Toàn cảnh hội nghị
Tham dự Hội nghị có: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định; GS.TS Đinh Xuân Dũng- Báo cáo viên Hội nghị; đồng chí Phạm Thị Vui - Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng uỷ Khối, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương; các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Đảng Đoàn Quốc hội, các đồng chí thành viên Tổ Đảng Thường trực Hội đồng Dân tộc và Thường trực các Ủy ban của Quốc hội, lãnh đạo các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lãnh đạo Văn phòng Quốc hội, các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng, ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội cùng toàn thể Đảng viên trong Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội.
Mục đích của hội nghị nhằm tuyên truyền sâu rộng về ý nghĩa lịch sử, giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, lâu bền của “Đề cương về văn hóa Việt Nam”; sự phát triển nội dung cốt lõi của Đề cương trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và công cuộc đổi mới hiện nay; qua đó nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động về vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt của văn hóa - văn nghệ, đề cao nghĩa vụ và trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển con người Việt Nam thời đại mới và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đồng thời, góp phần quán triệt sâu sắc, toàn diện và đồng bộ hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về văn hóa, văn nghệ; đặc biệt là quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; Bài phát biểu chỉ đạo của Đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 và Kết luận của Đồng chí Chủ tịch Quốc hội tại Hội thảo Văn hóa năm 2022.
Ra đời với 3 nguyên tắc cơ bản
Tháng 02/1943, Đảng ban hành Đề cương về văn hóa Việt Nam (Đề cương) do đồng chí Tổng Bí Thư Trường Chinh soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Đông Anh, Phúc Yên). Văn kiện ra đời trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội rất rối ren của đất nước những năm 40 thế kỷ XX, lúc cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đang đi gần tới kết thúc. Nhật xâm chiếm Đông Dương. Cách mạng Việt Nam lúc này không những đứng trước tình thế vô cùng gay go, căng thẳng mà còn phải đương đầu với những thủ đoạn thâm độc của phátxít Nhật, Pháp hòng trói buộc văn hóa, thậm chí giết chết tiền đồ của nền văn hóa dân tộc ta. Một bộ phận tầng lớp trí thức “đêm trước cách mạng” tỏ ra chán nản, bi quan, thờ ơ với thời cuộc, số khác hoang mang, mất phương hướng, thiếu ngọn đèn dẫn lối về tư tưởng. Cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo bước vào thời kỳ tiền khởi nghĩa là một tất yếu chính trị. Tuy nhiên, trong bối cảnh lúc bấy giờ, trước hết cần phải có một sự thay đổi mang tính đột phá, định hướng về tư tưởng văn hóa. Đề cương ra đời đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử.
Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 gồm 05 phần: Phần (I): “Cách đặt vấn đề”; Phần (II): “Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam”; Phần (III): “Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phátxít Nhật, Pháp”; Phần (IV): “Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam” và Phần (V): “Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa Mácxít Đông Dương và nhất là của những nhà văn hóa Mácxít Việt Nam”. Đề cương trình bày một cách ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn đảm bảo hệ thống các quan niệm, phạm trù, các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương châm, nguyên tắc của nền văn hóa dân tộc, với phương pháp tiếp cận khoa học; nổi bật là những luận điểm sau:
Một là, xác định rõ nội dung, phạm vi, vị trí, vai trò của văn hóa trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đề cương nêu rõ: văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật; mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động, không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. Đồng thời, có lãnh đạo được phong trào văn hóa Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.
Đề cương văn hóa Việt Nam 1943
Hai là, cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng lãnh đạo. Trên cơ sở chỉ rõ tính chất văn hóa Việt Nam trong quá khứ và hiện tại (1943), chỉ rõ những nguy cơ của Văn hóa Việt Nam dưới ách phátxít Nhật - Pháp; những thủ đoạn của Nhật - Pháp trói buộc và giết chết văn hóa Việt Nam; dự kiến về tiền đồ văn hóa Việt Nam, Đề cương khẳng định cách mạng nhất định thắng lợi, văn hóa Việt Nam sẽ cởi được xiềng xích, đuổi kịp văn hóa mới, tiến bộ trên thế giới. Muốn vậy, phải làm cách mạng về văn hóa, “cách mạng vǎn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”.
