TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP CHIỀU 10/11: QUỐC HỘI BIỂU QUYẾT THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT VỀ PHƯƠNG ÁN PHÂN BỔ NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG NĂM 2024

10/11/2023

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 6, 14h00 chiều 10/11, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024, đồng thời Chính phủ trình Quốc hội 02 dự án Luật sửa đổi. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp.

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP SÁNG 10/11: QUỐC HỘI BIỂU QUYẾT THÔNG QUA DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2024 

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp 

Theo đó, tại phiên họp, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024 (1); Đồng thời, Quốc hội nghe: Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình và Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Thủ đô (sửa đổi) (2); Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình và Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi) (3).

Cổng Thông tin điện tử Quốc hội sẽ cập nhật liên tục nội dung thông tin:

15h12: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp

Điều hành nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024 và nghe Tờ trình, Báo cáo thẩm tra dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi); dự án Luật Thủ đô (sửa đổi).

Theo chương trình, thời gian còn lại chiều ngày 10/11, Quốc hội thảo luận tại Tổ về Dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi); Dự án Luật Thủ đô (sửa đổi); Các báo cáo của Chính phủ về: Sơ kết thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng và kết quả 03 năm thực hiện tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.

15h01: Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi)

Trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết, Ủy ban Pháp luật tán thành sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Lưu trữ năm 2011 và mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Luật như được nêu tại Tờ trình của Chính phủ. Việc sửa đổi Luật này cũng là nhiệm vụ lập pháp đã được xác định tại Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị công phu, đầy đủ tài liệu theo quy định tại khoản 1 Điều 64 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; nội dung dự thảo Luật cơ bản thống nhất với các chính sách được đề xuất khi đưa dự án Luật vào Chương trình. Đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát 12 nội dung giao quy định chi tiết, bảo đảm yêu cầu luật hóa tối đa các nội dung đã rõ, đã được thực tiễn kiểm nghiệm và phát huy hiệu quả trên thực tế. 

Về phạm vi điều chỉnh, Ủy ban Pháp luật cơ bản nhất trí với quy định của dự thảo Luật theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với hoạt động lưu trữ tư nhằm tạo hành lang pháp lý để các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động lưu trữ, góp phần bảo đảm lưu giữ và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ tư phục vụ lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia, đồng thời thực hiện định hướng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động lưu trữ, xây dựng một xã hội lưu trữ, một quốc gia lưu trữ. Ủy ban Pháp luật đề nghị rà soát các quy định của dự thảo Luật với Luật Di sản văn hóa và các nội dung dự kiến sửa đổi Luật này liên quan đến quản lý tài liệu lưu trữ được công nhận là “di sản tư liệu”, tài liệu lưu trữ tư có giá trị đặc biệt được công nhận là bảo vật quốc gia để có quy định phù hợp, tránh chồng chéo, thiếu thống nhất giữa 02 luật.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật đề nghị quy định rõ tiêu chí xác định mức độ “ảnh hưởng” tại điểm a khoản 1 Điều 25 của dự thảo Luật để phân biệt với thông tin mà nếu tiếp cận sẽ “ảnh hưởng xấu” đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội thuộc trường hợp không được tiếp cận theo quy định tại Luật Tiếp cận thông tin; từ đó, tạo cơ sở áp dụng thống nhất trong quá trình thực thi các luật này.

Hiện nay, ngoài Luật Lưu trữ quy định chung các vấn đề về lưu trữ thì còn có một số luật khác như Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Kế toán, Luật Công chứng, Luật Điều ước quốc tế, Luật Khám bệnh, chữa bệnh... có quy định đặc thù về lưu trữ, do đó, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát, làm rõ mối quan hệ giữa dự thảo Luật với các luật nói trên, quy định rõ trong Luật trường hợp nào áp dụng pháp luật lưu trữ, trường hợp nào áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành để tránh trùng lặp, thiếu thống nhất giữa các luật. 

Về thành phần Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam (Điều 7 của dự thảo Luật), Ủy ban Pháp luật cơ bản nhất trí với quy định của dự thảo Luật về Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam bao gồm toàn bộ tài liệu lưu trữ của nước Việt Nam, không phụ thuộc vào thời gian hình thành, nơi bảo quản, kỹ thuật ghi tin và vật mang tin.

