HỘI NGHỊ GIẢI TRÌNH VỀ AN NINH NGUỒN NƯỚC PHỤC VỤ SẢN XUẤT, SINH HOẠT VÀ QUẢN LÝ AN TOÀN HỒ, ĐẬP

17/08/2020

Sáng ngày 17/8, tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Khoa học-Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức Hội nghị giải trình về “An ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt và quản lý an toàn hồ, đập”. Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển dự và chỉ đạo Hội nghị.

 

Đến dự Hội nghị còn có các Ủy viên Trung ương Đảng: Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng; Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách Nguyễn Đức Hải; Phó Chủ nhiệm nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Vinh Hà; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà và đại diện Bộ Công thương, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng lãnh đạo một số Ủy ban của Quốc hội.

Phát biểu tại Hội nghị, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng cho biết: Nước ta có tới 3.500 sông suối có chiều dài từ 10km trở lên; có 13 lưu vực sông có diện tích lớn hơn 10.000 km2. Trữ lượng nước mặt khoảng 843 tỷ m3/năm nhưng phân bổ không đều trong lãnh thổ. Hiện tổng lượng nước được khai thác, sử dụng là 80,6 tỷ m3/năm, chiếm chưa đầy 10% trữ lượng nước. Tuy nhiên, lượng nước này lại sử dụng chưa thực sự hợp lý và hiệu quả.


Toàn cảnh Hội nghị giải trình về “An ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt và quản lý an toàn hồ, đập”

Một số thách thức đặt ra với quản lý và an ninh nguồn nước gồm: Một là, tình trạng mất cân đối nước cho sản xuất, sinh hoạt diễn ra khá thường xuyên theo không gian và thời gian. Vào mùa mưa thì mưa nhiều, thừa nước gây lũ lụt cục bộ, lũ quét. Vào mùa khô thì nắng nóng, hạn hán, thiếu nước ngọt nhưng lại bị xâm nhập mặn. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng nước cho đời sống, sản xuất và sinh hoạt của người dân liên tục ngày càng gia tăng. Khả năng tiếp cận nguồn nước sạch và an toàn cho người dân ở nhiều nơi còn gặp khó khăn. Do tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng đang đe dọa nguồn nước ngọt của các sông và hạn chế diện tích canh tác, đang kéo theo hiện tượng thời tiết cực đoan làm gia tăng các loại hình thiên tai như bão, lũ, mưa lớn, hạn hán, xâm nhập mặn, làm thay đổi lưu lượng dòng chảy ảnh hưởng đến các công trình thủy lợi. Việc quản trị nước còn một số hạn chế, chưa có sự điều tiết, điều hòa hiệu quả nguồn nước từ nơi thừa sang nơi thiếu, hay việc tích trữ nước vào mùa mưa để phòng hạn hán. Tình trạng thất thoát nước cũng như lãng phí nước trong sử dụng còn diễn ra nhiều nơi. Theo thống kê sơ bộ của ngành nông nghiệp thì lượng nước thất thoát là 25%, trong thủy lợi con số này ở mức 30%.

Vấn đề ô nhiễm nguồn nước từ các hoạt động sản xuất, sinh hoạt do áp lực từ việc phát triển kinh tế nên gia tăng lượng xả thải vào các sông, suối, ảnh hưởng đến việc cấp nước sinh hoạt và sản xuất cho người dân. Có nới còn tình trạng có nước nhưng không sử dụng được hoặc sẽ phải tăng chi phí để xử lý nước. Tình trạng suy giảm diện tích rừng đầu nguồn cũng ảnh hưởng lớn đến khả năng giữ nước của các lưu vực sông; thêm vào đó, việc mất thảm thực vật của rừng đã ảnh hưởng không nhỏ tới tác dụng trữ nước.

Tình trạng khai thác quá mức trên các dòng chính ở thượng nguồn từ nước ngoài làm ảnh hưởng tới lượng nước và chất lượng nước chảy vào nước ta. Việt Nam có 07 lưu vực sông liên quốc gia, phần lưu vực ở nước ngoài chiếm tới 71% lại ở khu vực đầu nguồn. An ninh nguồn nước là vấn đề của toàn thế giới, được nhiều quốc gia quan tâm, nỗ lực giải quyết tới 4 trọng tâm chính, đó là: Đảm bảo các hệ sinh thái nước ngọt, hệ sinh thái biển và các hệ sinh thái liên quan được bảo vệ và củng cố; Bảo đảm phát triển bền vững và ổn định chính trị; Mọi người dân đều được tiếp cận đầy đủ nguồn nước sạch với chi phí hợp lý; Các đối tượng dễ bị tổn thương sẽ được bảo vệ trước rủi ro từ những thảm họa liên quan đến nước.

Ở Việt Nam, để bảo đảm an ninh nguồn nước, Quốc hội đã ban hành hành lang pháp lý với các đạo luật như:  Luật Tài nguyên nước, Luật thủy lợi, Luật bảo vệ môi trường, Luật Khí tượng thủy văn, Luật Phòng, chống thiên tai… đang đòi hỏi cần có giải pháp để quản lý tổng thể các ngành kinh tế sử dụng nước để bảo đảm phát triển bền vững; nâng cao tính thích ứng của nền sản xuất; vấn đề tích trữ nước, điều chuyển nước từ nơi thừa sang nơi thiếu; vấn đề sử dụng nước tiết kiệm; quan hệ quốc tế với các quốc gia thượng nguồn lưu vực sông.

Đối với an toàn hồ, đập, trong nhiều năm qua, chúng ta xây dựng gần 7.000 đập, hồ chứa thủy lợi, thủy điện; đã phát huy tốt vai trò trị thủy, cấp nước, cấp điện; phòng chống lũ; tạo tăng trưởng lớn cho các ngành kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do đã được xây dựng từ nhiều năm nên trong số đó có tới trên 1.000 hồ đập hư hỏng, xuống cấp; 200 hồ hư hỏng, xuống cấp nặng. Trong điều kiện thiên tai diễn biến bất thường như hiện nay thì nguy cơ mất an toàn là rất lớn. Đây cũng đang là một thách thức lớn của các cơ quan quản lý nhà nước, cả hệ thống chính trị trong quá trình phát triển, vừa phải bảo đảm cho khai thác, vận hành của đập, hồ chứa để bảo đảm mục đích phát triển kinh tế- xã hội; vừa phải bảo đảm tuyệt đối an toàn cho hạ du và ổn định cuộc sống của người dân.


Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học-Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng phát biểu tại Hội nghị.

Trước tình hình trên, vấn đề bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập đang đặt ra cấp thiết, cần phải thay đổi tư duy trong quản lý và sử dụng nguồn nước một cách an toàn, hiệu quả là nội dung rất quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của người dân và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cả hiện tại và tương lai. Với yêu cầu đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giao Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành tổ chức giám sát về vấn đề này do Đồng chí Phùng Quốc Hiển, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội trực tiếp chỉ đạo thực hiện.

Mục đích của giám sát này là đánh giá đúng tình hình về an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, từ đó có các kiến nghị, giải pháp đúng tới Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành và địa phương. Từ đầu năm 2020 đến nay, Đoàn khảo sát đã đến làm việc với các bộ ngành, 10 tỉnh miền Trung và Nam bộ, từ ngày 02 – 09/7/2020; 04 tỉnh Tây bắc, từ ngày 20 – 23/7/2020, đã làm việc với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường… Chúng ta đang nghiên cứu xây dựng định hướng chiến lược phát triển đất nước, phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 chuẩn bị cho Đại hội XIII của Đảng, nên chủ đề giám sát là vấn đề lớn cần được nghiên cứu, trao đổi kỹ lưỡng để có định hướng dài hạn trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Đề nghị ban hành Nghị quyết về an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ

Trước những thách thức về an ninh nguồn nước, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết: Bộ đã tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực thủy lợi (ban hành Luật Thủy lợi và các Nghị định, thông tư liên quan); Chính phủ đã ban hành Chiến lược Thủy lợi và hiện nay, Bộ đang xây dựng Quy hoạch thủy lợi và phòng chống thiên tai quốc gia, tập trung nguồn lực giải quyết những vấn đề về an ninh nguồn nước của từng vùng. Trong thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tập trung vào các nội dung chủ yếu. An ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển đất nước, góp phần ổn định chính trị, an ninh quốc gia. Đảm bảo an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước là yêu cầu tất yếu khách quan, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân.

An ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước phải được giải quyết đồng bộ với cơ cấu lại nền kinh tế, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu bảo vệ môi trường, bảo đảm sức khoẻ, đời sống, sản xuất của người dân. Tận dụng tối đa nguồn nước nội sinh trên lãnh thổ Việt Nam, không bị động, giảm phụ thuộc vào nguồn nước từ bên ngoài; cân đối nguồn nước tại chỗ, kết nối, liên kết nguồn nước giữa các mùa, vùng, lưu vực sông tiến tới hình thành mạng lưới liên kết nguồn nước quốc gia.

Giải quyết anh ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước phải được thực hiện theo cách tiếp cận quản lý tổng hợp, đa mục tiêu, liên ngành, đảm bảo số lượng và chất lượng nước; kết hợp hài hoà giải pháp công trình và phi công trình, trong đó kết cấu hạ tầng về nước giữ vai trò quan trọng đặc biệt; nâng cao mức bảo đảm an toàn công trình, hiệu quả quản lý, khai thác cơ sở hạ tầng ngành nước; ứng dụng công nghệ tiên tiến, thông minh, hiện đại hoá hệ thống ngành nước. Đảm bảo đủ nguồn lực giải quyết các vấn đề an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước, trong đó nguồn lực nhà nước đóng vai trò chủ đạo; tăng cường sự tham gia của toàn xã hội, người dân.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường. 

Về giải pháp chủ yếu là nâng cao nhận thức về nguồn nước, tổ chức quản lý và khai thác nguồn nước. Theo đó, nâng cao nhận thức và hành động cho từng cá nhân, tổ chức từ Trung ương đến địa phương về nguồn nước và đảm bảo an ninh nguồn nước. Có chính sách phù hợp để thu hút cộng đồng, mọi thành phần tham gia vào việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước. Từng bước, Nước phải được xem là một dạng hàng hóa và sử dụng theo hướng đa mục tiêu, quản lý theo lưu vực và nhóm lưu vực (có liên quan chia sẻ nguồn nước). Do đó, phải đổi mới, sắp xếp lại các tổ chức quản lý, khai thác công trình một cách hệ thống hướng tới tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Xây dựng đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật: Xây dựng hệ thống văn bản về chính sách, pháp luật, và các quy định về quản lý, khai thác và sử dụng nguồn nước. Đặc biệt, ưu tiên xây dựng bộ công cụ, chế tài mang tính kinh tế để điều chỉnh hành vi đối với chuỗi sử dụng nước nhằm nâng cao hiệu lực công tác quản lý tổng hợp nguồn nước và phòng chống các tác hại của nước do nhân tai gây ra. Tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế: Một mặt, xây dựng mối quan hệ hiệu quả với các nước trong lưu vực Mê Công (đặc biệt cần xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin về quản lý, khai thác, sử dụng nguồn nước liên quốc gia); mặt khác, có giải pháp tăng cường sự quan tâm của cộng đồng Quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giảm thiểu các tác động bất lợi từ phía thượng lưu.

Nhóm giải pháp kỹ thuật (công trình)

Một là: Đảm bảo an toàn, phát huy đầy đủ công năng và nâng cao hiệu quả của toàn bộ hệ thống hạ tầng về nước, bao gồm: Nâng cao mức độ đảm bảo an toàn, khả năng tích trữ của hồ chứa các loại; Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng, tránh thất thoát, lãng phí của hệ thống phân phối nước.

Hai là: Đánh giá lại toàn diện các lưu vực sông để có giải pháp quản lý tổng hợp tài nguyên nước một cách hiệu quả, phù hợp với thực trạng hiện nay và xu thế biến động nguồn nước trong tương lai. Xây dựng các “kho” chứa, trữ nước lớn cho các vùng khan hiếm nước; các hồ nhân tạo vừa và nhỏ, các giải pháp trữ nước mưa phân tán cho vùng sâu, vùng xa và hải đảo; các công trình điều tiết, tích trữ nước về mùa mưa và chuyển nước vào mùa khô cho các vùng khó khăn khi tiếp cận với nguồn nước (chuyển nước cho vùng Bán đảo Cà Mau, Nam Trung Bộ).

