Ngày 17/12/1994, vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới
Theo số liệu thống kê, trên cả nước, đã xếp hạng trên 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố, 3.591 di tích quốc gia và 123 di tích quốc gia đặc biệt, có trên 40.000 di tích đã được kiểm kê theo quy định của Luật Di sản văn hóa, khoảng 70.000 di sản văn hóa phi vật thể trên cả nước được kiểm kê, 416 di sản được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách từ thực tế đang diễn ra, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa cũng dần bộc lộ một số hạn chế, bất cập cả về nội dung và hình thức trong từng lĩnh vực cụ thể. Do vậy, Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang đề nghị xây dựng Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) để bắt kịp sự vận động của xã hội, điều chỉnh, cụ thể hóa được những vấn đề còn vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi nhất cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc.
Quan tâm đến nội dung này, từ thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy, PGS.TS Dương Văn Sáu - Trưởng khoa Văn hóa Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đồng tình với sự cần thiết phải sửa đổi toàn diện Luật Di sản văn hóa đồng thời kỳ vọng, lần sửa đổi này sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển “kinh tế di sản” ở Việt Nam.
PGS.TS Dương Văn Sáu - Trưởng Khoa Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Phóng viên: Thưa PGS.TS Dương Văn Sáu, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang lấy ý kiến góp ý về Hồ sơ xây dựng Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). Dự án luật này dự kiến trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 năm 2024. Vậy, ông có đánh giá như thế nào về sự cần thiết phải xây dựng và ban hành Luật Di sản Văn hóa (sửa đổi) trong bối cảnh hiện nay?
PGS. TS Dương Văn Sáu, Đại học Văn hóa Hà Nội: Luật Di sản văn hóa được Quốc hội khóa X thông qua tại kỳ họp thứ 9, ngày 29/6/2001, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa của Việt Nam. Tiếp đó, Luật được sửa đổi, bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII (ngày 18/6/2009), tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, bảo đảm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có thể thấy, sau 20 năm Luật Di sản văn hóa được ban hành và hơn 10 năm được sửa đổi, bổ sung, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm, ngày càng được sự ủng hộ của đông đảo của nhân dân.
Tuy nhiên, do sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng, cho nên việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa là việc cần thiết trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi đặt ra từ cuộc sống.
Bên cạnh đó, hiện nay Luật Di sản văn hóa hiện đang áp dụng đã bộc lộ một số hạn chế về quan điểm nhận thức đối với di sản văn hóa dân tộc; từ đó không có những chế tài đúng đối với những hoạt động gìn giữ, tu bổ, tôn tạo và khai thác, phát huy giá trị các thành tố của di sản văn hóa trong xã hội đương đại.
Ngoài ra, trong bối cảnh mới nhiều vấn đề đặt ra từ cuộc sống đối với di sản văn hóa chưa được “luật hóa” đã kìm hãm, không phát huy được hết giá trị, sức mạnh của di sản văn hóa dân tộc trong đời sống văn hóa - xã hội. Đồng thời, nhiều hoạt động của các cá nhân, tổ chức đã núp bóng, trá hình, biến tướng… việc khai thác, phát huy giá trị các thành tố của di sản văn hóa dân tộc khiến cho nhiều di sản văn hóa biến đổi, biến mất… không giữ lại được; không đem lại nguồn thu từ di sản cho chủ nhân của di sản.
Do đó, việc xây dựng và ban hành Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) là vô cùng cần thiết, nhằm khắc phục bất cập, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, phục vụ công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đảm bảo tính phù hợp, không chồng chéo với hệ thống pháp luật khác có liên quan…
Phóng viên: Qua hoạt động nghiên cứu cũng như thực tiễn, theo quan điểm của ông đâu là những nội dung trọng tâm cần quan tâm đề xuất trong lần sửa đổi này?