Ủy ban Pháp luật đề nghị xem xét, làm rõ một số quy định tại khoản 3 Điều 7 của dự thảo Luật, cụ thể là: quy định tại điểm b khoản 3 về Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam gồm tài liệu lưu trữ hình thành trong quá trình hoạt động của “cơ quan, tổ chức, cá nhân không quy định tại điểm a khoản này” đã bao trùm tất cả cơ quan, tổ chức được nêu tại các điểm b, c và d khoản 3, do đó trùng lặp và thiếu chính xác; bổ sung quy định đối với tài liệu lưu trữ hình thành trong quá trình hoạt động của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở cấp xã tại điểm c khoản 3 để bao quát đầy đủ tài liệu lưu trữ ở cấp xã.

Về thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ và cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ (Điều 9 của dự thảo Luật), đa số ý kiến trong Ủy ban Pháp luật nhất trí với việc phân định thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ và cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ như quy định tại Điều 9 của dự thảo Luật; đánh giá cao Chính phủ đã kịp thời tiếp thu ý kiến thẩm tra, chỉnh lý quy định của dự thảo Luật trình Quốc hội về thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ của tổ chức đảng trong các ngành quốc phòng, công an, ngoại giao phù hợp với Quy định số 270-QĐ/TW của Ban Bí thư về Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam.  

Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo, làm rõ hơn về đặc thù của việc nộp lưu, quản lý, sử dụng tài liệu lưu trữ hình thành trong quá trình hoạt động của ngành ngoại giao, các thuận lợi và khó khăn (nếu có) để Quốc hội có cơ sở xem xét việc giao Bộ Ngoại giao trực tiếp quản lý, lưu trữ tài liệu của ngành ngoại giao, không nộp lưu vào Lưu trữ lịch sử nhà nước.

14h48: Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi)

Trình bày Tờ trình về dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho biết, sau hơn 10 năm thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Lưu trữ năm 2011 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế như: (1) chưa kịp thời thể chế hoá các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực lưu trữ; (2) nhiều vấn đề của thực tiễn chưa được Luật Lưu trữ năm 2011 quy định hoặc đã được quy định nhưng chưa cụ thể, gây khó khăn trong quá trình thực hiện như: thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ, quản lý tài liệu lưu trữ điện tử, hoạt động lưu trữ tư và quản lý hoạt động dịch vụ lưu trữ.

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà khẳng định, việc xây dựng Luật Lưu trữ (sửa đổi) là cần thiết nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về lưu trữ, đổi mới hoạt động quản lý và thực hiện các nghiệp vụ về lưu trữ, khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn công tác lưu trữ hiện nay, đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập quốc tế.

Dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi) được xây dựng nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII về việc hệ thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ trong lĩnh vực lưu trữ nhằm khơi dậy khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế.

Dự thảo Luật gồm 09 chương, 68 điều (tăng 2 chương, 26 điều so với Luật Lưu trữ năm 2011).

Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nêu rõ, trên cơ sở kế thừa các nội dung còn phù hợp của Luật Lưu trữ năm 2011 về những quy định chung, hoạt động nghiệp vụ lưu trữ, dự thảo Luật có các nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung vào 04 chính sách đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 152/NQ-CP, gồm: Quy định về thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ; Quy định về lưu trữ tài liệu điện tử và tài liệu số; Quy định về hoạt động lưu trữ tư; Quy định về hoạt động dịch vụ lưu trữ.

Về quy định về thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ cho biết, dự thảo Luật bổ sung các quy định về thẩm quyền quản lý tài liệu Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam theo hướng phân định rõ thẩm quyền quản lý cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ; tài liệu lưu trữ Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam và Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam giữa cơ quan có thẩm quyền của Đảng và cơ quan quản lý nhà nước về lưu trữ; phân cấp quản lý tài liệu lưu trữ giữa cơ quan lưu trữ của Nhà nước ở trung ương và ở địa phương; thẩm quyền quản lý tài liệu các ngành quốc phòng, công an, ngoại giao và thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ cấp xã. Qua đó, tạo hành lang pháp lý thống nhất quản lý tài liệu lưu trữ và cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

Liên quan đến quy định về lưu trữ tài liệu điện tử và tài liệu số, dự thảo Luật quy định rõ các loại tài liệu lưu trữ điện tử; bản số hóa tài liệu lưu trữ; chuyển tài liệu lưu trữ số sang tài liệu lưu trữ giấy; xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ; Hệ thống quản lý tài liệu lưu trữ số; thu thập, bảo quản, sử dụng tài liệu lưu trữ số và hủy tài liệu lưu trữ số hết giá trị; Kho lưu trữ số; lưu trữ tài liệu lưu trữ điện tử khác.

