Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng đồng chủ trì hội nghị.
Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp với trực tuyến. Dự Hội nghị có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành Trung ương, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết, tiếp theo thành công của Hội nghị triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về vùng trung du và miền núi Bắc Bộ - Vùng cực Bắc của Tổ quốc, đây là hội nghị thứ 2 về phát triển vùng được Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức để phổ biến quán triệt những nội dung cơ bản của Nghị quyết số 13-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng- an ninh vùng đồng bằng Sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Bộ Chính trị ban hành ngày 2/4/2022.
Hội nghị nhằm quán triệt sâu rộng trong toàn hệ thống chính trị và cả nước, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long - vùng cực Nam của Tổ quốc, tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết quan trọng này. “Sự có mặt đông đủ các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành Trung ương và toàn bộ 13 tỉnh, thành phố trong Vùng đã thể hiện tinh thần nghiêm túc, ý chí và quyết tâm cao của chúng ta trong việc đổi mới xây dựng, ban hành, tổ chức triển khai thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển Vùng - một vấn đề có ý nghĩa chiến lược, không chỉ đối với các vùng mà còn đối với cả nước, theo tinh thần: "Tiền hô hậu ủng", "Nhất hô bá ứng", "Trên dưới đồng lòng", "Dọc ngang thông suốt”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý, Hội nghị cần tập trung làm rõ 3 câu hỏi: (1) Vì sao Bộ Chính trị phải ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; (2) Những ý tưởng mới, tinh thần mới, nội dung mới của Nghị quyết số 13-NQ/TW; (3) Cần làm gì và làm như thế nào để tổ chức thực hiện có kết quả những mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết số 13-NQ/TW đề ra để biến Nghị quyết thành hiện thực sinh động.
Phát huy tiềm năng, lợi thế của Đồng bằng sông Cửu Long
Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về vùng Đồng bằng Sông Cửu Long là để quán triệt sâu sắc hơn và tổ chức triển khai thực hiện tốt hơn chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển vùng. “Phát triển vùng là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, không chỉ đối với từng vùng mà còn đối với cả nước. Do vậy, trong suốt 35 năm đổi mới và qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn chú trọng phát triển vùng nhằm khai thác, phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế của mỗi vùng và các địa phương trong vùng cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.”, Tổng Bí thư lý giải.
Tổng Bí thư cho biết, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định chủ trương phải bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, miền thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo được điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn, giảm dần tình trạng chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư, các chính sách kinh tế -xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc.
Gần đây nhất, văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra chủ trương phải nghiên cứu phân vùng cho phù hợp, nâng cao chất lượng quy hoạch vùng theo hướng tích hợp, đa ngành, khai thác tốt hơn và phát huy tốt nhất lợi thế của mỗi vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, kinh tế - chính trị, nguồn nhân lực và tăng cường tinh thần kết nối nội vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu tạo không gian phát triển mới. Nghiên cứu ban hành quy chế phối hợp điều hành các vùng, liên vùng, xây dựng cơ chế chính sách đặc thù thúc đẩy phát triển vùng, liên kết vùng và tiếp tục hoàn thiện thể chế về quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng và bố trí nguồn lực nhằm phát huy lợi thế vùng, tập trung xây dựng quy hoạch vùng mang tính đột phá theo hướng tích cực, tích hợp đa ngành hình thành chuỗi giá trị và triển khai thực hiện có hiệu quả, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng.
Cụ thể hóa chủ trương, định hướng phát triển vùng của Đảng trong 20 năm qua, Bộ Chính trị đã ban hành 6 Nghị quyết chuyên đề, và 6 kết luận về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh của 6 vùng kinh tế -xã hội trong đó có Nghị quyết số 21 của Bộ Chính trị khóa IX, Kết luận số 28 của Bộ Chính trị khóa XI về phương hướng, nhiệm vụ giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010 và 2020.
Vì vậy, việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 21 của Bộ Chính trị khóa IX, Kết luận số 28 của Bộ Chính trị khóa XI, xây dựng ban hành và tổ chức Nghị quyết mới về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đến năm 2030 tầm nhìn đến 2045 là hết sức cần thiết, đúng đắn, góp phần thiết thực vào việc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: Phấn đấu đến năm 2030 nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao và phù hợp với bối cảnh, tình hình thế giới, khu vực và trong nước.