PGS. TS Dương Văn Sáu, Đại học Văn hóa Hà Nội: Trong đề nghị xây dựng luật, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đánh giá tác động của 3 chính sách: (1) Hoàn thiện các quy định về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; (2) Hoàn thiện các quy định về thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về di sản văn hóa phù hợp với thực tiễn; (3) Hoàn thiện các quy định về huy động nguồn lực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Ngoài ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần quan tâm một số vấn đề cụ thể như sau:
Một là, nghiên cứu Sửa đổi khái niệm về Di sản văn hóa, đây là khái niệm quan trọng nhất của Luật di sản văn hóa.
Theo Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XII, sửa đổi bổ sung, thì: “Di sản văn hóa quy định tại Luật này bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Từ khái niệm được quy định trong bộ luật này, chúng ta thấy có bốn vấn đề liên quan đến nội dung cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung như sau:
(1) Ngay trong khái niệm này, luật đã xác định di sản văn hóa là “sản phẩm”, đã là sản phẩm thì có thể đưa vào tiêu dùng/tiêu thụ sản phẩm trong đời sống xã hội bằng những hình thức phù hợp. Khi đó, di sản văn hóa sẽ trở thành hàng hóa, một hàng hóa văn hóa với những đặc trưng riêng của nó.
(2) Các sản phẩm của di sản văn hóa được luật pháp xác định là có “giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”; vậy việc tiêu dùng/tiêu thụ các sản phẩm là di sản văn hóa tức là tiêu dùng các giá trị của di sản văn hóa (bao gồm giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học như luật đã xác định). Quá trình này chính là quá trình khai thác, phát huy giá trị của di sản văn hóa phục vụ các nhu cầu của đời sống xã hội. Hoạt động đó sẽ tạo ra những giá trị mới của kho tàng di sản văn hóa. Những giá trị mới này của di sản văn hóa có thể là việc phát triển, nâng tầm các giá trị sẵn có hoặc mở ra những giá trị mới (ví dụ như giá trị của kinh tế di sản) …
(3) Theo luật định thì di sản văn hóa “được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác”. Nếu hiểu theo nghĩa thông thường của sự lưu truyền thì quan điểm này là sự tự thân tồn tại và vận động của di sản văn hóa; nhận định như vậy sẽ làm lu mờ giá trị của công tác bảo vệ, phát huy giá trị của di sản văn hóa dân tộc. Sự lưu truyền di sản văn hóa sẽ chỉ mang tính bị động, thụ động không phát huy được vai trò tích cực, chủ động của cộng đồng cư dân bản địa vốn là chủ nhân của di sản văn hóa cũng như vai trò của các cơ quan chức năng làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về di sản văn hóa từ Trung ương đến các địa phương. Điều đó sẽ làm giảm hiệu quả giá trị của công tác bảo tồn di sản văn hóa trong quá trình công nghiệp hóa -hiện đại hóa đất nước hiện nay.
(4), Di sản văn hóa chỉ “lưu truyền… ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”; điều này thêm một lần nữa tự thừa nhận kìm hãm sự phát huy giá trị của di sản văn hóa dân tộc trên trường quốc tế. Tự “trói mình” trong khuôn khổ quốc gia trong khi giá trị của di sản văn hóa dân tộc là xuyên thời gian và vượt không gian. Những giá trị của kho tàng di sản văn hóa Việt Nam đã, đang và sẽ phát huy vai trò to lớn của nó trong tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa mạnh mẽ hiện nay, trở thành một bộ phận không thể tách rời của văn hóa nhân loại.