Đối với quy định về hoạt động lưu trữ tư, dự thảo Luật quy định rõ yêu cầu của hoạt động lưu trữ tư; Nhà nước hỗ trợ hoạt động lưu trữ tư; quyền của tổ chức, cá nhân trong hoạt động lưu trữ tư; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động lưu trữ tư; các hoạt động lưu trữ tư; hoạt động nghiệp vụ lưu trữ tư; hoạt động lưu trữ phục vụ cộng đồng; mua, bán, trao đổi, hiến tặng tài liệu lưu trữ tư có giá trị đặc biệt; phát huy giá trị tài liệu lưu trữ tư.

Về quy định về hoạt động dịch vụ lưu trữ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho biết, Dự thảo Luật quy định rõ các hoạt động dịch vụ lưu trữ; nguyên tắc hoạt động dịch vụ lưu trữ; tổ chức, cá nhân kinh doanh và cung cấp dịch vụ lưu trữ; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Chứng chỉ hành nghề lưu trữ.

14h30: Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Thủ đô

Trình bày Báo cáo thẩm tra tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết, Ủy ban Pháp luật và các cơ quan tham gia thẩm tra đều tán thành với sự cần thiết ban hành, mục đích, quan điểm xây dựng và phạm vi sửa đổi Luật Thủ đô; Hồ sơ dự án Luật Thủ đô (sửa đổi) được Chính phủ chuẩn bị công phu, nghiêm túc, đầy đủ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng nhấn mạnh, Luật Thủ đô là đạo luật đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Việc sửa đổi Luật phải bám sát các cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn về xây dựng, bảo vệ, phát triển Thủ đô nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong các nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị, đặc biệt là Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và giải quyết được những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong xây dựng, bảo vệ, phát triển Thủ đô…

Bên cạnh đó, dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) cần có các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt, thể hiện sự phân quyền mạnh mẽ nhưng cũng đồng thời là giao nhiệm vụ cho chính quyền thành phố Hà Nội trong xây dựng, bảo vệ, phát triển Thủ đô. Các cơ chế, chính sách được thiết kế trong dự thảo Luật phải rõ ràng, rành mạch về phạm vi, nội dung phân quyền; lĩnh vực phân quyền phải toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm tính khả thi và có cơ chế kiểm soát quyền lực thông qua việc quy định cụ thể quy trình, thủ tục thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm kiểm tra, giám sát của các cơ quan. Đồng thời, cần bổ sung các cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện nhiệm vụ của Thủ đô là trung tâm chính trị - hành chính của quốc gia, đồng thời là đô thị đặc biệt.

Cách thức thể hiện trong dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) cần bảo đảm cụ thể, rõ nội dung, phạm vi, đối tượng phân quyền và cơ chế phân cấp, ủy quyền tiếp gắn với chế độ trách nhiệm; hạn chế những quy định không mang tính quy phạm. Không quy định lại các vấn đề đã được quy định trong các luật khác. Các nội dung đã và đang thực hiện thí điểm ở Hà Nội và các địa phương khác qua sơ kết, tổng kết thấy có hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Thủ đô, có sự thống nhất cao thì nghiên cứu đưa vào Luật; nội dung trong các dự thảo luật đang trình Quốc hội xem xét, thông qua thì Luật Thủ đô cũng có thể quy định mức đặc thù cao hơn; các nội dung chưa rõ, chưa thật ổn định, còn có ý kiến khác nhau thì cần tiếp tục nghiên cứu…

Về áp dụng Luật Thủ đô, đa số ý kiến trong Ủy ban Pháp luật tán thành với quy định của dự thảo Luật và cho rằng để thực hiện có hiệu quả quy định này, đề nghị xác định rõ cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành với chính quyền thành phố Hà Nội khi xây dựng dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, vai trò của chính quyền thành phố Hà Nội và cơ chế xử lý trong trường hợp giữa Bộ, ngành và chính quyền Thành phố có ý kiến khác nhau về nội dung của chính sách; đối với nội dung Luật Thủ đô giao Chính phủ, HĐND, UBND thành phố Hà Nội quy định chi tiết hoặc giao quy định cơ chế, chính sách đặc thù cho Thành phố thì nội dung trong các văn bản này phải phù hợp với Luật Thủ đô nhưng có thể khác với quy định của các luật khác hoặc văn bản quy phạm pháp luật khác của cơ quan nhà nước cấp trên; bổ sung trách nhiệm của HĐND, UBND thành phố Hà Nội định kỳ hằng năm báo cáo cơ quan có thẩm quyền về việc ban hành các văn bản để bảo đảm cơ chế kiểm tra, giám sát. 