Ba là: Bảo vệ, phục hồi và nâng cao chất lượng cho thảm phủ thực vật, chú trọng việc mở rộng rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn ven biển, đặc biệt là rừng đầu nguồn vùng Tây Bắc, Tây Nguyên. Đây cũng là giải pháp góp phần giảm thiểu phát thải khí nhà kính và tác động của BĐKH toàn cầu.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường cũng nhấn mạnh: Trong nhiều năm qua, chúng ta đã đầu tư xây dựng nhiều công trình thủy lợi quan trọng và đạt được thành quả to lớn, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Tuy vậy, đến nay vẫn còn chưa hoàn chỉnh và bị động (ngập lụt về mùa mưa, hạn hán, thiếu nước về mùa khô). Trong bối cảnh hiện nay và tương lai sắp tới, dưới tác động của biến đổi khí h ậu ngày một cực đoan khó lường; nhu cầu về nước cho phát triển kinh tế, xã hội ngày càng cao; ảnh hưởng quá lớn về nguồn nước từ nước ngoài đã làm cho nhiều vùng quan trọng như Đồng bằng sông Cửu Long đang biến động theo chiều hướng xấu đi và bất lợi rất nhiều so với trước đây.

Để phát triển ổn định và bền vững, chúng ta cần phải thay đổi tư duy một cách mạnh mẽ, có một cách nhìn nhận mới, đột phá tổng thể, toàn diện đối với vấn đề an ninh nguồn nước Việt Nam. Nhận diện đúng, đầy đủ các thách thức và đề ra các giải pháp căn cơ, phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển Đất nước trong giai đoạn mới. Trên cơ sở kết quả giám sát chuyên đề và thực tiễn đặt ra, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có kiến nghị, đề xuất cụ thể trong tài liệu gửi đến các Đại biểu với một số nội dung lớn như: Đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghiên cứu trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về “An ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước” làm cơ sở để Chính phủ và các địa phương triển khai thực hiện. Các cấp ủy Đảng đưa nội dung an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chức nước vào chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII. Đề nghị Chính phủ xây dựng Đề án về an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, đồng thời ưu tiên nguồn lực trong kế hoạch đầu tư công trung hạn để thực hiện Nghị quyết của Quốc hội. Các địa phương chủ động xây dựng phương án đảm bảo an ninh nguồn nước và an toàn đập hồ chức nước trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội. Thực hiện đầy đủ các yêu cầu về quản lý vận hành công trình thủy lợi, về chất lượng nước theo quy định của pháp luật hiện hành.

Xử lý sạt lở đối với bờ sông, quy hoạch lại hành lang bảo vệ hành lang bảo vệ các con sông

Cũng tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường đã giải trình các ý kiến của đại biểu Quốc hội về hệ sinh thái ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Theo đó, đây là khu vực rất mầu mỡ nhưng những năm gần đây do tác động của biến đổi khí hậu như: nước biển dâng, thay đổi triều cường, thay đổi hướng gió và do tác động của tổ chức quy mô niền kinh tế, khai thác tài nguyên như cát, sỏi không đúng quy hoạch, trật tự khiến cho hệ sinh thái ở đây bị ảnh hưởng.

Trước tình hình trên, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết: Thủ tướng Chính phủ đã có Nghị quyết 120 để tính toán lại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có thể thích ứng được với sự biến đổi khí hậu và yếu tố thượng nguồn trên cơ sở tổ chức lại sản xuất, tổ chức lại đời sống dân cư. Theo đó, phải xây dựng được đề án phát triển, tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng mới. Bên cạnh đó là xây dựng đề án phát triển hệ thống thủy lợi thích ứng với cơ cấu sản xuất mới. Ngoài ra là rà soát, xây dựng đề án để thích ứng và xử lý vấn đề sạt lở đối với bờ sông, bờ biển của Đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng xây dựng đề án tổng thể về phát triển rừng cho 3 đối tượng: Thủy sản, trái cây, lúa gạo sao cho trong 10 năm nữa có được bộ giống theo chiều hướng hiện đại.


Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà giải trình ý kiến của các đại biểu Quốc hội.

Trả lời câu hỏi của đại biểu về ô nhiễm môi trường tại các khu vực lưu vực sông. Đặc biệt là sông Cầu, sông Nhuệ, sông Đáy được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà nhấn mạnh: Mức độ ô nhiễm chung trên các lưu vực sông ở phía thượng nguồn cơ bản đã được kiểm soát. Ô nhiễm chủ yếu tập trung ở khu vực hạ nguồn, tại các làng nghề và nước thải sinh hoạt, các khu công nghiệp chưa được xử lý. Thời gian qua, chúng ta đã thành lập được Ủy ban lưu vực sông, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã có đề án về việc bảo vệ các con sông. Theo đó, Bộ đã đánh giá được lượng nguồn nước thải ra các dòng sông. Chính phủ đã giao cho các địa phương khi xác định được nguồn nước thải để xử lý. Tuy nhiên, việc xử lý còn chậm do nguồn vốn đầu tư cho hạ tầng. Dự án đầu tư xử lý nước thải ở các con sông Cầu, sông Nhuệ, sông Đáy đến năm 2023 mới hoàn thành. Ngoài ra, phải có sự điều chỉnh nguồn nước vào mùa khô để giảm nồng độ ô nhiễm. Vì hiện nay mực nước tại sông Hồng còn thấp, nếu không đầu tư hệ thống bơm đủ mạnh để bổ sung nước thì khó thực hiện được việc giảm tải ô nhiễm tại các dòng sông.

Để giải quyết ô nhiễm tại các dòng sông, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã đầu tư hệ thống quan trắc để giúp cho việc điều tiết nguồn nước. Còn về lầu dài, cần có sự điều tiết nguồn nước ở các lưu vực sông, phát triển nền kinh tế xã hội, sắp xếp lại khu dân cư, tính toán di dời các nhà máy, cụm công nghiệp không đáp ứng tiêu chuẩn môi trường... để kiểm soát được nguồn nước thải. Mặc khác là cần quy hoạch lại hành lang bảo vệ hành lang bảo vệ các con sông. Ngoài ra, các khu vực đã bị ô nhiễm phải có chế tài cấm, xử lý việc xả nước thải ra các con sông.

