Error

Web Part Error: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe. Correlation ID: 1a1767a1-59e2-90f0-c4c5-0a676d84c8ea.

Error Details:
[UnsafeControlException: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe.]
  at Microsoft.SharePoint.ApplicationRuntime.SafeControls.GetTypeFromGuid(Boolean isAppWeb, Guid guid, Guid solutionId, Nullable`1 solutionWebId, String assemblyFullName, String typeFullName, Boolean throwIfNotSafe)
  at Microsoft.SharePoint.WebPartPages.SPWebPartManager.CreateWebPartsFromRowSetData(Boolean onlyInitializeClosedWebParts)

ĐBQH HỒ THỊ KIM NGÂN: ĐIỀU CHỈNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT VÀ THU HỒI ĐẤT

15/01/2024

Đóng góp ý kiến vào dự án Luật Đất đai (sửa đổi), đại biểu Hồ Thị Kim Ngân - Đoàn Đại biểu tỉnh Bắc Kạn góp ý một số nội dung vấn đề về tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, vấn đề thu hồi đất.

ĐBQH NGUYỄN HOÀNG BẢO TRÂN: TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, BỔ SUNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH TRONG DỰ THẢO LUẬT ĐẤT ĐAI (SỬA ĐỔI)

Thực hiện chương trình kỳ họp bất thường lần thứ năm, sáng ngày 15/01, Quốc hội thảo luận ở Hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai (sửa đổi). Để góp phần hoàn thiện dự thảo Luật, đại biểu Hồ Thị Kim Ngân - Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Kạn góp ý một số nội dung về tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và vấn đề thu hồi đất.

Toàn cảnh phiên họp

Thứ nhất, về tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Đại biểu Hồ Thị Kim Ngân cho biết tại khoản 7 Điều 76 dự thảo quy định “diện tích đất được xác định trong kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thu hồi để thực hiện dự án hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau 2 năm liên tục được thực hiện trong kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện, chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện phải xem xét, đánh giá, điều chỉnh hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh hủy bỏ này có liên quan đến việc chuyển mục đích sử dụng đất đối với phần diện tích đã được xác định trong kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện”. Đồng thời, Tại khoản 8 Điều 76 dự thảo quy định “hằng năm Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức rà soát, xử lý và công bố công khai việc thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, hủy bỏ việc thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đối với đất đã được ghi trong kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện”. Theo đại biểu Hồ Thị Kim Ngân, các quy định trên, có một số nội dung cần làm rõ.

Một là, tại khoản 7 có đề cập đến việc điều chỉnh hủy bỏ. Tuy nhiên tại khoản 8 chỉ đề cập đến việc hủy bỏ, trường hợp có điều chỉnh, có hủy bỏ thì việc điều chỉnh tại khoản 7 có được hiểu là điều chỉnh về thời gian thu hồi hay không? Trường hợp có điều chỉnh về thời gian thu hồi thì thậm chí việc xác định trong kế hoạch sử dụng đất đã thu hồi nhiều hơn 2 năm và mục đích quy định không đạt hiệu quả theo quy định tại khoản 7 Điều 76.

Hai là, trường hợp chỉ có yêu cầu hủy bỏ, nếu sau 2 năm liên tiếp không thực hiện thì việc xử lý sẽ được thực hiện theo trình tự, thủ tục nào, có cần thiết thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh trước khi Ủy ban nhân dân công bố việc hủy bỏ hay không. Theo quy định tại khoản 5 Điều 72 trước khi phê duyệt kế hoạch sử dụng đất cấp huyện hằng năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua danh mục công trình, dự án phải thu hồi đất. Trường hợp không thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh thì việc báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch đối với Hội đồng nhân dân tỉnh cần phải được thực hiện bảo đảm theo dõi, giám sát thực hiện.

ĐBQH Hồ Thị Kim Ngân - Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Kạn

Thứ hai, liên quan đến vấn đề thu hồi đất.