Ủy ban Pháp luật cơ bản tán thành việc tổ chức chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội trên cơ sở kế thừa mô hình đang được thí điểm theo Nghị quyết số 97/2019/QH14 của Quốc hội; để tiếp tục thực hiện mô hình chính quyền đô thị hiệu quả, đề nghị cần nghiên cứu, bổ sung vào dự thảo Luật quy định về đổi mới phương thức hoạt động của HĐND Thành phố và HĐND quận, thị xã. Cũng có ý kiến cho rằng, thành phố Hà Nội nên nghiên cứu, áp dụng mô hình chính quyền đô thị như tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng (không tổ chức HĐND ở quận và phường).

Ngoài ra, về phân quyền trong việc quyết định số biên chế tăng thêm (điểm b khoản 1 Điều 9), Ủy ban Pháp luật cho rằng, hiện nay biên chế trong toàn hệ thống chính trị đang được Bộ Chính trị trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và quyết định giao biên chế cho các địa phương, vì vậy, đề nghị không quy định nội dung này trong Luật…

14h16: Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật Thủ đô (sửa đổi)

Trình bày tóm tắt Tờ trình Dự án Luật Thủ đô (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long nêu rõ sự cần thiết ban hành luật. Theo đó, Luật Thủ đô (sửa đổi) là cần thiết, nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển, quản lý, bảo vệ Thủ đô tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị như Nghị quyết số 06-NQ/TW, Nghị quyết số 30-NQ/TW, đặc biệt là Nghị quyết số 15-NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó xác định xây dựng, phát triển Thủ đô “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại” và khắc phục những tồn tại, hạn chế đã được nhận diện qua hơn 09 năm thi hành Luật Thủ đô năm 2012. 

Dự án Luật Thủ đô (sửa đổi) xây dựng dựa trên 05 quan điểm chỉ đạo sau: (i) Thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển Thủ đô; (ii) Quy định các cơ chế, chính sách đặc thù cho Thủ đô bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và tuân thủ Hiến pháp năm 2013; (iii) Bám sát 09 nhóm chính sách đã được Chính phủ thông qua; (iv) Chi tiết, cụ thể hóa tối đa các cơ chế, chính sách đặc thù trong Luật để áp dụng được ngay; (v) Kế thừa, phát triển các quy định đang phát huy tác dụng tốt của Luật Thủ đô 2012 đã được thực tiễn kiểm nghiệm; luật hóa các cơ chế, chính sách đặc thù đang thí điểm cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phù hợp với Thủ đô.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, Dự thảo Luật gồm 07 chương, 59 điều (tăng 03 chương, 32 điều so với Luật Thủ đô 2012, trong đó giữ nguyên 3 Điều; sửa đổi, bổ sung 18 điều; quy định mới 38 điều.

Dự thảo quy định về chính quyền Thủ đô, trong đó, về mô hình tổ chức, thực hiện mô hình không tổ chức Hội đồng nhân dân phường ở Hà Nội theo Nghị quyết số 97 và bổ sung thành phố thuộc thành phố Hà Nội. 

 Tăng số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân (từ 95 lên 125 đại biểu), tỷ lệ đại biểu chuyên trách (từ 20% lên 25%), số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân (từ 02 lên tối đa 03); mở rộng thành phần Thường trực Hội đồng nhân dân so với Luật Tổ chức chính quyền địa phương nhằm nâng cao năng lực và tăng tính chuyên nghiệp của Hội đồng nhân dân.

 Quy định cơ cấu tổ chức của chính quyền thành phố thuộc thành phố Hà Nội (dự kiến thành lập theo Nghị quyết số 15-NQ/TW tại khu vực phía Bắc - thành phố logistics, dịch vụ - vùng Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn và phía Tây - thành phố về giáo dục, đào tạo, khoa học - vùng Hoà Lạc, Xuân Mai), với những đặc thù khác so với chính quyền quận, huyện, thị xã như tăng số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng, Ủy ban nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách, bổ sung Ban Đô thị.

