ĐOÀN ĐBQH TỈNH LÂM ĐỒNG THẢO LUẬN SÔI NỔI VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA, TIỀN TỆ HỖ TRỢ TRIỂN KHAI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

04/01/2022

Chiều 04/01, Quốc hội tiếp tục chương trình làm việc của kỳ họp bất thường lần thứ nhất để tập trung thảo luận ở tổ về dự thảo Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.


ĐBQH Trần Đình Văn – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng phát biểu góp ý Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ triển khai phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội

Tại hội trường Văn phòng Đoàn ĐBQH Lâm Đồng, tham gia thảo luận về nội dung quan trọng này, Đại biểu Trần Đình Văn – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH khóa XV tỉnh Lâm Đồng đã tập trung góp ý dự thảo Nghị quyết về giải pháp tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội: Các giải pháp tài khoá, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được đưa vào dự thảo Nghị quyết khá tổng thể, toàn diện, đầy đủ từ quan điểm, mục tiêu, các giải pháp, phương án huy động nguồn lực, thí điểm cơ chế đặc thù, tổ chức thực hiện và giám sát. Do tính chất cấp bách của tình hình thực tiễn, đòi hỏi nội dung các cơ chế đặc thù trong dự thảo Nghị quyết cần được quy định cụ thể, rõ ràng, bảo đảm thi hành được ngay, không phải “chờ” văn bản hướng dẫn thi hành. 

Về các giải pháp tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (Điều 3 của dự thảo Nghị quyết): Về Điều 3 của dự thảo đề nghị Chính phủ cần: (1) Xác định nhu cầu kinh tế từ doanh nghiệp, người dân, việc làm, lao động để đưa ra khung chính sách cho phù hợp hơn; (2) Cần lượng hóa, đánh giá tác động thêm về lạm phát và (3) Cần có sự phối hợp tốt hơn nữa giữa giải pháp “tài khóa” với giải pháp “tiền tệ”. 

Đối với giải pháp tài khóa quy định tại khoản 1, Điều 3. Còn có nhiều điểm chưa hợp lý khi quy định mức giảm thuế giá trị gia tăng (điểm a, khoản 1 của Điều 3). Cụ thể như sau: 

Thứ nhất, mức giảm có thể thấp hơn nữa, việc giảm từ 10% xuống còn 9% là chưa thực sự phù hợp, Chính phủ cần có sự đánh giá lại ở điểm này. 

Thứ hai, điều kiện giảm đối với nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% là thiếu chính xác bởi vì nhiều ngành dịch vụ ngân hàng hiện nay không áp dụng mức 10%.

Do đó, cân nhắc mở rộng phạm vi và tăng mức giảm, đặc biệt, giảm thuế giá trị gia tăng mạnh hơn cho ngành dịch vụ, mặt hàng thiết yếu. Bởi vì, làm được điều này, chúng ta vừa kích thích thị trường, vừa hỗ trợ cho cả cung - cầu, mang lại giá trị cho xã hội rất tốt. Hơn nữa, đây cũng là giải pháp dễ thực hiện hơn so với giải pháp khác.

Bên cạnh đó, chính sách tài khóa cần xác định rõ đối tượng được ưu tiên vào thời điểm nhất định. Ở giai đoạn hiện tại, tập trung cho y tế và phát triển kết cấu hạ tầng là nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể như sau: 

Thứ nhất, chi cho phòng, chống dịch là điều kiện tiên quyết để phục hồi kinh tế và do đó là khoản chi tất yếu. Tuy nhiên, chi cho phòng, chống dịch cần tính thêm khoản chi cho mua vắc-xin (tới đây không còn được viện trợ) và mua thuốc chữa trị Covid-19. Khoản chi này nên tách riêng thành một điểm riêng, không nên nằm trong quy định về chi đầu tư phát triển. Cùng với đó, cần phải tiến tới xã hội hóa tiêm vaccine và điều trị Covid để giảm gánh nặng cho Ngân sách nhà nước, đồng thời, phải chủ trương xem Covid là một bệnh đặc hữu, từ đó, cho phép sự vào cuộc của y tế tư nhân.