Đại biểu Hồ Thị Kim Ngân đề nghị bỏ khoản 32 Điều 79 trong dự thảo Luật này, trường hợp thu hồi đất để thực hiện dự án, công trình vì lợi ích quốc gia, công cộng không thuộc các trường hợp quy định từ khoản 1 đến khoản 31 của điều này thì Quốc hội sửa đổi, bổ sung các trường hợp thu hồi đất của điều này.

Bên cạnh đó, tại khoản 7 Điều 81 quy định về một số trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai: "Đất trồng cây hằng năm không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục, đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn 18 tháng liên tục, đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn 24 tháng liên tục và đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà không đưa đất vào sử dụng theo thời hạn ghi trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính". Quy định về các trường hợp thu hồi đất này được kế thừa theo quy định tại Luật Đất đai năm 2013, đồng thời, bổ sung nội dung về thời hạn đưa đất vào sử dụng sau khi bị xử phạt vi phạm hành chính. Theo đại biểu Hồ Thị Kim Ngân quy định này là cần thiết, tuy nhiên đại biểu cũng đề nghị nghiên cứu bổ sung khung thời gian đưa đất vào sử dụng sau khi bị xử phạt vi phạm hành chính để đảm bảo quy định hiệu quả.

Cuối cùng, về vấn đề thu hồi đất trong các trường hợp thực hiện quyền sử dụng đất có điều kiện. Đại biểu Hồ Thị Kim Ngân cho biết, tại Điều 48 dự thảo luật quy định về các trường hợp thực hiện quyền sử dụng đất có điều kiện. Theo đó, tại khoản 1 điều này quy định: “Cá nhân là người dân tộc thiểu số được giao đất, cho thuê đất theo quy định tại khoản 3 Điều 16 của luật này được thừa kế, tặng cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người thuộc hàng thừa kế là đối tượng quy định tại khoản 2 của Điều 16. Trường hợp người sử dụng đất chết mà không có người thừa kế hoặc hàng thừa kế là đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 16 của luật này thì Nhà nước thu hồi đất. Trường hợp người sử dụng đất chuyển khỏi địa bàn cấp tỉnh nơi có đất đến nơi khác sinh sống hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất mà không tặng cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người thuộc hàng thừa kế là đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 16 thì Nhà nước thu hồi đất và bồi thường tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật cho người có diện tích đất thu hồi. Diện tích đất đã thu hồi được dùng để trực tiếp giao đất, cho thuê đất đối với cá nhân là người dân tộc thiểu số theo chính sách quy định tại Điều 16”. Việc quy định như dự thảo nhằm đảm bảo quỹ đất để thực hiện chính sách đất đai cho người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, quy định này cần được bổ sung, làm rõ một số nội dung đảm bảo tính đồng bộ, cụ thể.

Một là, dự thảo luật quy định về các trường hợp thu hồi đất gồm thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh tại Điều 78; thu hồi đất về phát triển kinh tế - xã hội, về lợi ích quốc gia, công cộng tại Điều 79; thu hồi đất do vi phạm pháp luật tại Điều 81; thu hồi đất do chấm dứt sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người, Điều 82. Trong đó, quy định tại khoản 2 Điều 82, người sử dụng đất giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất, có đơn tự nguyện trả lại đất cũng không thỏa mãn các trường hợp thu hồi đất nêu trên. Do vậy, cần bổ sung một khoản vào Điều 82 dự thảo về nội dung trường hợp này để đảm bảo tính bao quát và các trường hợp thu hồi đất, trên cơ sở đó hoàn thiện quy định có liên quan.

Hai là, dự thảo luật chỉ quy định việc bồi thường tài sản gắn liền với đất đối với trường hợp sử dụng đất chuyển khỏi địa bàn cấp tỉnh nơi có đất đến nơi khác sinh sống hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất mà không tặng cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người thuộc hàng thừa kế là đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 16. Còn đối với trường hợp người sử dụng đất chết mà không có người thừa kế thuộc hàng thừa kế là đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 16 của luật này thì dự thảo luật quy định việc thu hồi đất, không quy định việc bồi thường tài sản gắn liền với đất là chưa đảm bảo tính hợp lý trong trường hợp có tài sản trên đất và có người thừa kế nhưng không là đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 16./

 

Ngọc Thúy

Các bài viết khác