Về tổ chức, bộ máy, cán bộ, công chức Thủ đô, dự thảo Luật quy định một số nội dung đặc thù: Hội đồng nhân dân Thành phố thành lập, tổ chức lại, giải thể cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính đặc thù thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, quận, huyện. Hà Nội được tăng thêm biên chế phù hợp với nhu cầu thực tế (nội dung này sẽ được báo cáo cụ thể tại mục V của Tờ trình này).

Giao Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội một số thẩm quyền như quyết định các biện pháp để giải quyết công việc đột xuất, khẩn cấp; quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án đầu tư công nhóm B, nhóm C; quyết định hỗ trợ các cơ quan trung ương để thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn; hỗ trợ các địa phương khác trong trường hợp cần thiết. 

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố thuộc thành phố Hà Nội được quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể một số cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập đặc thù; tổ chức tuyển dụng công chức cho các cơ quan, tổ chức thuộc thành phố.

Hội đồng nhân dân quận, thị xã bố trí trong dự toán chi ngân sách của Ủy ban nhân dân phường khoản chưa phân bổ từ 2% đến 4% tổng chi ngân sách phường để thực hiện một số nhiệm vụ chi như chi phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, quốc phòng, an ninh… 

Về chế độ công vụ; cơ chế thu hút, trọng dụng nhân tài; chế độ tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức Thủ đô, dự thảo luật quy định cán bộ được quản lý thống nhất từ cấp xã đến thành phố; áp dụng tiêu chuẩn chung cho cán bộ, công chức ở các cấp chính quyền. 

Quy định đối tượng thu hút, chế độ đãi ngộ nhân tài như tuyển dụng không qua thi tuyển, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo; được đảm nhiệm chức vụ quản lý, điều hành tại đơn vị sự nghiệp công lập...

Tương tự cơ chế áp dụng cho Thành phố Hồ Chí Minh, dự thảo Luật quy định chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan, đơn vị Thủ đô, một số cơ quan ngành dọc trung ương đóng trên địa bàn để thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương, với tổng mức chi không vượt quá 0,8 lần quỹ lương cơ bản của cán bộ, công chức, viên chức.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, về quy hoạch; quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, dự thảo luật quy định phân quyền từ Thủ tướng Chính phủ cho Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội được điều chỉnh cục bộ quy hoạch chung xây dựng khu chức năng, quy hoạch chung đô thị, quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật (tương tự như đang thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh). 

Về phát triển văn hoá, giáo dục và an sinh xã hội Thủ đô, xây dựng Trung tâm công nghiệp văn hóa trong theo quy hoạch; giao Hội đồng nhân dân Thành phố quy định nội dung, mức hỗ trợ cao hơn quy định hiện hành đối với nghệ nhân, người thực hành di sản văn hóa phi vật thể; việc truyền dạy, thực hành, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể… 

Về chính sách xã hội, quy định Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội quyết định bố trí ngân sách để hỗ trợ giảm nghèo, giải quyết việc làm, vay mua nhà ở xã hội; hỗ trợ công nhân, người lao động trong các khu công nghiệp vay mua nhà ở xã hội... Về chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, quy định hỗ trợ mức đóng bảo hiểm xã hội; hỗ trợ khám sức khỏe miễn phí hằng năm cho người cao tuổi thường trú trên địa bàn Thủ đô.

Dự thảo luật quy định một số ưu đãi cho khoa học, công nghệ khác với pháp luật hiện hành, trong đó có mở rộng đối tượng áp dụng hình thức khoán kinh phí so với Luật Khoa học và công nghệ. Quy định định hướng phát triển các khu công nghệ cao ở Thủ đô và một số vấn đề chung về Khu Công nghệ cao Hòa Lạc, Ban Quản lý Khu Công nghệ cao thành phố Hà Nội …

Về bảo đảm trật tự, an toàn xã hội Thủ đô, bổ sung 03 lĩnh vực mà Hà Nội được quy định mức phạt tiền cao hơn nhưng không quá 02 lần mức tiền phạt chung do Chính phủ quy định, gồm phòng cháy, chữa cháy, vệ sinh an toàn thực phẩm, quảng cáo. Quy định biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính là ngừng cung cấp dịch vụ điện, nước tại địa điểm vi phạm đối với công trình, cơ sở sản xuất, kinh doanh vi phạm trong lĩnh vực đất đai, xây dựng, nhà ở, phòng cháy, chữa cháy.