Từ những phân tích kể trên cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh khái niệm Di sản văn hóa cho phù hợp với tình hình, điều kiện và những yêu cầu đặt ra từ thực tế, việc điều chỉnh có thể quy định như sau: “Di sản văn hóa là sự chung đúc và kết tinh các giá trị vật chất và tinh thần của các thế hệ người đi trước; trở thành tài sản của cả cộng đồng; được cộng đồng thừa nhận, tuân thủ; bảo tồn, phát triển và truyền trao cho các thế hệ kế tiếp”
Hai là, Bổ sung thuật ngữ: Theo định nghĩa của Luật Di sản văn hóa: “…di sản văn hóa là sản phẩm tinh thần, vật chất…”; còn theo Luật Du lịch thì di sản văn hóa là tài nguyên văn hóa của kinh tế du lịch; tài nguyên này sẽ trở thành nguyên liệu cho công nghiệp du lịch. Do đó, di sản văn hóa cần phải được tổ chức khai thác các giá trị của nó một cách khoa học, hợp lý thông qua các dịch vụ thích hợp để tạo ra các sản phẩm du lịch đặc trưng của loại hình Kinh tế di sản. Từ đây, chúng ta cần chủ động, mạnh dạn bổ sung thuật ngữ “bảo vệ, khai thác, phát huy” giá trị di sản văn hóa thay vì chỉ có thuật ngữ “bảo vệ, phát huy” giá trị di sản văn hóa như đã ghi trong Luật Di sản văn hóa. Thực tế, kho tàng di sản văn hóa ở các địa phương trên khắp miền đất nước đã và đang được khai thác mạnh mẽ phục vụ phát triển du lịch trong thời gian vừa qua. Vấn đề là chúng ta sẽ tổ chức khai thác, phát huy giá trị của các di sản văn hóa như thế nào cho phù hợp, hiệu quả mà vẫn bảo tồn và phát triển bền vững được các nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng các giá trị đặc sắc của kho tàng văn hóa bản địa.
Phóng viên: Bảo vệ nhưng phải phát huy được giá trị di sản văn hóa là một trong những vấn đề được đặt ra. Vậy, ông có đề xuất hay khuyến nghị gì về quy định cần được luật hóa liên quan đến nội dung này?
PGS. TS Dương Văn Sáu, Đại học Văn hóa Hà Nội: Cần luật hóa những Lý thuyết khoa học liên quan đến di sản văn hóa để chế tài phù hợp sự vận động, biến đổi và phát triển di sản văn hóa dân tộc trong tình hình thực tiễn. Cụ thể:
Một là, lý thuyết thứ nhất “LỤC BIẾN” (Biến di sản thành tài sản; Biến văn hóa thành hàng hóa; Biến tài nguyên thành tài chính; Biến nguồn lực thành động lực; Biến môi trường thành thị trường; Biến giá trị thành giá cả)
Hai là, trong việc khai thác, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc phục vụ quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cần luật hóa Lý thuyết thứ hai “LÝ THUYẾT BA PHẢI” vào cuộc sống: Phải bảo vệ không gian, cảnh quan, môi trường; Phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; Phải phát triển khoa học công nghệ hiện đại.
Ba là, luật hóa các chế tài để bổ sung quan điểm “BẢO TỒN ĐỘNG DI SẢN VĂN HÓA”: Bảo tồn động di sản văn hóa là cách thức và biện pháp đưa các hoạt động xã hội thích hợp vào trong môi trường mà các di sản văn hóa tồn tại và đưa các loại hình, thành tố nào đó của di sản văn hóa vào các hoạt động xã hội trong môi trường phù hợp. Những giải pháp này sẽ giúp cho di sản có điều kiện phát huy được các giá trị của nó trong đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội, đem lại những lợi ích khác nhau cho cộng đồng cư dân, chủ nhân của các di sản. Từ đó chủ nhân của di sản sẽ tìm cách duy trì và phát triển các lợi ích của họ; điều đó giúp di sản tồn tại và phát triển bền vững...
Phóng viên: Theo ý kiến của PGS.TS thì đâu là mục tiêu quan trọng nhất mà lần sửa đổi này Luật Di sản văn hóa cần hướng tới?
PGS. TS Dương Văn Sáu, Đại học Văn hóa Hà Nội: Mục đích xây dựng Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) nhằm hoàn thiện, tạo lập hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, phục vụ công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đảm bảo tính phù hợp, không chồng chéo với hệ thống pháp luật khác có liên quan. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác quản lý các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính gắn với kiểm tra, thanh tra, kiểm soát, giám sát việc thực thi pháp luật về di sản văn hóa để đảm bảo quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
Tuy nhiên, mục tiêu quan trọng nhất mà lần sửa đổi này Luật di sản văn hóa phải tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển “KINH TẾ DI SẢN” ở Việt Nam hiện nay.
Trân trọng cảm ơn PGS.TS Dương Văn Sáu!