Theo đó, triển khai chủ trương của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhằm đánh giá khách quan, toàn diện, thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong năm 2021, đề xuất khuyến nghị các chính sách phù hợp nhằm hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khó khăn đồng thời chuẩn bị những điều kiện cơ bản để phục hồi và phát triển bền vững trong những năm tiếp theo, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội được giao chủ trì phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021 với chủ đề: Phục hồi và phát triển bền vững.
Uỷ viên Trung ương Đảng, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường
Tham dự và chỉ đạo Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021, trân trọng giới thiệu đồng chí Vương Đình Huệ - Ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch Quốc hội chủ trì Diễn đàn; đồng chí Trần Thanh Mẫn - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội; đồng chí Trần Tuấn Anh - Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương; đồng chí Nguyễn Xuân Thắng - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; đồng chí Lê Minh Khái - Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Nguyễn Khắc Định - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội; đồng chí Nguyễn Đức Hải - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Thượng tướng Trần Quang Phương - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội.
Tham dự Diễn đàn kinh tế còn có các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; các đồng chí Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội; lãnh đạo các Ban, bộ ngành và đoàn thể ở trung ương; các đồng chí lãnh đạo các địa phương; đại diện Thường trực Hội đồng Dân tộc, một số Ủy ban của Quốc hội.
Về phía khách mời quốc tế tham dự Diễn đàn có: Ông Andrew Jeffries - Giám đốc Ngân hàng Phát triển châu Á tại Việt Nam; Ông Francois Painchaud, Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế tại Việt Nam; Ông Jacques Morisset - Kinh tế trưởng Ngân hàng thế giới tại Việt Nam; Bà Mashimot Makiko - Chuyên gia về Việc Làm – Văn phòng ILO Khu vực châu Á Thái Bình Dương; cùng các vị đại diện Đại sứ quán một số nước, các chuyên gia kinh tế, đại diện các doanh nghiệp, cán bộ của các tổ chức quốc tế các bộ, ban ngành cơ quan trung ương, các chuyên gia, nhà quản lý, nhà khoa học nhà kinh tế tại các điểm cầu trong nước và quốc tế.
08h05: Phát biểu khai mạc của Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
Phát biểu khai mạc Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nồng nhiệt hoan nghênh và nhiệt liệt chào mừng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các ban, bộ, ngành trung ương và các địa phương, các vị đại sứ đại diện các cơ quan ngoại giao và các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các vị đại biểu Quốc hội các thời kỳ, các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nhân… đã đến tham dự Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021.
Theo Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, trong 2 năm qua, dịch bệnh COVID-19 đã gây ra thiệt hại nặng nề về kinh tế, xã hội trên phạm vi toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Trong năm 2020, Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch bệnh và là một trong những nước có tăng trưởng dương cao nhất thế giới. Năm 2021, Việt Nam đã có nhiều giải pháp đổi mới để thực hiện nhiệm vụ kép, trong đó có cả phòng chống dịch COVID-19 và phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đợt bùng phát dịch bệnh lần thứ 4 với biến chủng Delta đã gây thiệt hại rất nặng nề, làm ảnh hưởng đến tình hình thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội.
Toàn cảnh Diễn đàn
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho tiết, để đối phó với dịch bệnh, khắc phục những thiệt hại và tác động của dịch bệnh, phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, các nước trên thế giới đã đưa ra nhiều gói giải pháp về tài khóa, tiền tệ khác nhau. Việt Nam đã sử dụng linh hoạt và khá đồng bộ các chính sách về tài khóa, tiền tệ cũng như các chính sách vĩ mô khác nhằm khắc phục thiệt hại và hỗ trợ phục hồi kinh tế trong đại dịch. Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết, quyết định các khung khổ về chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, tài chính ngân sách, vay và trả nợ công, đầu tư công và kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2020 - 2025. Đồng thời, Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV vừa qua đã ban hành Nghị quyết giao Chính phủ xây dựng và triển khai theo thẩm quyền Chương trình tổng thể về phòng, chống dịch COVID-19 theo phương châm "thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch bệnh", đồng thời xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình tổng thể về phục hồi và phát triển kinh tế. Nghị quyết của Quốc hội cũng giao Chính phủ xây dựng các gói chính sách về tài khóa và tiền tệ để hỗ trợ 02 chương trình này, phục vụ cho mục tiêu phòng, chống dịch COVID-19 cũng như phục hồi phát triển kinh tế để trình Quốc hội xem xét.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cũng cho biết, tại diễn đàn, các diễn giả, các nhà khoa học sẽ cập nhật, đánh giá những vấn đề mới nhất về tình hình phòng, chống dịch bệnh hiện nay trên toàn thế giới; phân tích, đánh giá, dự báo xu hướng và tác động của dịch bệnh, thực trạng của nền kinh tế thế giới hiện nay, xu hướng của thời gian tới-giai đoạn toàn cầu hóa và hội nhập, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập rất sâu và rộng với nền kinh tế thế giới. Đồng thời, các diễn giả sẽ chia sẻ kinh nhiệm quốc tế về phòng, chống dịch bệnh và phục hồi phát triển kinh tế cũng như những gợi ý chính sách, những ý kiến đánh giá thực trạng nền kinh tế Việt Nam, những kiến nghị đề xuất cho chương trình phục hồi kinh tế xã hội, các gợi ý chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ để hỗ trợ cho phục hồi và phát triển kinh tế xã hội.