Phát biểu chỉ đạo định hướng quản lý an ninh nguồn nước và an toàn hồ, đập, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển hoan nghênh và đánh giá cao cuộc khảo sát và phiên giải trình của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội về chuyên đề an ninh nguồn nước và quản lý an toàn hồ đập.

Sau khi nghe báo cáo sơ bộ kết quả khảo sát, nghiên cứu tại 14 tỉnh đại diện cho các vùng, miền của cả nước; giải trình của 2 Bộ trưởng: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường; ý kiến trao đổi của các vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, đã làm nổi bật lên những vấn đề hết sức quan trọng liên quan đến an ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, đời sống và quản lý an toàn hồ đập.

Theo Phó Chủ tịch Quốc hội, chúng ta đều đi đến thống nhất, an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập là vấn đề rất quan trọng, cấp bách, không chỉ ở Việt Nam mà còn mang tính quốc tế và khu vực. Qua phân tích cho thấy nổi lên các vấn đề sau: Nguy cơ mất an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập của Việt Nam là hiện hữu trong cả hiện tại và tương lai. Bởi các lý do sau: Việt Nam chúng ta có 3.450 con sông, suối lớn nhỏ, với chiều dài từ 10km trở lên, tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm hiện nay khoảng 830 tỷ m3 nhưng 63% nguồn nước mặt tạo ra bởi các lưu vực sông nằm ngoài lãnh thổ. Trong đó có 2 con sông lớn là sông Cửu Long thì 90% lưu vực sông nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam, sông Hồng là trên 50%. Do đó có thể nói nguồn nước của Việt Nam chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào lưu vực, các con sông bắt nguồn từ nước ngoài. Chúng ta gặp khó khăn trong việc chủ động quản lý, khai thác nguồn nước như tổng lượng dòng chảy, chế độ dòng chảy, nguồn phù sa, nguồn lợi thủy sản tự nhiên… chưa kể đến việc ứng xử của một số quốc gia ở thượng nguồn làm ảnh hưởng đến nguồn nước chảy vào Việt Nam. Khi cần thì thiếu nước, khi không cần thì lại thừa nước. Thực tế tình trạng xâm ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long có một phần là do nguyên nhân thiếu nước đầu nguồn.

Biến đổi khí hậu với thời tiết cực đoan do hạn hán kéo dài ở nhiều tỉnh nhất là ở Ninh Thuận, Bình Thuận; nước biển dâng, thiếu nước đầu nguồn làm gia tăng tình trạng xâm ngập mặn ở nhiều tỉnh, nhất là Tây Nam Bộ đã gây thiệt hại lớn đến sản xuất, nước ngọt sinh hoạt thiếu nghiêm trọng, ví dụ như tỉnh Bến Tre: năm 2019 còn 2 xã không bị xâm ngập mặn, thì đến năm 2020 có 100% số xã bị xâm ngập mặn, độ mặn đạt trên 10‰ trong nhiều tháng liền, cả tỉnh thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt trầm trọng, người dân phải mua nước ngọt từ 60.000 đến 200.000 đồng/m3 nước ngọt, cả tỉnh bị thiệt hại hàng chục ngàn hecta lúa, cây ăn quả; tổng thiệt hại ước tính khoảng 1.600 tỷ đồng. Nông dân điêu đứng, nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng sản xuất hoặc chỉ sản xuất cầm chừng.


Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển phát biểu chỉ đạo định hướng quản lý an ninh nguồn nước và an toàn hồ, đập.

Một kịch bản xấu có thể xảy ra đến năm 2050 nước biển dâng cho toàn dải ven biển Việt Nam từ 21 - 25 cm và đến năm 2100 từ 44 - 73 cm. Đó là chưa kể nước dâng do bão, thủy triều ven bờ, do sụt lún đất vì khai thác nước ngầm quá mức, có thể làm cho 10% đồng bằng sông Hồng, 15% đồng bằng sông Cửu Long, 14% TP Hồ Chí Minh, 20-30% của diện tích tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hậu Giang, Cà Mau cuối thế kỷ này bị ngập nước, ảnh hưởng đến khoảng 20 triệu người dân và hàng trăm ngàn doanh nghiệp. Thực tế khảo sát tại tỉnh Cà Mau cho thấy, đây là vùng đất thấp, đa phần chỉ cao hơn mặt biển 0,5m, nhưng liên tục bị lún với tốc độ từ 1-2cm/năm, cùng với nước biển dâng 1cm/năm thì chỉ sau 25 năm đa phần diện tích Cà Mau xấp xỉ mặt nước biển. Hiện tại thì nhiều đoạn của Quốc lộ 1 hàng năm đều bị ngập do triều cường. Vấn đề kiểm soát mặn, giữ ngọt, ngăn nước biển dâng làm sạt lở bờ biển của suốt giải đất từ Tiền Giang đến Cà Mau, Kiên Giang đang trở lên cấp bách hơn bao giờ hết. Một câu hỏi được đặt ra: chúng ta "thuận thiên", sống chung với ngập lụt, nước biển dâng hay chúng ta ngăn chặn nó, giữ đất bằng hệ thống đê, kè như Hà Lan là một vấn đề cần được trả lời.