Ba là, để thực hiện cuộc cách mạng văn hóa ở nước ta phải nắm vững “ba nguyên tắc vận động”, đó là: dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Trong đó, dân tộc hóa là chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho vǎn hóa Việt Nam phát triển độc lập. Đại chúng hóa là chống mọi chủ trương hành động làm cho vǎn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng, con người phải là trung tâm, là chủ thể của các hoạt động văn hóa. Khoa học hóa là chống lại tất cả những cái gì làm cho vǎn hóa trái khoa học, phản tiến bộ, biết bảo tồn, chắt lọc những nét đẹp truyền thống dân tộc, đồng thời phải chống những cái cũ kĩ, lạc hậu, dị đoan.
Đảng ta cũng khẳng định: “Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng vǎn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm... Nhưng đồng thời cũng phải chống xu hướng vǎn hóa quá trớn”. Có thể thấy, ba nguyên tắc trên là sự trả lời đúng đắn và kịp thời cho các nhu cầu cấp thiết nổi lên trong một thời điểm trọng đại của lịch sử. Và do khả năng định hướng, tập hợp, đưa tất cả đội ngũ trí thức tham gia cách mạng, nó đã góp phần quan trọng làm nên thành công của Cách mạng tháng Tám 1945, tạo cơ sở lý luận cho sự nghiệp xây dựng một nền văn hóa kháng chiến - kiến quốc trong những năm tiếp theo.
Bốn là, để đặt nền móng và định hướng xây dựng một nền văn hóa cách mạng mới, cần tiến hành tổng hợp các biện pháp công khai và bí mật, với nhiều hình thức khác nhau, đồng thời kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn hai nhiệm vụ “xây” và “chống”. Đề cương nhấn mạnh nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa Mácxít là phải chống lại văn hóa phátxít, phong kiến, thoái bộ, nô dịch, ngu dân, phỉnh dân; phát huy văn hóa dân chủ thông qua việc tranh đấu bảo vệ học thuyết, tư tưởng, làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng, tranh đấu về tông phái văn nghệ, chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng..., làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng; tranh đấu về tiếng nói, chữ viết, thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói, xác định phong cách văn Việt Nam, cải cách chữ quốc ngữ…
Văn hóa cũng là một “mặt trận”
GS.TS Đinh Xuân Dũng cho rằng, Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời vào năm 1943 là sự thể hiện đầy sức thuyết phục về tầm nhìn, bản lĩnh và sự nhiệt huyết của những người cộng sản Việt Nam. 80 năm đã đi qua, dân tộc ta, Đảng ta đã trải qua những chặng đường gian khổ, hào hùng, làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bối cảnh tình hình và điều kiện cụ thể đã có nhiều đổi thay nhưng những nội dung cốt lõi của Đề cương Văn hóa Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị.
GS.TS Đinh Xuân Dũng- Báo cáo viên Hội nghị, nguyên Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương
GS.TS Đinh Xuân Dũng khẳng định, ba luận điểm làm rõ “thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với văn hóa” được trình bày ngắn gọn, cô đúc trong Đề cương có giá trị khai phá mở đường, khẳng định tính nguyên tắc và trách nhiệm của Đảng đối với sự nghiệp văn hóa đó là: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó, người cộng sản phải hoạt động"; "Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa" và "Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”.
Theo GS.TS Đinh Xuân Dũng, các phong trào cách mạng và yêu nước khác, vào thời điểm đó, dù thể hiện đến tận cùng khát vọng giải phóng dân tộc, nhưng đều rơi vào thất bại, vì bế tắc về đường lối cứu nước, trong đó có nguyên nhân vì không kết hợp được sức mạnh của hai cuộc vận động lớn: vận động chính trị và vận động văn hóa.
Từ sự nhìn nhận thực tiễn lịch sử đó, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 không chỉ nói về văn hóa hoặc chỉ có giá trị đối với lĩnh vực văn hóa cụ thể, mà còn góp phần tạo nên cội nguồn, động lực cho sức mạnh tổng hợp của cách mạng để dẫn tới thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945. Nếu từ tầm nhìn đó, có thể thấy rằng, mặc dù sau 80 năm nhìn lại, nhưng giá trị lớn của Đề cương vừa có ý nghĩa lịch sử mang tính bước ngoặt của giai đoạn 1943 - 1945 đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, vừa có tầm nhìn như là sự khai phá mở đường, đặt nền móng vững chắc và đúng đắn cho toàn bộ quá trình tìm tòi, xây dựng hệ thống quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa.
Những dự báo sâu sắc về nền văn hóa Việt Nam tiến bộ
GS.TS Đinh Xuân Dũng nhấn mạnh, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 không chỉ có giá trị gắn với yêu cầu của thời kỳ 1943 - 1945, mà còn hàm chứa một nội dung rất sâu sắc. Đó chính là những dự báo sáng suốt về tương lai của văn hóa Việt Nam.