Một nội dung rất quan trọng nữa của Diễn đàn là các đại biểu, các chuyên gia sẽ trao đổi và giải đáp câu hỏi: huy động nguồn lực từ đâu? Nhất là trong điều kiện thị trường vốn trung và dài hạn của Việt Nam còn hạn chế, chúng ta sẽ phân bổ nguồn lực vào những mục tiêu cụ thể nào? Trên cơ cở kinh nghiệm quốc tế của Việt Nam, giải đáp được câu hỏi hấp thụ năng lực của nền kinh tế, trong điều kiện nền kinh tế còn một số điểm nghẽn, vướng mắc…
Theo Chủ tịch Quốc hội, ''Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021: Phục hồi và Phát triển bền vững'' có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm góp phần làm rõ thêm các luận cứ khoa học và thực tiễn, kinh nghiệm quốc tế để Quốc hội, Chính phủ xem xét, giải quyết các gói chính sách, giải pháp về tài khóa và tiền tệ, vừa đáp ứng được yêu cầu phòng, chống dịch COVID-19, vừa hỗ trợ cho mục tiêu phục hồi phát triển kinh tế và xã hội, nhằm cụ thể hóa chủ trương đã được nêu tại Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 Khóa XIII của Đảng và Nghị quyết Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV, không chỉ góp phần hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế xã hội của năm 2022 mà cho cả nhiệm kỳ 5 năm theo những mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cũng nêu rõ, đây là diễn đàn mở, ngoài hai điểm cầu tại Trung ương, còn kết nối đến 57 điểm cầu khác trong nước và kết nối 3 điểm cầu quốc tế là Mỹ, Pháp, Thái Lan. Quốc hội, các cơ quan của Đảng, Chính phủ rất muốn lắng nghe những ý kiến tâm huyết, cởi mở, toàn diện đến từ những người thực thi chính sách và những người tham gia hoạch định chính sách.
08h25: TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính- tiền tệ Quốc gia trình bày tham luận “Một số gợi ý chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội”.
TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính- tiền tệ Quốc gia
Tham luận tập trung đánh giá các tác động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế thế giới và Việt Nam; kinh nghiệm quốc tế về phòng, chống dịch và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp; gợi ý chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội; nguồn lực và huy động nguồn lực; đánh giá tác động chính sách và một số kiến nghị.
TS.Cấn Văn Lực cho rằng, đại dịch COVID-19 đã tác động mạnh đến kinh tế thế giới năm 2020; kinh tế thế giới suy thoái sâu, giảm; một số quốc gia phục hồi khá nhanh, nhưng không đồng đều và còn nhiều rủi ro; lạm phát dự báo gia tăng 2021-2022 sẽ dịu dần từ 2023; rủi ro, thách từ thức từ dịch Covid-19 còn phức tạp (rủi ro địa chính trị; lạm phát tăng, giá cả tăng; thu hẹp các gói hỗ trợ (tapering) và tăng lãi suất; lợi nhuận biên của doanh nghiệp giảm…).
Đưa ra các gợi ý chính sách đối với Việt Nam, TS.Cấn Văn Lực nhấn mạnh quan điểm và mục tiêu của chính sách phải hỗ trợ cả tổng cung và tổng cầu và thực hiện đa mục tiêu, có sự phối hợp linh hoạt, chặt chẽ, hài hòa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác. Bên cạnh đó, các chính sách được ban hành cũng cần bảo đảm bám sát chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước; có quy mô đủ lớn, thời gian đủ dài; có trọng tâm, trọng điểm; khả năng khả thi và triển khai nhanh.