Đất nước ta có nhiều vùng, tiểu vùng khí hậu khác nhau, có các mùa khác nhau: phía Bắc có 4 mùa, phía Nam 2 mùa, mùa mưa gió phân bố khác nhau, không đồng đều, nơi thì lũ lụt, nhưng nơi thì hạn hán, thiếu nước. Sự phân phối tự nhiên về nguồn nước là không đồng đều cả về thời gian và không gian, mất cân bằng giữa nhu cầu dùng nước và khả năng dự trữ nước. Nhiều người lầm tưởng Việt Nam là thừa nước ngọt nhưng thực tế theo tiêu chí của quốc tế thì Việt Nam là quốc gia thiếu nước (theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, lượng nước bình quân đầu người của nước ta chỉ đạt 3.840 m3/người/năm, thấp hơn chỉ tiêu 4.000 m3/người/năm của Hội Tài nguyên nước quốc tế, nguy cơ này càng trở lên trầm trọng do biến đổi khí hậu, do tăng dân số và sự phát triển nóng của tăng trưởng kinh tế. Chúng ta đã có nhiều cố gắng để khắc phục. Hiện nay Việt Nam có khoảng gần 7.000 hồ chứa nước thủy lợi với dung tích khoảng 14,5 tỷ m3 để tưới tiêu cho 4,2 triệu hecta đất nông nghiệp và khoảng 6 tỷ m3 nước cho sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, dịch vụ, nhưng con số này mới chỉ đáp ứng 37% nhu cầu tưới tiêu, còn 63% vẫn phải trông chờ vào nước tự nhiên và hệ thống bơm từ các con sông, ngòi. Bên cạnh đó là sự liên thông các hồ đập, điều hòa nước giữa các hồ đập, đưa nước từ nơi thừa đến nơi thiếu nước, khả năng dự trữ nước ở các con sông, ao hồ, kênh rạch đang ở mức độ thấp, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Một vấn đề rất đáng quan tâm, mặc dù thiếu nước nhưng hiệu quả sử dụng nước của chúng ta đem lại cho tăng trưởng GDP là rất thấp, mỗi m3 nước mới chỉ tạo ra 2,37 đôla GDP, bằng 1/10 so với mức trung bình toàn cầu là 19,42 đôla GDP. Do sự phát triển của nền kinh tế với tốc độ bình quân 7% trong gần 35 năm đổi mới và tốc độ đô thị hóa rất cao từ 38-40%, dân số tăng nhanh chóng đạt 96 triệu người đã làm gia tăng tình trạng ô nhiễm nguồn nước. Việc đắp đập làm thủy lợi, thủy điện, lấp ao hồ, sông suối để phát triển đô thị, khu công nghiệp, du lịch, dịch vụ… đã dẫn tới hầu hết các con sông chính ở Việt Nam đều bị ô nhiễm với các mức độ khác nhau, nhất là vùng trung và hạ lưu nơi tập trung đông dân cư, các khu công nghiệp, các làng nghề, tình trạng nhiều con sông, suối bị chết, nguồn nước dự trữ ở ao hồ, kênh rạch bị ô nhiễm nặng nề, nguồn nước ngầm bị sử dụng bừa bãi, thiếu quản lý… đã trở thành thách thức lớn với vấn đề an ninh nguồn nước cả hiện tại và tương lai. Con số sau đây chứng minh cho điều đó: chỉ 12,5% nước thải sinh hoạt của các đô thị loại IV được xử lý, thu gom đạt tiêu chuẩn, số còn lại đều xả ra nguồn nước. Khu vực nội thành Hà Nội mỗi ngày xả ra 500.000 m3, trong đó có 100.000 m3 nước thải ra từ các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, bệnh viện… nguồn nước này đều được chảy qua sông Nhuệ. Qua khảo sát từ 3 con sông: sông Nhuệ, sông Đáy, sông Tô Lịch đều ô nhiễm nặng.

Một vấn đề lớn khác cũng được đặt ra đó là an toàn hồ đập. Sự phát triển của hệ thống thủy lợi, thủy điện của chúng ta có lịch sử rất lâu đời, từ thời phong kiến, Pháp thuộc và sau năm 1945 đến nay. Với 86.202 công trình thủy lợi trong đó có 6.998 đập, hồ chứa thủy lợi với dung tích khoảng 14 tỷ m3 nước. Bên cạnh đó là 500 hồ chứa thủy điện đã đi vào vận hành và khoảng 300 dự án thủy điện đang triển khai xây dựng và chuẩn bị đi vào vận hành. Tổng dung tích các hồ chứa thủy điện là 60 tỷ m3 nước, trong đó có các hồ lớn như thủy điện Hòa Bình 9 tỷ m3 nước, Thác Bà m3 nước. Như vậy nếu tính cả hồ, đập thủy điện và thủy lợi đã có và sẽ hình thành trong thời gian tới thì cả nước có khoảng 7.800 hồ, đập lớn nhỏ với dung tích 74 tỷ m3 nước. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu cực đoan như hiện nay, lũ lụt xảy ra thường xuyên với cường độ cao, tình trạng không ổn định của địa chất, hiện tượng đứt gãy dẫn tới động đất ở một số vùng cùng với 1.730 hồ, đập thủy lợi bị xuống cấp, trong đó có 1.200 cần sửa chữa và 200 hồ hư hỏng nặng cần sửa chữa khẩn cấp thì vấn đề an toàn hồ đập trở nên vô cùng cấp bách, cần được đặc biệt quan tâm chú trọng, ảnh hưởng lớn đến an ninh nguồn nước, an toàn cho sản xuất và đời sống.

Vấn đề bảo vệ và phát triển rừng ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh nguồn nước. Hiện nay toàn quốc chúng ta có khoảng 14,55 triệu hecta rừng, tỷ lệ che phủ đạt 41,85% (trong đó rừng đặc dụng 2,17 triệu hecta, rừng phòng hộ 4,16 triệu hecta, rừng sản xuất là 7,79 triệu hecta. Như vậy rừng đầu nguồn có khả năng sinh thủy là 6,78 triệu hecta, trong đó rừng giàu khoảng 15%, rừng trung bình khoảng 55%, còn lại là 30% rừng nghèo và nghèo kiệt. Qua khảo sát cho thấy, rừng sản xuất trồng những cây mang mục đích kinh tế, có hiệu quả cao thì khả năng sinh thủy rất kém, tạo ra sự thoái hóa đất, làm giảm mạnh thực bì và độ phì của đất. Đối với mức đầu tư dịch vụ bảo vệ rừng bình quân mới đạt 300.000 đồng/ha/năm, còn rất thấp so với mức thu nhập, chi phí đề người dân, các tổ chức có thể sống và yên tâm bảo vệ rừng (qua khảo sát cũng có nơi đạt 900 nghìn đồng/ha, song chỉ là cá biệt). Đây cũng là nguyên nhân rừng đầu nguồn bị thu hẹp, bị cháy, bị tàn phá, lấn chiếm, làm khả năng sinh thủy tại chỗ bị giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh nguồn nước.