Đối với chính sách tài chính, ngân sách và đầu tư, Hà Nội được vay thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ tổ chức tài chính, tổ chức khác trong nước và từ nguồn trái phiếu Chính phủ phát hành không phụ thuộc vào hạn mức trần. Ngân sách Thành phố giữ lại tối đa các khoản thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thuộc thẩm quyền quản lý của Thành phố để tạo nguồn lực đầu tư các công trình, dự án trọng điểm, dự án PPP, giao thông công cộng, hỗ trợ di dời cơ sở, đơn vị thuộc danh mục phải di dời; tỷ lệ điều tiết cụ thể sẽ do Thủ tướng Chính phủ quyết định hằng năm phù hợp với mục tiêu sử dụng nguồn thu này.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp xin ý kiến Quốc hội về một số vấn đề liên quan đến quy định về biên chế cán bộ, công chức, số lượng viên chức của thành phố Hà Nội (điểm b khoản 1 Điều 9). Theo đó, đề nghị tiếp tục xin ý kiến. Cụ thể như sau:

Căn cứ yêu cầu của thực tiễn của Thủ đô, dự thảo Luật quy định trên tổng số biên chế cán bộ, công chức, viên chức được cơ quan có thẩm quyền giao, thành phố Hà Nội được tăng thêm biên chế từ nguồn biên chế dự phòng căn cứ vào khung danh mục vị trí việc làm, quy mô dân số, thực trạng khối lượng công việc, mức độ hiện đại hóa trang thiết bị, phương tiện làm việc, đặc điểm an ninh, chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn và khả năng cân đối ngân sách của thành phố Hà Nội để bảo đảm các chi phí cho biên chế tăng thêm. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội đề xuất cơ quan có thẩm quyền quyết định cụ thể về số lượng biên chế tăng thêm.

Quy định này bảo đảm tính linh hoạt, chủ động cho thành phố Hà Nội trong việc quyết định biên chế. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng quy định này khác với quy định tại khoản 2 Điều 4 Quy định số 70-QĐ/TW ngày 18/7/2022 của Ban Chấp hành trung ương về quản lý biên chế của hệ thống chính trị, theo đó Bộ Chính trị “Quyết định tổng biên chế và biên chế dự phòng của hệ thống chính trị theo nhiệm kỳ 5 năm và khi cần thiết; quyết định giao biên chế cho các cơ quan, tổ chức được giao thẩm quyền quản lý biên chế”. Do vậy, Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.

14h14: Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024

Sau khi nghe Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết này.

Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 444 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm tỷ lệ  89,88%). Như vậy, với đa số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết về phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024.

14h01: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024

Trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, Chính phủ chưa có phương án phân bổ đối với khoản 2.850 tỷ đồng chi thường xuyên của Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG). Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo các cơ quan phối hợp chặt chẽ, làm rõ về khoản chưa phân bổ này. Theo đó, các cơ quan báo cáo các cơ quan chức năng đã có nhiều văn bản đôn đốc các Bộ, cơ quan chủ CTMTQG. 

Tuy nhiên, đến thời điểm tổng hợp báo cáo để trình Quốc hội xem xét, quyết định, một số nội dung, nhiệm vụ thực hiện CTMTQG giao cho các Bộ, cơ quan trung ương thực hiện chưa đầy đủ hồ sơ, thủ tục. Trong tổ chức thực hiện, khi có đầy đủ thủ tục, cơ quan chức năng sẽ phối hợp với các cơ quan chủ Chương trình trình cấp có thẩm quyền phương án phân bổ theo quy định.

UBTVQH cho rằng, các CTMTQG nhằm nâng cao đời sống người dân, nhất là những người yếu thế. Nếu không bố trí khoản chi trên, việc thực hiện các CTMTQG có thể tiếp tục bị chậm trễ, dẫn đến ảnh hưởng đến người dân.