Vào thời điểm năm 1943, khi đất nước đang đứng trước những biến cố lớn, khó lường do Chiến tranh thế giới thứ hai đang diễn ra khốc liệt, cuộc vận động cách mạng đang hết sức khẩn trương, Đề cương đã nêu lên hai "ức thuyết": một là "nền văn hóa phát xít (văn hóa trung cổ và nô dịch hóa) thắng thì văn hóa Việt Nam nghèo nàn, thấp kém, và hai là "văn hóa Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thể giới".
Từ đó, Đề cương dự báo: Căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay, cách mạng dân tộc Việt Nam nhất quyết sẽ làm cho ức thuyết thứ hai trở nên sự thực. Đến nay, ức thuyết trên đã trở thành hiện thực gần 80 năm qua. Song, đặt ức thuyết đó vào thời điểm chúng ta đang "tay trắng" thì phải thấy rằng, đó là một dự báo tài tình, là kết quả của sự linh cảm, của niềm tin và đồng thời của sự phân tích khoa học thực trạng và sự vận động của lịch sử.
Bên cạnh đó, theo GS.TS Đinh Xuân Dũng, dự báo thứ hai của Đề cương còn có ý nghĩa chiến lược sâu sắc hơn, đó là sự khẳng định một quy luật có tính phổ quát của toàn bộ sự nghiệp cách mạng: "Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành cuộc cải tạo xã hội".
Năm 1945, chúng ta đã giành được độc lập dân tộc. Năm 1975, chúng ta đã giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1991, khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, chúng ta đã đứng vững. Cuối thế kỷ XX, chúng ta đã thoát khỏi tình trạng một nước nghèo nàn, kém phát triển và bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Như vậy, về mặt chính trị và kinh tế, chúng ta đã giành được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, song trên thực tiễn, đến nay, còn rất nhiều vấn đề lớn lao và hệ trọng trong bản thân sự phát triển của đất nước đang đặt ra gay gắt, trong đó, vấn đề văn hóa với ý nghĩa là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, là sự xây đắp và nuôi dưỡng nhân cách con người, là cuộc đấu tranh bền bỉ chống cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, sự tha hóa,... đã và đang nổi lên như một thách thức dai dẳng nhất, và phía trước, chưa có lời giải đáp thỏa đáng, có sức thuyết phục đối với những thách thức đó.
GS.TS Đinh Xuân Dũng nhấn mạnh, điều khẳng định trong Đề cương cách đây 80 năm “phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội” chính là việc phát hiện một quy luật sâu sắc trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của chúng ta.
Được điều chỉnh, bổ sung, làm phong phú hơn sau 80 năm
GS.TS Đinh Xuân Dũng nhấn mạnh, có thể nhận thấy rằng, sau 80 năm Đề cương ra đời, tuy có một số nhận định cụ thể đã bộc lộ hạn chế lịch sử của nó, nhưng luận điểm về tính tất yếu tiến hành cuộc vận động văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới vẫn giữ nguyên giá trị với ý nghĩa là một quy luật, một đòi hỏi mang tính khách quan và tính thời sự của nó. Không phải tất cả những vấn đề đa dạng, phong phú và phức tạp của đời sống văn hóa Việt Nam trong tiến trình vận động, biến đổi của nó đều được đề cập trong Đề cương và nhìn từ quan điểm hôm nay, không phải tất cả những nhận định cụ thể đều chuẩn xác, song mục tiêu chủ yếu của Đề cương là khẳng định những quan điểm gốc về chính trị, đặt nền tảng tư tưởng cơ bản để chuẩn bị cho việc tiến hành một sự nghiệp khó khăn: Cải tạo nền văn hóa cũ và xây dựng nền văn hóa mới. Vì vậy, đường lối, quan điểm văn hóa, văn nghệ của Đảng từ sau Đề cương, mặc dầu đã phát triển ở trình độ mới, phong phú và hoàn thiện hơn nhiều, nhưng vẫn kiên định giữ vững luận điểm cốt lõi trên.
Nếu coi Đề cương là sự khai phá mở đường cho quá trình xây dựng quan điểm, lý luận văn hóa ở Việt Nam, thì trong 80 năm qua, nhiều luận điểm của Đề cương đã được điều chỉnh, bổ sung, làm phong phú hơn, trong đó, luận điểm cơ bản “văn hóa Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung” được điều chỉnh, bổ sung nhiều lần và vươn tới sự hoàn chỉnh trong những năm gần đây.