Thứ hai, đây là thời điểm vàng cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng thiết yếu như giao thông vận tải. Tận dụng lưu lượng đi lại của khách du lịch và người dân ít, nên tạo đột phá trong kết cấu hạ tầng. Với định hướng đó, cần xác định tăng đầu tư công tập trung cho phát triển kết cấu hạ tầng, từ đó, có thể tạo ra công ăn việc làm, tạo ra dịch vụ cho xã hội, cuối cùng, sẽ đạt được đáp ứng mục tiêu kích cầu.

Về cho phép áp dụng chỉ định thầu (khoản 1 Điều 5): Đấu thầu rộng rãi về lý thuyết là hình thức tốt được áp dụng nhằm lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực; tính minh bạch cao và khả năng hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho thấy việc đấu thầu chưa chắc đã chọn được nhà đầu tư tốt, đấu thầu không phải là chìa khóa vạn năng. Hiện tượng quân xanh - quân đỏ, sự bất công giữa bên trúng thầu và người thực hiện thầu là những vấn đề tiêu cực từ “đấu thầu” đã được minh chứng trong thời gian qua. Việc chỉ định thầu trong một số trường hợp là cần thiết nếu thực sự cần có tư duy mạnh dạn đổi mới, hoàn thành các dự án trọng điểm, cấp bách. Tuy nhiên, mặt trái của chỉ định thầu là: (1) Tiêu cực (cơ chế xin - cho, lợi ích nhóm); (2) Dễ phát sinh tình trạng thông thầu; (3) Khó thực hiện (đặc biệt là đối với dự án giao thông từ nhiều nguồn, không rõ chỉ định thầu như thế nào) và (4) Không công bằng, không bình đẳng trong việc thực hiện dự án đầu tư. Việc “đấu thầu” hay “chỉ định thầu” đều có ưu điểm và hạn chế, việc lựa chọn hình thức nào phải cân nhắc thật kỹ.

Trưởng Đoàn ĐBQH Lâm Đồng cũng bày tỏ quan điểm đồng ý với phương án “chỉ định thầu” trong dự thảo, nhưng không coi là hình thức thay thế “đấu thầu” một cách hoàn toàn. Cụ thể:

(1) Chỉ nên áp dụng đối với một số dự án và phải đưa ra tiêu chí, điều kiện rất cụ thể, phạm vi loại dự án được áp dụng, giới hạn thời gian áp dụng nhằm hạn chế việc chỉ định thầu tràn lan (việc chỉ định thầu đối với gói thầu tư vấn, gói thầu phục vụ và gói thầu thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư có thể khả thi, tuy nhiên, chỉ định thầu xây lắp là không cần thiết). (2) Cho phép chủ đầu tư được quyền chọn: (i) theo hình thức chỉ định hay (ii) hình thức khác. Việc cho quyền chọn sẽ thúc đẩy hiệu quả và thu hút các nhà đầu tư có năng lực thực sự. (3) Đối với yêu cầu tiết kiệm 5%, việc xác định 5% là thiếu cơ sở và không cần thiết. Một mặt, tờ trình chưa thể hiện được các căn cứ để xác định mức 5%, trong khi đó, việc đưa ra một con số cụ thể như vậy dễ dẫn đến tình trạng: bên tư vấn và nhà đầu tư có thể thiết kế khung chương trình lên cao để đảm bảo tiết kiệm, đội giá để vừa thỏa mãn điều kiện vừa đảm bảo thu lợi. Do vậy, đề nghị bỏ quy định cụ thể 5%, trong trường hợp vẫn muốn giữ, đề nghị làm rõ cơ sở để tính toán; cần đưa ra bộ tiêu chí, so sánh để đối chiếu và phát huy vai trò của các tập đoàn tư nhân trong vấn đề này. (4) Việc thưởng tiến độ là cần thiết nhằm động viên, thúc đẩy nhà đầu tư hoàn thành sớm dự án, đóng góp cho hiệu quả xã hội. Tuy nhiên: Việc thưởng phải lấy chất lượng của công trình làm trọng. Việc thưởng là cần thiết nhưng không nên thưởng ngay, cần phải quy định thời hạn trao thưởng sau khi công trình có thời gian đi vào vận hành. Về xem xét thưởng tiến độ cho các nhà thầu hoàn thành sớm tiến độ dự án từ 3 tháng trở lên, đây là con số thiếu chính xác. Bởi lẽ, thời gian để được chỉ định thầu là sớm hơn 6 tháng theo đề xuất trong đề án, như vậy, để được xem xét thưởng tiến độ, nhà thầu phải hoàn thành sớm tiến độ là 9 tháng (6 tháng đủ điều kiện + 3 tháng như đề xuất của Chính phủ).