Nhận định vùng Đồng bằng Sông Cửu Long có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít có khăn đan xen, Tổng Bí thư nhấn mạnh, Nghị quyết mới lần này là nhằm tạo ra bước đột phá mới trong việc phát huy vai trò, vị trí quan trọng, đặc biệt là khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng lợi thế phát triển to lớn của Đồng bằng Sông Cửu Long trong thời kỳ mới.
Bên cạnh đó, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới lần này là để tiếp tục phát huy những kết quả thành tựu to lớn đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và vượt qua khó khăn, thách thức mới đang đặt ra; góp phần để đồng bằng Sông Cửu Long đứng dậy làm chủ và vươn lên mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới cùng cả nước.
Trên cơ sở phân tích những đặc điểm, lợi thế của vùng, Tổng Bí thư khẳng định, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long thực sự là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Đây là vùng cực Nam-Thành đồng của Tổ quốc, là cửa ngõ phía Tây Nam của quốc gia, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng cần được phát huy tiềm năng, lợi thế to lớn, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu phát triển của vùng và cả nước trong thời kỳ mới.
Đồng thời Tổng Bí thư cho biết Nghị quyết số 13/NQ-TW có nhiều ý tưởng mới, tinh thần mới, nội dung mới. Cụ thể, nếu Nghị quyết số 21-NQ/TW chỉ nêu rất ngắn gọn (15 dòng) về phương hướng chung thì Nghị quyết lần này đã đề ra 6 quan điểm chỉ đạo quan trọng và mới mẻ.
Để tạo chuyển biến có tính đột phá trong việc phát huy tốt hơn nữa tiềm năng, lợi thế của vùng và khắc phục triệt để những hạn chế, yếu kém còn tồn tại trong thời gian qua, Nghị quyết lần này tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Về mục tiêu, có thể xem đây là nội dung hoàn toàn mới. Nếu như Nghị quyết số 21 không đề cập thì Nghị quyết lần này đã xác định rất rõ mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Cụ thể: mục tiêu đến năm 2030, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long là vùng sinh thái, văn minh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hoá sông nước; là trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của quốc gia, khu vực và thế giới trên cơ sở phát triển hệ thống các trung tâm đầu mối về nông nghiệp, các hành lang kinh tế và các đô thị động lực tập trung các dịch vụ và công nghiệp đa dạng với hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế biển; kinh tế du lịch; tăng cường kết nối nội vùng, liên vùng, trong nước và quốc tế; chú trọng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo dựng môi trường sống bền vững, chất lượng sống tốt cho người dân gắn với bảo tồn các tài nguyên, hệ sinh thái; duy trì và tôn tạo bản sắc văn hoá độc đáo, đa dạng của các dân tộc; bảo đảm quốc phòng và an ninh; tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường,...
Cụ thể hóa Nghị quyết bằng cơ chế, chính sách, kế hoạch, đề án, dự án và nguồn lực cụ thể, có tính khả thi cao
Để thực hiện có kết quả Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc biệt lưu ý với Hội nghị 5 vấn đề cần chú trọng triển khai thực hiện trong thời gian tới:
Một là, phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm của cả nước, toàn vùng, từng địa phương trong vùng, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.. Xác định rõ đây là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị chứ không chỉ là nhiệm vụ riêng của vùng và của các địa phương trong vùng; đồng thời phải nhận thức thật đúng và giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa phát triển vùng và phát triển chung của cả nước “cả nước vì vùng và vùng vì cả nước”, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức của tất cả các cấp các ngành về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vùng và liên kết vùng, Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Liên kết vùng phải trở thành tư duy chủ đạo, dẫn dắt sự phát triển toàn vùng và từng địa phương trong vùng, tập trung ưu tiên hoàn thiện thể chế, chính sách cho phát triển vùng và liên kết vùng về tổ chức bộ máy về nguồn lực và cơ chế triển khai, tham gia có hiệu quả vào các hoạt động hợp tác của các nước tiểu vùng sông Mê Kông, nhất là trong khai thác sử dụng nguồn nước Mê Kông.
Hai là, phải khơi dậy, phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống cách mạng , tinh thần yêu nước, tính chủ động, sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong vùng quyết vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng tự mãn, bằng lòng với những gì đã làm, trung bình chủ nghĩa. Trái lại, phải có ý chí và quyết tâm cao hơn nữa quyết không cam chịu đói nghèo, thua kém các tỉnh khác, vùng khác; đồng thời, phải tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, sự hợp tác giúp đỡ của các địa phương trong cả nước nhất là Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ để phát triển vùng nhanh và bền vững hơn, giàu có, trù phú hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng đạt mức cao hơn bình quân chung cả nước trên cơ sở đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng để phát huy tốt hơn nữa tiềm năng, lợi thế vốn có to lớn của vùng. “Đất đai phì, nhiêu thiên nhiên ủng hộ, cơ sở hạ tầng tương đối tốt nếu không phát triển lên được là trách nhiệm thuộc về chúng ta”, Tổng Bí thư lưu ý.