Công tác quy hoạch và quản lý của nhà nước trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến, đổi mới toàn diện và tổ chức thực hiện khá tích cực. Song vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần được khắc phục và xử lý. Cụ thể: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật Tài nguyên nước, Luật Thủy lợi, Luật Điện lực, Luật Đê điều, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Lâm nghiệp… đến các nghị định, thông tư liên quan đến công tác an ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, đời sống và an toàn hồ đập trong thời gian qua được xây dựng khá đầy đủ, cùng với các Hiệp định, Công ước quốc tế đã tạo ra cơ sở pháp lý cho công tác quản lý đảm bảo an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập. Song cũng cần nhận thấy rằng vẫn còn khoảng trống, bất cập, chưa bao quát hết các vấn đề cần phải quản lý để đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập. Chế tài xử lý các hành vi vi phạm chưa nghiêm. Công tác phân công, phân nhiệm là rõ vai trò, trách nhiệm giữa các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa phương còn có mặt hạn chế, còn gây chồng chéo và lúng túng trong quá trình điều hành, vận hành và quản lý trong thực tế.

Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều bất cập, thiếu tầm nhìn; tính liên kết, liên thông mang tính vùng, khu vực còn nhiều hạn chế. Tình trạng "bấc đến đâu, dầu đến đấy", "nước đến chân mới nhảy" vẫn diễn ra ở mức độ khác nhau. Công tác tổ chức thực hiện đảm bảo đúng quy hoạch chưa thật tốt, vẫn còn tình trạng phá vỡ quy hoạch, không bảo vệ được quy hoạch, bị lấn chiếm làm các mục đích khác ảnh hưởng đến bảo vệ lưu vực sông, nguồn nước, dòng chảy, công trình thủy lợi, thủy điện, đê điều vẫn diễn ra. Công tác đầu tư, bố trí nguồn lực còn mất cân đối; bố trí vốn không đủ, thiếu đồng bộ; quá trình chuẩn bị đầu tư, thiết kế, thẩm định của một số dự án chưa tốt; sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương chưa chặt chẽ dẫn tới nhiều công trình, dự án dở dang, chậm đưa vào khai thác ảnh hưởng đến việc cung cấp nước phục vụ cho sản xuất và đời sống. Công tác vận hành, điều phối, quản lý hệ thống hồ, đập, kênh dẫn cung cấp và tiêu thoát nước cũng còn nhiều nơi chưa tốt: cung cấp nước cho sản xuất, đời sống không kịp thời, xả lũ không báo trước ảnh hưởng đến đời sống nhân dân ở hạ lưu; đặt ra các yêu cầu khác nhau về cung cấp nguồn nước gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp quản lý hồ, đập. Vấn đề tài chính để đảm bảo nguồn lực thực hiện an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, việc đầu tư của nhà nước cho lĩnh vực thủy lợi, thủy điện, bảo vệ và phát triển rừng, đảm bảo tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp, cung cấp nước cho công nghiệp, nước sạch cho sinh hoạt là vô cùng lớn. Người dân được hưởng các chính sách của nhà nước trong nhiều năm qua là rất lớn, như: không thu tiền dịch vụ thủy lợi, giá nước cho sản xuất và sinh hoạt thấp hơn giá thành… nhờ các chính sách đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nhà nước mà hiện nay chúng ta có trên 900 hệ thống thủy lợi có quy mô tưới từ 200 hecta trở lên và 122 hệ thống thủy lợi vừa và lớn có quy mô phục vụ trên 2.000 hecta trở lên.

Với tổng số 86.202 công trình thủy lợi, tưới tiêu cho trên 4,2 triệu hecta đất canh tác (trên 11,54 triệu hecta đất sản xuất nông nghiệp trong đó trên 6,3 triệu hecta cần tưới) đáp ứng khoảng 54,1% đất canh tác nông nghiệp, nơi cao nhất là đồng bằng sông Hồng khoảng 98%, nơi thấp nhất là Tây Nguyên khoảng 28%. Đã cơ bản đủ nước sạch cho các đô thị và 88,5% số dân nông thôn sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh… Đó là một thành tựu lớn, song lại là một thách thức không nhỏ: nhu cầu nguồn lực trong hiện tại và tương lai lại cần vô cùng lớn để: ngăn mặn, giữ ngọt, ngăn nước biển dâng, chống hạn hán, xây dựng hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu cho 45,9% diện tích canh tác còn lại chưa được tưới tiêu; duy tu, bảo dưỡng, duy trì hoạt động cho hơn 86.000 công trình thủy lợi, hàng ngàn công trình cấp nước sạch sinh hoạt và cần tiền ngay để khắc phục, sửa chữa hơn 1.200 công trình hồ, đập bị xuống cấp và mất an toàn. Nguồn lực này lại chủ yếu là ngân sách nhà nước, còn nguồn thu từ người dân, doanh nghiệp là không đáng kể. Ngay cả việc cấp nước sạch ở một số vùng qua khảo sát cho thấy giá thành 1 m3 nước sạch khoảng 11.000 đồng nhưng người dân mới chỉ phải bỏ ra là 6.000 đồng, còn 5.000 đồng nhà nước phải bù bằng khoản đi vay với lãi suất khá cao. Đây là một vấn đề lớn đặt ra tạo ra gánh nặng cho ngân sách, trong điều kiện nợ công của chúng ta còn ở mức cao, các công trình đầu tư hoàn toàn phải đi vay. Việc cho không, bán rẻ cũng là nguyên nhân dẫn tới sử dụng nước ngọt lãng phí và nhiều sản phẩm nông nghiệp không phản ánh đúng chi phí bỏ ra. Đây là cơ chế phi thị trường và nặng về bao cấp, lâu dài sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển, không kêu gọi được các nhà đầu tư ở các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực thủy lợi, một lĩnh vực đang đòi hỏi huy động được nguồn lực của toàn xã hội, trong một quá trình dài, từ thế hệ này sang thế hệ khác mới có thể giải quyết được các vấn đề cấp bách, các vấn đề lâu dài bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, chống xâm ngập mặn, sụt lún và nước biển dâng từ nay cho đến cuối thế kỷ 21.