Phân tích về điểm này, GS.TS Đinh Xuân Dũng cho biết, năm 1943, nội dung này được thể hiện theo hướng diễn đạt của cặp phạm trù nội dung và hình thức. Về nội dung, yêu cầu rất mới, đó là "tân dân chủ", tức là phải vượt qua văn hóa phong kiến, văn hóa nô dịch để trở thành nền văn hóa dân chủ mới - một trào lưu đang phát triển mạnh mẽ của văn hóa thế giới giai đoạn lịch sử đó. Đồng thời, do ảnh hưởng của quan niệm Xô Viết về văn hóa đa dân tộc của Liên Xô thời kỳ đó, Đề cương coi tính dân tộc của văn hóa thuộc phạm trù hình thức: "tính chất dân tộc về hình thức". Cách hiểu đó ít nhiều chưa thể hiện được chiều sâu của tính dân tộc của văn hóa, không chỉ là những biểu hiện hình thức mà còn thấm sâu vào toàn bộ nội dung của văn hóa. Trong một thời kỳ khá dài, khái niệm "hình thức dân tộc" còn đơn giản, phiến diện, có tác dụng chi phối sự lãnh đạo văn hóa.
17 năm sau, tại Đại hội lần thứ III của Đảng (1960), luận điểm trên đã được điều chỉnh và phát triển thành "phát triển nền văn nghệ mới với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc" để làm rõ hơn đặc trưng tổng quát của nền văn hóa khi chúng ta xác định con đường phát triển của đất nước theo mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm "nội dung xã hội chủ nghĩa" được thay thế cho "tân dân chủ về nội dung" là sự khẳng định mục tiêu và lý tưởng mới, cao hơn giai đoạn trước của nền văn hóa khi chế độ mới đã được thiết lập. Đặc biệt, thuật ngữ "dân tộc về hình thức" đã được thay thế bằng "tính chất dân tộc", có nghĩa là, ở đó, tính dân tộc của văn hóa đã bao hàm cả nội dung và hình thức. Đó là sự điều chỉnh quan trọng và cần thiết trong quan điểm về văn hóa.
27 năm sau, năm 1987, trong Nghị quyết số 05 của Bộ Chính trị (khóa VI), cả hai vế trên, một lần nữa, lại được điều chỉnh cơ bản: "xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc". Cụm từ "nội dung xã hội chủ nghĩa" được thay thế bằng sự khái quát rộng hơn, chỉ mục tiêu và tính chất chung của toàn bộ nền văn hóa.
Như vậy, khái niệm trước đây được sử dụng trong nhiều năm, "nội dung xã hội chủ nghĩa", ít nhiều hạn hẹp đã được điều chỉnh. Đồng thời, nhận thức sâu hơn đặc tính, thuộc tính dân tộc của một nền văn hóa, cụm từ "tính chất dân tộc" được chuyển thành "đậm đà bản sắc dân tộc" nhằm tô đậm, khắc sâu hơn yêu cầu về tính dân tộc của văn hóa Việt Nam đương đại.
Sau Nghị quyết số 05 của Bộ Chính trị 04 năm, vào năm 1991, trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", một lần nữa, luận điểm trên có sự đổi mới rất quan trọng. Cụm từ "văn hóa xã hội chủ nghĩa" trong Nghị quyết số 05 đã được thay thế bằng "văn hóa tiên tiến" và giữ lại cụm từ "đậm đà bản sắc dân tộc". Có người cho rằng, ở đây có một bước lùi về hệ tư tưởng khi bỏ đi khái niệm xã hội chủ nghĩa để thay thế bằng khái niệm "tiên tiến".
Theo GS.TS Đinh Xuân Dũng, một thời gian dài, chúng ta đã quy chiếu toàn bộ nền văn hóa theo yêu cầu "nội dung xã hội chủ nghĩa", mà không chú ý đúng mức đến tính phong phú, đa dạng, phẩm chất nhân văn, dân chủ, tiến bộ của một nền văn hóa. Làm nên sự phong phú, đa dạng của nền văn hóa của chúng ta, là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời với nền văn hóa đó, cùng với những tác phẩm mà "nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội", còn có những giá trị dân chủ, nhân văn, tiến bộ, khoa học của văn hóa dân tộc và của văn hóa thế giới.
Mặt khác, GS.TS Đinh Xuân Dũng cho rằng, sản phẩm văn hóa là vô cùng đa dạng, tạo nên vẻ đẹp, sự giàu có về tinh thần của một dân tộc, không thể soi chiếu tất cả các sản phẩm đó theo chuẩn mực hệ ý thức, mà phải lấy thước đo là tính tiên tiến, tiến bộ của nó.