Do vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho phép bố trí 2.850 tỷ đồng chi thường xuyên của CTMTQG và đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện thủ tục, hồ sơ để phân bổ chi tiết, bảo đảm đúng quy định pháp luật, công khai, minh bạch.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho rằng, năm 2024 là năm thứ hai trong thời kỳ ổn định ngân sách 2023-2025. Dự toán chi cân đối ngân sách địa phương (NSĐP) năm 2024 được xác định trên cơ sở dự toán thu cân đối NSĐP được hưởng theo phân cấp, số bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương (NSTW) cho NSĐP (nếu có) và các chế độ chính sách theo quy định. Tuy nhiên, với dự toán NSNN thu năm 2024 Chính phủ trình Quốc hội, có tới 30/63 địa phương giảm thu cân đối NSĐP 19,2 nghìn tỷ đồng, trong khi khả năng phấn đấu tăng thu là rất khó khăn do đa số là tỉnh điều kiện phát triển kinh tế còn hạn hẹp.

Để tạo sự chủ động của các địa phương và để có thêm nguồn lực đáp ứng các nhiệm vụ chi quan trọng nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn, cần thiết có sự hỗ trợ của NSTW (cả chi đầu tư xây dựng cơ bản và chi thường xuyên); do đó, căn cứ quy định tại khoản 7, Điều 9 Luật NSNN, khả năng cân đối dự toán NSNN năm 2024, tại Báo cáo số 43/BC-CP ngày 21/10/2023 về phân bổ dự toán NSTW năm 2024, Chính phủ đã trình Quốc hội tăng số bổ sung cân đối cho các địa phương 2% so với dự toán năm 2023. 

Đồng thời, yêu cầu các địa phương căn cứ điều kiện thực tế và khả năng cân đối của địa phương, địa phương chủ động bố trí cơ cấu chi NSĐP năm 2024 theo nguyên tắc triệt để tiết kiệm chi thường xuyên để tập trung nguồn lực tăng chi đầu tư phát triển, nhằm phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo và các chế độ, chính sách do Trung ương ban hành, yêu cầu địa phương cân đối nguồn thực hiện. 

Các tỉnh nhận trợ cấp cân đối từ ngân sách trung ương sẽ khó khăn về nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ chi nêu trên, cần có mức hỗ trợ tăng thêm này. Việc xử lý này tương tự như đề xuất của Chính phủ tăng 2% chi bổ sung cân đối từ NSTW cho NSĐP và đã được Quốc hội quyết định đối với dự toán năm 2019 và năm 2020. 

Theo đó, tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ như phương án Chính phủ trình, tăng bổ sung cân đối 2% cho các địa phương. Nội dung này đã được thể tại khoản 2 Điều 1 của Dự thảo Nghị quyết.

Đối với ý kiến đề nghị cân nhắc phân bổ theo tỷ lệ % số chi theo định mức trên đầu dân số cho các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long theo cả 02 tiêu chí để giảm bớt khó khăn, UBTVQH cho rằng, theo quy định tại Nghị quyết số 01/2021/UBTVQH15 của UBTVQH quy định về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022, theo đó, định mức phân bổ được xây dựng lấy tiêu chí dân số là tiêu chí chính chia theo 04 vùng (vùng đặc biệt khó khăn, vùng khó khăn, vùng đô thị, vùng khác còn lại) trong đó đã ưu tiên vùng đặc biệt khó khăn, vùng khó khăn; đồng thời, có nguyên tắc ưu tiên các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long hoặc dân số thấp.

Tuy nhiên, vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn nhiều khó khăn về nhiều tiêu chí, việc chỉ được áp dụng 01 tiêu chí có mức cao nhất có thể chưa đáp ứng được nhu cầu của các địa phương. Trong bối cảnh NSNN, nhất là NSTW còn nhiều khó khăn như hiện nay, nhiều nhiệm vụ chi cần được ưu tiên nhưng nguồn lực hạn chế, trước mắt, UBTVQH chưa quy định tại Dự thảo Nghị quyết nội dung này. 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ nghiên cứu, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định khi xây dựng nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách mới tiếp theo để trình UBTVQH xem xét, quyết định.

14h00: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp

Điều hành nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, theo chương trình, chiều 10/11, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết về phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024. Tiếp đó, Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Thủ đô (sửa đổi); dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi).

Mở đầu phiên họp, Quốc hội nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024.

 

Cổng Thông tin điện tử Quốc hội

Các bài viết khác