Phải chủ động được nguồn nước ngọt đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước

Tại Hội nghị, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển khẳng định: Trước những phân tích trên, chúng ta cần phải đặt ra mục tiêu, phương châm chỉ đạo và các giải pháp gì để có thể giải quyết được các vấn đề đặt ra đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, xử lý được các vấn đề lâu dài do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm ngập mặn và thiếu nước ngọt cho cả hiện tại và tương lai. Tại Hội nghị giải trình này, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đề nghị phải đặt ra mục tiêu đến năm 2045 (tức là 5 kế hoạch 5 năm) khi chúng ta trở thành một nước công nghiệp có trình độ phát triển trung bình thì: phải chủ động được nguồn nước ngọt đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước; đảm bảo chủ động tưới tiêu khoa học, hiện đại cho 100% diện tích canh tác; đủ nước cho công nghiệp và dịch vụ; đáp ứng nước sinh hoạt đạt tiêu chuẩn cho 115 - 120 triệu dân trong tươi lai, cả ở thành thị và nông thôn, nhất là ở nông thôn cũng phải được sử dụng nước tốt như thành thị. Hệ thống thủy lợi phải liên thông theo khu vực, vùng, tỉnh, huyện và điều hòa được từ nơi thừa nước đến nơi thiếu thiếu nước một cách khoa học; chủ động tiêu úng, chống lũ lụt hiệu quả; phải đảm bảo ngăn được xâm ngập mặn, sạt lở bờ biển và nước biển dâng lấn vào đất liền, giữ cho được hình thể của đất nước, không để biển lấn, mà phải lấn biển.

Với mục tiêu lớn đặt ra như vậy, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho rằng cần phải có quan điểm và phương châm chỉ đạo. Theo đó, phải đổi mới tư duy trong hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát đối với an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, chống biến đổi khí hậu, coi đây là mục tiêu, nhiệm vụ tổng hợp, cấp bách, lâu dài, liên tục, thống nhất và xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương, từ chính quyền đến doanh nghiệp và người dân trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tại sao nói an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập là nhiệm vụ tổng hợp vì nó phải kết hợp nhiều nhiệm vụ từ bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, giao thông, thủy lợi, thủy điện, kinh tế, tài chính; vì sao phải lâu dài vì không thể có nguồn lực để làm ngay mà cần phải phân kỳ đầu tư. Quan điểm, nhận thức này cần được thể hiện trong Nghị quyết của cấp ủy Đảng các cấp để tạo điểm tựa về chính trị, đồng thời phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo cơ sở pháp lý cho vấn đề an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập.

Hai là, phải coi nước là hàng hóa đặc biệt, phải thực hiện nguyên tắc thị trường, từng bước tính đúng, tính đủ giá dịch vụ nước sản xuất và sinh hoạt. Thực hiện phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, đối tác công - tư; phân kỳ đầu tư, có trật tự ưu tiên, cấp bách làm trước, lâu dài làm từng bước, khó làm trước, phải có đột phá để xử lý vấn đề khó.

Ba là, để chủ động nguồn nước không bị phụ thuộc bên ngoài, cần thực hiện phương châm 4 tại chỗ: sinh thủy tại chỗ; giữ nước tại chỗ; bảo vệ tại chỗ; điều hành, vận hành, phân phối tại chỗ. Sinh thủy tại chỗ là nhờ chúng ta khoanh nuôi, bảo vệ, trồng rừng bằng tập đoàn cây bản địa; giữ cho được và mở rộng, nâng cao chất lượng rừng đầu nguồn, là nơi sinh thủy; hạn chế trồng rừng kinh tế đối với các loại cây kém sinh thủy, hủy hoại và bào mòn đất đai. Đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ lọc nước biển, nước lợ làm nước ngọt tại chỗ. Giữ nước tại chỗ là phải bảo vệ, giữ được các ao, hồ nhân tạo và tự nhiên; các con sông, kênh, rạch, mương có thể trữ được nước ngọt tại chỗ. Phải tăng cường công tác bảo vệ nguồn nước, ao, hồ, sông, suối chống ô nhiễm tại chỗ; từng địa phương, từng doanh nghiệp, từng người dân phải tự mình có ý thức bảo vệ và có chế tài xử lý đối với các hành động gây ô nhiễm môi trường. Điều hành, vận hành phân phối tại chỗ đảm bảo sử dụng nước an toàn, hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, tránh chồng chéo, tránh ỉ lại, phải chủ động xử lý khi có tình huống theo quy chế vận hành.

Bốn là, phải áp dụng, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, công nghệ đáp ứng yêu cầu thực tế trên nền tảng của kỹ thuật số, tự động hóa, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ bảo vệ môi trường, công nghệ thi công theo phương thức mới… để tổ chức thiết kế, thi công, quản lý và vận hành hệ thống công trình thủy lợi, quản lý nguồn nước, chất lượng nước.

Năm là, tăng cường quan hệ quốc tế với các tổ chức quốc tế, các nước trong khu vực, ký kết và tổ chức thực hiện các hiệp định để bảo vệ môi trường, bảo vệ các lưu vực sông, phối hợp, điều hòa nguồn nước hợp lý, hạn chế ở mức cao nhất sự tác động của con người vào tự nhiên, làm phá hoại môi trường tự nhiên, nhất là đối với lưu vực sông Mê kông, sông Hồng… Cần phải khẳng định rằng, chỉ có tăng cường hợp tác quốc tế chúng ta mới có thể bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập.

Để thực hiện được các mục tiêu, phương châm chỉ đạo trên, chúng ta cần có các giải pháp trên cơ sở các Đường lối, Nghị quyết của Đảng, chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, toàn diện đảm bảo cơ sở pháp lý đầy đủ cho quản lý tài nguyên nước, thủy lợi, thủy điện, đê điều, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai. Cần tiếp tục hoàn thiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn về chất lượng nước, nhất là nước phục vụ cho sinh hoạt, cho sản xuất nông nghiệp (cần lưu ý rằng rất nhiều nơi đã sử dụng nước không đảm bảo chất lượng, ô nhiễm nặng để dùng cho tưới tiêu đối với cây trồng); có quy định về hành lang thoát, xả lũ; vấn đề xây dựng các công trình, nhà cửa và cơ sở sản xuất ven sông, ven biển, nhất là những vùng dễ xảy ra lũ lụt và sạt lở đất. Bên cạnh đó phải tập trung rà soát, bổ sung xây dựng và phê duyệt quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, quy hoạch hệ thống thủy lợi quốc gia, hệ thống đê điều quốc gia, nhất là ở lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long và khu vực miền Trung.