Về phạm vi của chính sách, TS.Cấn Văn Lực cho rằng, các nhóm chính sách cần đảm bảo và nâng cao năng lực y tế; giảm chi phí, giãn, hoãn nghĩa vụ tài chính, tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn của doanh nghiệp; an sinh xã hội…v.v. Thời gian thực hiện của chính sách chủ yếu trong giai đoạn 2022-2023. Đối tượng trọng tâm của chính sách lao động và người sử dụng lao động. Trong đó phải đáp ứng một trong các tiêu chí cơ bản như có khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng, có khả năng phục hồi; hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, chưa thể bố trí nguồn thay thế, thuộc những lĩnh vực, dự án ưu tiên phát triển hướng đến bao trùm, bền vững (như y tế, giáo dục, nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cơ sở hạ tầng, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…). Các dự án cơ sở hạ tầng: liên kết vùng, trọng điểm, có tính lan tỏa; trong danh mục đầu tư công và đã chuẩn bị xong thủ tục đầu tư; dự án dở dang, thiếu vốn tạm thời cần bổ sung…v.v.
Về chi tiết chính sách tài khóa, TS.Cấn Văn Lực đề xuất tiếp tục giảm thuế VAT, giảm phí bảo hiểm xã hội, thuế bảo vệ môi trường, giảm thuế, phí trước bạ ô tô trong nước, có bảo lãnh vay vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, gói hỗ trợ lãi suất, cùng với đó là ứng trước các chi phí như tiền lương, phòng chống dịch cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đầu tư cơ sở hạ tầng thì cần số cụ thể cần rà soát; ưu tiên các dự án liên kết vùng, trọng điểm, có tính lan tỏa, trong danh mục đầu tư công và đã chuẩn bị xong thủ tục đầu tư; dự án dở dang, thiếu vốn tạm thời (cả vốn đối ứng dự án nguồn ODA) cần bổ sung.
Về chi tiết chính sách hỗ trợ, TS.Cần Văn Lực nêu rõ, tiếp tục thực hiện Thông tư 14 của Ngân hàng Nhà nước; sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở (cả tỷ lệ dự trữ bắt buộc phù hợp) để hỗ trợ các tổ chức tín dụng duy trì lãi suất ở mức thấp; cho vay tái cấp vốn các tổ chức tín dụng để cho vay nhà ở; nghiên cứu giữ nguyên tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn; linh hoạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức 13-14% trong năm 2022-2023; tiếp tục hoàn thiện thể chế, quy định để các tổ chức tín dụng phi ngân hàng (gồm cả Fintech…) tham gia cho vay tiêu dùng an toàn, lành mạnh; góp phần kích cầu tiêu dùng lành mạnh); đề xuất phương thức luật hóa xử lý nợ xấu…v.v.
Ngoài ra, TS.Cấn Văn Lực cũng đề nghị đối với các chính sách an sinh xã hội cần triển khai hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động ngoại tỉnh đến làm việc tại 4 vùng kinh tế trọng điểm; hỗ trợ đào tạo nghề. Cùng với đó là chính sách hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Nhấn mạnh nguồn lực và huy động nguồn lực thực hiện chính sách là điều quan trọng, TS.Cấn Văn Lực cho rằng cần phải chấp nhận thâm hụt ngân sách có thể tăng thêm 1 điểm % mỗi năm trong 2022-2023; đồng thời thực hiện tiết giảm chi phí, đẩy mạnh việc cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp Nhà nước, phát hành trái phiếu chính phủ, rà soát các quỹ ngoài ngân sách…
Khẳng định vai trò của tổ chức thực hiện, TS.Cấn Văn Lực đề nghị cần hết sức quan tâm tháo gỡ các rào cản thể chế để tăng khả năng hấp thụ, mới đảm bảo các chính sách phát huy hiệu quảtác động chính sách, kiểm soát rủi ro. Ngoài ra cần tính toán tác động và có giải pháp kiểm soát rủi ro các cân đối lớn (nợ công, thâm hụt NS, nghĩa vụ trả nợ…); kiểm tra, giám sát chống lãng phí, lợi ích nhóm…v.v (Chi tiết tham luận ở file đính kèm)
08h45: Ông Nguyễn Minh Cường, Kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển Châu Á tại Việt Nam đề cập về "Phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách với Việt Nam".
Ông Nguyễn Minh Cường - Kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển Châu Á tại Việt Nam.
Nhìn lại kinh nghiệm của các nước châu Á trong việc thực hiện chính sách tài khóa ứng phó với những tác động bất lợi từ đại dịch COVID-19, qua đó rút ra một số hàm ý chính sách cho Việt Nam, ông Nguyễn Minh Cường - Kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển Châu Á tại Việt Nam đưa ra 5 nhóm giải pháp chủ yếu.
