đến vấn đề về hòa giải tranh chấp đất đai, đại biểu nêu rõ, dự thảo quy định là khuyến khích hòa giải tranh chấp đất đai. Chúng ta hiện nay có các dạng hòa giải là hòa giải ở cơ sở theo Luật Hòa giải cơ sở; hòa giải tại tòa án theo Luật Hòa giải đối thoại tại tòa án; hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã và đây là một thủ tục bắt buộc trước khi tòa án thụ lý tranh chấp đất đai. Hòa giải này chỉ theo quy định của Luật Đất đai.
Dự thảo luật lần này cũng tiếp tục kế thừa theo quy định pháp luật hiện hành là Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai trong vòng 45 ngày. Đại biểu cho rằng thời gian này là quá dài. Thực tế, rất nhiều trường hợp 2 bên chỉ chờ được xã đưa ra hòa giải không thành để đủ điều kiện để khởi kiện ra tòa án. Thậm chí, có trường hợp trong thời gian chờ đợi này mâu thuẫn, tranh chấp của 2 bên càng gay gắt, sâu sắc hơn, có thể gây nên tình trạng vi phạm pháp luật, mất an ninh trật tự ở địa phương.
Mặt khác, biên bản hòa giải thành của xã cũng không có giá trị pháp lý bắt buộc thực hiện, hôm nay xã hòa giải thành, ngày hôm sau thì một hoặc cả hai bên không đồng ý với biên bản hòa giải thành thì cũng phải kiện ra tòa để giải quyết. Do đó, đại biểu đề nghị giảm số ngày phải tiến hành hòa giải của Ủy ban nhân dân cấp xã xuống 30 ngày, hòa giải của Ủy ban nhân dân cấp xã là không bắt buộc, còn nếu quy định thủ tục bắt buộc thì phải bổ sung quy định biên bản hòa giải thành của xã được xác định và có giá trị pháp lý, hiệu lực thực hiện như hòa giải thành trong hòa giải cơ sở, hòa giải thành tại tòa án, chuyển cho tòa án xác nhận và có hiệu lực thi hành nhằm để khẳng định giá trị vai trò quản lý nhà nước cũng như không lãng phí nguồn lực mà Ủy ban nhân dân cấp xã đã thực hiện.
Đối với quy định về trường hợp thực hiện quyền sử dụng đất có điều kiện ở Điều 49, đại biểu cho rằng giao trách nhiệm cho Ủy ban nhân dân cấp xã để xác định và xác nhận những người thuộc hàng thừa kế theo quy định của pháp luật về dân sự là một trách nhiệm mà Ủy ban nhân dân cấp xã không có thẩm quyền cũng như khả năng để thực hiện. Theo quy định của pháp luật dân sự, để xác định người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật phát sinh khi người để lại tài sản mất và khi có tranh chấp thì tòa án mới có quyền xác định người được hưởng thừa kế. Đối với thừa kế thì có nhiều hàng thừa kế, hàng thừa kế thứ nhất, thứ hai, thứ ba và những người trong hàng thừa kế có thể ở nhiều địa phương khác nhau, thậm chí là ở nước ngoài.
Đại biểu đề nghị nếu cho phép người có quyền chuyển nhượng trong trường hợp nêu trên thì có quyền chuyển nhượng cho ai đủ điều kiện nhận chuyển nhượng hoặc tặng, cho theo ý chí của mình.