Trên cơ sở đó xây dựng một chiến lược đảm bảo an ninh nguồn nước đến năm 2045 và tầm nhìn đến cuối thế kỷ 21. Bố trí nguồn lực, phân kỳ đầu tư, huy động sức mạnh của quốc gia và sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế để tổ chức thực hiện tốt các chiến lược này. Nâng cao trách nhiệm và tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong quản lý nhà nước về an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, tránh chồng chéo; rà soát lại việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương về quản lý nguồn nước và an toàn hồ đập (lưu ý một số địa phương giao cho cấp xã quản lý một số hồ, đập lớn là không phù hợp với khả năng quản lý của cấp xã). Hoàn chỉnh việc xây dựng hệ thống giám sát tài nguyên nước, giám sát hoạt động khai thác, quy chế vận hành các hồ đập thủy lợi, thủy điện đảm bảo phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt và tiêu thoát lũ. Nghiên cứu, đề xuất các phương án thực hiện liên thông giữa các hồ, các công trình thủy lợi ở từng địa phương, tiến tới khu vực, vùng miền và toàn quốc để có thể xây dựng mạng lưới thủy lợi quốc gia trong tương lai, để chủ động phân phối nước, đưa nước từ nơi thừa sang nơi thiếu, chủ động tiêu thoát nước, xả lũ, ngăn mặn, giữ ngọt. Nạo vét, khai thông, xây dựng các ao, hồ, đập, sông, suối, các kênh, rạch để có thể trữ nước ngọt, đồng thời có các cơ chế, chính sách, nguồn lực đầu tư nhằm chống ô nhiễm, bảo vệ nguồn nước. Nghiêm cấm việc san lấp ao hồ, sông suối trái quy hoạch, có chế tài xử lý, nghiêm cấm các hành vi gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy, làm hư hại, lấn chiếm khu vực bảo vệ hồ đập, đê điều, phá hoại môi trường tự nhiên. Đi đôi với tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức cho người dân, doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị đối với vấn đề đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập.

Mặt khác, cần thực hiện một kế hoạch đầu tư dài hạn của ngân sách nhà nước đối với công tác bảo vệ nguồn nước, hệ thống đê điều, hệ thống thủy lợi, hệ thống cung cấp nước sạch. Đồng thời thực hiện cơ chế thị trường đối với giá dịch vụ nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất theo nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm, từng bước tính đủ theo quy định của Luật Thủy lợi về giá nước phục vụ sản xuất và đời sống, có lộ trình hỗ trợ hợp lý cho nông dân, cho hộ nghèo, hộ yếu thế theo xu thế giảm dần sự bao cấp của nhà nước. Khuyến khích hạch toán kinh tế, sử dụng nước có hiệu quả. Vấn đề sử dụng nước có hiệu quả phải đặt ra một cách quyết liệt, chúng ta cần nhớ rằng, hiệu quả sử dụng nước của chúng ta chỉ bằng 1/10 so với thế giới. Trước tình hình hiện nay, sử dụng nước có hiệu quả sẽ giảm áp lực tình trạng thiếu nước hiện nay. Giải pháp sử dụng hiệu quả cần được tổ chức một cách tổng hợp bằng các biện pháp quản lý, biện pháp kinh tế, biện pháp kỹ thuật, khoa học công nghệ, biện pháp tổ chức lại sản xuất. Cần xây dựng một kịch bản ứng phó xâm ngập mặn, nước biển dâng với phương châm là chặn nước biển dâng, gắn với lấn biển không lùi, giữ cho được hình thể đất nước, các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền, đặc quyền kinh tế, quyền tài phán của Việt Nam (vừa qua nếu chúng ta không tích cực thì nhiều diện tích đất của tỉnh Cà Mau có thể bị biển lấn mất, không còn Mũi Cà Mau). Thực hiện phương châm sống chung với sự biến đổi của môi trường. Do đó, vấn đề quai đê, lấn biển, chống sạt lở bờ biền, ngăn nước biển dâng cần được tính toán và tiến hành ngay từ bây giờ; cần thực hiện liên tục hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Bên cạnh đó cần khẩn trương bố trí nguồn lực và kinh phí để sửa chữa ngay 200 hồ đập ở 33 tỉnh đang bị hư hỏng nặng; có kế hoạch 2 năm tới sửa chữa 1.000 hồ cần sửa chữa, bước đầu bố trí đưa vào kế hoạch 5 năm 2021-2025 những mục tiêu cấp bách, bố trí nguồn lực từ kế hoạch đầu tư công trung hạn nhằm thực hiện ngay các mục tiêu, cơ chế để đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập với một số nhiệm vụ cấp bách, cần thiết. Nghiên cứu nâng mức tiền dịch vụ bảo vệ rừng lên gấp 2 lần so với giai đoạn 2015-2020, đảm bảo mức thấp nhất dịch vụ bảo vệ rừng ở mức 600.000 đồng/ha/năm đến giữa giai đoạn 2021-2025, cuối năm 2025 và giai đoạn sau phải đạt 1 triệu đồng/ha/năm, được phân bổ theo loại rừng: rừng phòng hộ, rừng nghèo kiệt, rừng nghèo, rừng trung bình và rừng giàu, nguồn lực lấy từ ngân sách và từ tăng tiền thu dịch vụ của các công ty thủy điện (với 6,7 triệu hecta x 1 triệu = khoảng 6.700 tỷ đồng, trong khả năng của ngân sách và các công ty thủy điện chi trả).

Ngoài ra, cần tiếp tục thực hiện tốt các hiệp định hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông năm 1995 giữa Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Hiệp định về quy chế sử dụng nước dọc biên giới giữa Việt Nam, Campuchia, Công ước về luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho các mục đích phi giao thông thủy năm 1997, Hợp tác Mê Kông - Lan Thương…

Trên tinh thần đó, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đề nghị Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cần kiến nghị với Ủy ban thường vụ Quốc hội giao Chính phủ sớm xây dựng đề án phát triển và đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2045 trình Quốc hội xem xét sớm nhất. Trên cơ sở đó có thể xây dựng một Chương trình mục tiêu quốc gia về đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập. Đồng thời, bố trí nguồn lực trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 để bước đầu thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn đầu của chiến lược dài hạn./.

Bích Lan - Bùi Hùng

Các bài viết khác