Như vậy, tất cả các cụm từ "tân dân chủ", "nội dung xã hội chủ nghĩa", "văn hóa xã hội chủ nghĩa", "hình thức dân tộc", "tính chất dân tộc", sau gần 50 năm, đã được thay thế bằng luận điểm mới "tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Đến Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII, 1998) và các nghị quyết sau đó đến gần đây nhất, luận điểm này đã được làm rõ nội hàm của nó.
Có thể khẳng định rằng, quá trình tìm tòi trên gắn liền với sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về văn hóa và là kết quả của sự tổng kết thực tiễn một cách khoa học, nghiêm túc, sáng tạo. Đó vừa là sự kế thừa khoa học, vừa là sự phủ định biện chứng từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đến các văn kiện tiếp theo. Song, rõ ràng là nền móng vững chắc, sự khai phá mở đường đã bắt đầu đúng đắn từ bản đề cương lịch sử này. Trong vị trí lịch sử của nó, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 hoàn toàn có giá trị như là một cương lĩnh đầu tiên, là chiến lược đầu tiên về văn hóa của chúng ta.
Tiếp tục nghiên cứu những giá trị của Đề cương
Phát biểu kết luận tại hội nghị, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội Trịnh Giáng Hương cho biết, trong thời gian gần 2 giờ, Hội nghị đã nghe GS.TS Đinh Xuân Dũng, nguyên Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương trình bày bối cảnh lịch sử, ý nghĩa lịch sử, giá trị to lớn mang tầm thời đại và sức sống lâu dài, bền vững của Đề cương về văn hóa Việt Nam, các quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa; quá trình vận dụng, kế thừa, phát huy, phát triển các giá trị cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam để hoàn thiện đường lối văn hóa của Đảng trong suốt 80 năm qua; đồng thời đã phân tích yêu cầu, nhiệm vụ, khả năng, giải pháp để tiếp tục nghiên cứu, kế thừa, phát triển các quan điểm của Đề cương về văn hóa Việt Nam vào thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong tình hình mới.
Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội Trịnh Giáng Hương
Thay mặt Ban Thường vụ Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội Trịnh Giáng Hương cảm ơn GS.TS Đinh Xuân Dũng, nguyên Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã quan tâm, dành thời gian đến dự và truyền đạt cho đảng viên trong Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội những nội dung rất quan trọng của Đề cương về văn hóa Việt Nam.
Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội Trịnh Giáng Hương đề nghị, sau Hội nghị sinh hoạt chuyên đề hôm nay, Ban Thường vụ Đảng ủy cơ quan đề nghị các cấp ủy trực thuộc và toàn thể đảng viên trong Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội tiếp tục nghiên cứu những giá trị của Đề cương về văn hóa Việt Nam, bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 và bài phát biểu của đồng chí Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tại Hội thảo Văn hóa năm 2022; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Văn phòng Quốc hội có năng lực, phẩm chất, đạo đức, tận tụy, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
Một số hình ảnh tại hội nghị:
Toàn cảnh Hội nghị chuyên đề “80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam”
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định dự hội nghị
GS.TS Đinh Xuân Dũng cho rằng, Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời vào năm 1943 là sự thể hiện đầy sức thuyết phục về tầm nhìn, bản lĩnh và sự nhiệt huyết của những người cộng sản Việt Nam
80 năm đã đi qua, dân tộc ta, Đảng ta đã trải qua những chặng đường gian khổ, hào hùng, làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bối cảnh tình hình và điều kiện cụ thể đã có nhiều đổi thay nhưng những nội dung cốt lõi của Đề cương Văn hóa Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị
Mục đích của hội nghị nhằm tuyên truyền sâu rộng về ý nghĩa lịch sử, giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, lâu bền của “Đề cương về văn hóa Việt Nam”; sự phát triển nội dung cốt lõi của Đề cương trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và công cuộc đổi mới hiện nay
Qua đó nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động về vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt của văn hóa - văn nghệ, đề cao nghĩa vụ và trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển con người Việt Nam thời đại mới và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Đồng thời, góp phần quán triệt sâu sắc, toàn diện và đồng bộ hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về văn hóa, văn nghệ
Đặc biệt là quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; Bài phát biểu chỉ đạo của Đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 và Kết luận của Đồng chí Chủ tịch Quốc hội tại Hội thảo Văn hóa năm 2022
Các đại biểu tại Hội nghị