ĐBQH – Tiến sĩ Trịnh Thị Tú Anh tham gia phát biểu góp ý thảo luân tại Tổ về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ triển khai phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội

Phát huy tinh thần trách nhiệm, trí tuệ, ĐBQH - Tiến sĩ Trịnh Thị Tú Anh phát biểu đề xuất một số khuyến nghị sau: 

Một là, hoạt động điều hành Chính sách tiền tệ nên được tiếp tục triển khai trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác để có thể khắc phục những tác động bất lợi mà dịch Covid-19 gây ra, hỗ trợ đà phục hồi kinh tế nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ là “vừa phòng, chống dịch, vừa đảm bảo phát triển kinh tế”. Do các yếu tố về lạm phát, thanh khoản, lợi tức trái phiếu vẫn đang khá thuận lợi, nên NHNN có thể tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát, tạo điều kiện giảm chi phí vay vốn cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế. 

Hai là, cần tiếp tục vận dụng linh hoạt các công cụ CSTT nhằm đảm bảo và duy trì thanh khoản hệ thống, đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, thanh khoản góp phần ổn định thị trường và phục hồi tăng trưởng trước các tác động khó lường của đại dịch Covid-19. Trong năm 2020, lãi suất cơ bản được Ngân hàng Nhà nước điều hành linh hoạt trên nền tảng 3 lần giảm lãi suất và lãi suất trong 7 tháng đầu năm 2021 vẫn tiếp tục duy trì ở mức thấp. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước có thể cân nhắc tiếp tục các biện pháp hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức tín dụng để khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay khách hàng hoạt động trong những lĩnh vực này. Thông qua những kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng thúc đẩy nhanh hơn quá trình phục hồi của nền kinh tế Việt Nam. Dịch bệnh có thể sẽ kéo dài, đòi hỏi sự chủ động thích nghi thông qua chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ, là chìa khóa để phát triển kinh tế trong trạng thái “bình thường mới”. Ngành ngân hàng đã có nhiều giải pháp thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, hiện đại hóa hệ thống thanh toán và hoạt động ngân hàng, đẩy mạnh áp dụng các giao dịch “phi tiếp xúc”. 

ĐBQH Nguyễn Tạo - Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng phát biểu chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH

Kết thúc phiên thảo luận buổi chiều, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH Nguyễn Tạo tham gia phát biểu: Dự thảo Nghị quyết gồm 8 Điều, cơ bản cá nhân tôi thống nhất cao với sự cần thiết thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH đây là chính sách cấp thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Với những vấn đề đặt ra hiện nay đối với chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, cùng với những kinh nghiệm quốc tế, chúng ta thấy rằng: Thứ nhất, các chính sách cần tập trung hướng đến làm thế nào để hồi phục và phát triển nền kinh tế một cách bền vững trong bối cảnh “sống chung với COVID-19”, điều này phù hợp với chiến lược mới của Chính phủ là “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” thay vì chiến lược “Zero COVID-19”. 

Thứ hai, do dư địa chính sách dần thu hẹp, các chính sách mới cần đưa ra các giải pháp cụ thể hóa, cũng như nguồn lực ưu tiên đến khu vực doanh nghiệp, tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp phục hồi và phát triển trong đại dịch, tạo điều kiện để thu hút thị trường lao động, hỗ trợ an sinh xã hội (thông qua doanh nghiệp), đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động. 

Để đảm bảo mục tiêu của Nghị quyết đã đề ra, Phó Trưởng Đoàn  nhận định và đề nghị xem xét cân nhắc thêm một số vấn đề như sau: 

Thứ nhất: Về Quy mô của các chính sách hỗ trợ được ban hành, Theo Tờ trình của Chính phủ, tổng quy mô hỗ trợ của Chương trình gồm hỗ trợ tài khóa 291.000 tỷ đồng, hỗ trợ tiền tệ khoảng 46.000 tỷ đồng, hỗ trợ qua các quỹ khác 10.000 tỷ đồng và một số giải pháp hỗ trợ dự kiến triển khai… nhưng chưa được tính toán cụ thể. 