Ba là, trên cơ sở đổi mới tư duy và nhận thức cần đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện thể chế chính sách phát triển vùng. Để triển khai, Tổng Bí thư đề nghị Chính phủ và các cơ quan Trung ương cần tăng cường với các địa phương trong vùng khẩn trương xây dựng hoàn thiện ban hành và triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên tính đặc thù cho phát triển vùng. Xây dựng và tổ chức thực hiện thật tốt quy hoạch phát triển vùng giai đoạn 2021 - 2030 và tầm nhìn đến 2045 theo hướng xanh, bền vững và toàn diện, phù hợp với Quy hoạch tổng thể quốc gia bảo đảm tích hợp đa ngành, gắn kết giữa phát triển nông thôn, nông nghiệp với phát triển công nghiệp và dịch vụ, giữa phát triển đô thị với xây dựng nông thôn mới, giữa phát triển kinh tế với quản lý tài nguyên bảo vệ môi trường, ứng phó với thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm ngập mặn. Hình thành cho được chuỗi giá trị ngành sản xuất sản phẩm của vùng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển;…
Bốn là, tăng cường nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng bộ máy tổ chức và cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng có hiệu lực, hiệu quả quản lý các cấp chính quyền. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nghiêm túc thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, gắn với Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị; kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiên phong, gương mẫu về đạo đức, lối sống. Thực hiện nghiêm các chủ trương đổi mới sắp xếp về tổ chức, bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, liêm chính, trong sạch; giáo dục, bồi dưỡng nâng cao đạo đức, cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên và chú ý đào tạo thế hệ trẻ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có bản lĩnh chính trị tính chuyên nghiệp cao và năng lực sáng tạo. Tiếp tục cải cách hành chính phát triển chính quyền điện tử hướng đến chính quyền số, kinh tế số, xã hội số , đô thị thông minh. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi và bảo vệ cho cán bộ đổi mới, dám đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; khơi dậy tinh thần cống hiến của cán bộ, công chức.
Đổi mới công tác dân vận và hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị giữa Nhân dân ta với các nước.
Năm là, ngay sau hội nghị này, căn cứ nghị quyết và kế hoạch của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo, hướng dẫn của các Ban đảng Trung ương và các cơ quan cấp trên, các cấp ủy và tổ chức đảng ở Trung ương, các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị của các địa phương trong vùng cần khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập và quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết này gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh.
Ban Cán sự đảng Chính phủ cần ráo riết chỉ đạo khẩn trương xây dựng, ban hành chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết, giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương trong vùng. Chương trình hành động phát bảm sát các quan điểm tư tưởng chỉ đạo và nội dung của Nghị quyết bảo đảm sát hợp với từng địa phương trong vùng và tiểu vùng.
Các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương trong vùng cần cụ thể hóa Nghị quyết và Chương trình hành động của Chính phủ bằng các cơ chế, chính sách, kế hoạch, đề án, dự án và nguồn lực cụ thể, có tính khả thi cao.
Trước mắt, đề nghị Chính phủ cần tập trung ưu tiên sớm hoàn thiện và ban hành Quy hoạch phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, tạo cơ sở để các địa phương trong vùng xây dựng Quy hoạch phát triển của địa phương mình.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ tin tưởng, cấp ủy, chính quyền và Nhân dân các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của phong trào Đồng Khởi, khí hách anh hùng thành đồng Tổ quốc, phẩm chất cao quý tốt đẹp của người dân miền Tây để cùng với các ban, bộ, ngành Trung ương, cấp ủy, chính quyền các cấp trong cả nước nhất là Thành phố Hồ Chí Minh và toàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã đổi mới nỗ lực phấn đấu rồi càng đẩy mạnh đổi mới nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa, thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này, tạo ra bước chuyển biến mới, có tính đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh trên vùng đất Chín Rồng theo tinh thần “Cả nước vì vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Cửu Long vươn lên cùng cả nước và vì cả nước”./.