Đề nghị đánh giá tác động cụ thể hơn, đánh giá khả năng hấp thụ của nền kinh tế với các chính sách, đánh giá nhiều chiều việc thực hiện các chính sách nêu trên đến tăng trưởng kinh tế, cân đối vĩ mô, lạm phát, nợ xấu, ở đây chưa thể hiện được tác động đến lạm phát cụ thể; chưa có đánh giá đối với tình hình nợ xấu trong thời gian tới, vì vậy cần tính toán kỹ dư địa chính sách trong thời gian triển khai Chương trình và trong cả giai đoạn 2021-2025 để làm rõ khả năng ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và an ninh tài chính quốc gia. 

Thứ hai: Về áp dụng thí điểm một số cơ chế đặc thù, cần cân nhắc kỹ lưỡng, đánh giá tác động cụ thể của các cơ chế, đồng thời đưa ra phương án cụ thể để thực hiện một cách đồng bộ, kết hợp chặt chẽ giữa trách nhiệm giám sát của các cơ quan có liên quan, để đảm bảo việc thực hiện các cơ chế đặc thù phải phát huy hiệu quả tối đa, công khai minh bạch, đảm bảo không phát sinh tiêu cực, không phát sinh hiện tượng “đầu cơ chính sách”, tham nhũng và lợi ích nhóm.

Thứ ba: Về cách thức triển khai thực hiện, cần rút kinh nghiệm từ việc triển khai các chính sách hỗ trợ trước đây, đề nghị Chính phủ khi tiến hành triển khai chủ động, linh hoạt tính toán cả về quy mô và thời gian thực hiện, đảm bảo tính nhanh, gọn, đơn giản, hiệu quả cao, áp dụng tùy theo diễn biến dịch bệnh và tốc độ phục hồi của nền kinh tế, để tránh trường hợp như một số nước đã bổ sung ngân sách nhiều lần hoặc tung ra các gói kích thích mới khi nền kinh tế vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng xấu bởi dịch bệnh như Nhật Bản, Thái Lan, Singapore…Mức tăng hỗ trợ hàng tháng của các hộ nghèo, hộ cận nghèo, từ 30% kên 40%, cận nghèo từ 25 – 30%, đối tượng khác từ 10% lên 20%. Gói hỗ trợ khó khăn khác tăng thêm 5%. 

Để giải pháp tài khóa, tiền tệ cho công tác hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội phát huy hiệu quả và đảm bảo được mục tiêu đề ra, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH Nguyễn Tạo đề nghị xem xét cân nhắc thêm một số vấn đề như sau:

Thực tế hiện nay đối tượng bị ảnh hưởng đến thu nhập bởi dịch Covid-19 thực trạng cho thấy đã nghèo còn tiếp tục nghèo hơn, tuy nhiên theo quy định tại Nghị định 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021 của Chính phủ, quy định về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 – 2025, thì chuẩn nghèo ở nông thôn tăng từ 700.000 đồng lên 1,5 triệu đồng/tháng (Mức đóng BHXH tự nguyện thấp nhất là 330.000 đồng/ tháng, mức này tăng 176.000 đồng/tháng so với mức đóng BHXH tự nguyện của năm 2021). Đề nghị Quốc hội xem xét tăng mức hỗ trợ hàng tháng cho các đối tượng chuẩn nghèo, bị ảnh hướng đến thu nhập bởi dịch bệnh Covid-19 theo phương án như sau: Tăng mức hỗ trợ đóng BHXH tự nguyện, đề xuất 2 Phương án: Phương án 1: tăng 10, Người thuộc hộ nghèo: từ 30% lên 40%; Người thuộc hộ cận nghèo: từ 25% lên 35%; Người thuộc đối tượng khác: từ 10% lên 20%. Phương án 2: Tăng 5 %, Người thuộc hộ nghèo: từ 30% lên 35%; Người thuộc hộ cận nghèo: từ 25% lên 30%; Người thuộc đối tượng khác: từ 10% lên 15%. Và đề nghị mức đóng BHXH tự nguyện tối thiểu: 20 % x 1.500.000đ = 300.000 đ/tháng

Đồng thời bổ sung nội dung này, đưa vào Nghị quyết của Quốc hội về giải pháp chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ cho chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, để luôn gắn liền với phục hồi phát triển kinh tế xã hội gắn với công tác nâng cao và đảm bảo tính an sinh xã hội cho Nhân dân.

Ngày 06/01/2022, Quốc hội tiếp tục thảo luận ở tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự. 

(Theo Báo điện tử Lâm Đồng)