Thứ nhất, do khủng hoảng kinh tế - xã hội lần này xuất phát từ dịch bệnh COVID-19 mà không phải xuất phát từ khủng hoảng kinh tế - tài chính, do vậy, về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, để xử lý triệt để thì các giải pháp chuyên môn đối với y tế vẫn mang tính chất quyết định và chủ yếu, còn chính sách kinh tế vĩ mô là các công cụ mang tính hỗ trợ.
Thứ hai, trong bối cảnh dịch bệnh vẫn còn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; dư địa tài khóa được củng cố trong các năm gần đây, an toàn nợ công vẫn được đảm bảo. Trong ngắn hạn, Việt Nam có thể chấp nhận mức bội cao hơn và nợ công tăng trong giai đoạn 2021-2023 để hỗ trợ nền kinh tế. Tuy nhiên, về dài hạn hơn, khi nền kinh tế đã dần phục hồi, vai trò hỗ trợ của chính sách tài khóa cũng giảm dần, cần có các biện pháp mở rộng cơ sở thu, tăng cường quản lý thu và cải thiện hiệu quả chi ngân sách nhà nước để thiết lập lại kỷ luật tài khóa trong vòng 3-5 năm sau, đảm bảo các chỉ tiêu an toàn tài chính quốc gia trong giai đoạn 2021-2025.
Thứ ba, các gói hỗ trợ của Việt Nam nên ưu tiên cho các biện pháp ngắn hạn, như hỗ trợ cho người lao động, doanh nghiệp. Bởi biện pháp ngắn hạn sẽ tác động đến tiềm năng, sự phát triển của Việt Nam trong trung hạn và dài hạn.
Thứ tư, trong giai đoạn trung hạn và dài hạn, Việt Nam nên thúc đẩy giải ngân đầu tư công, tập trung vào phát triển hạ tầng xanh, chuyển đổi số...
Thứ năm, Việt Nam nên tăng cường vào hợp tác quốc tế, giữa các nước, các khu vực với nhau cũng như các tổ chức quốc tế.
09h00: PGS.TS Bùi Quang Tuấn - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam trình bày tham luận “Phục hồi và phát triển kinh tế bền vững thông qua thúc đẩy chuyển đổi số ở Việt Nam”.
PGS.TS Bùi Quang Tuấn - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Tại Diễn đàn, PGS.TS.Bùi Quang Tuấn đã nêu tóm tắt tình hình kinh tế thế giới, chỉ ra hàng loạt thách thức mà kinh tế thế giới hiện đang đối mặt. Đồng thời cũng nêu rõ thực trạng nền kinh tế Việt Nam năm 2021 cùng các vấn đề đặt ra hiện nay như vấn đề nguy cơ lạm phát kép, nguy cơ nợ xấu.
Để phục hồi tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững theo hướng số hóa, PGS.TS Bùi Quang Tuấn đã chỉ rõ những lợi ích của phát triển kinh tế số đối với quốc gia là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển các ngành/lĩnh vực mới, tạo việc làm, thay đổi cơ cấu việc làm, nâng cao chất lượng lực lượng lao động, tăng chất lượng dịch vụ công. Lợi ích đối với doanh nghiệp là tăng năng suất, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo cơ hội mở rộng thị trường và gia tăng thị phần, thay đổi linh hoạt hơn, kết nối với khách hàng, nhân viên, đối tác và nhà cung cấp nhanh hơn, đẩy nhanh quá trình ra quyết định. Kinh tế số cũng mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng như: Chất lượng sản phẩm/Tiện ích được cải thiện do ứng dụng công nghệ tiên tiến; mua hàng mọi lúc, mọi nơi chỉ cần có điện thoại thông minh hoặc máy tính kết nội mạng Internet; Giá thành sản phẩm cạnh tranh hơn so với mua qua kênh truyền thống do chi phí sản xuất và phân phối được cắt giảm; thuận tiện trong thanh toán do không phải sử dụng tiền mặt…
Từ những vấn đề đã nêu, PGS.TS.Bùi Quang Tuấn cũng chỉ ra một số định hướng và giải pháp phục hồi và phát triển bền vững nền kinh tế từ góc độ của chuyển đổi số và kinh tế số.
Toàn cảnh
Về ngắn hạn, PGS.TS.Bùi Quang Tuấn đề nghị cần rà soát, hoàn thiện pháp luật theo hướng thuận lợi hóa mạnh mẽ hơn nữa về môi trường kinh doanh và đầu tư cho các doanh nghiệp, chú ý đến doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, để phát triển các sản phẩm, dịch vụ dựa trên nền tảng số; Thúc đẩy kết nối, chia sẻ và khai thác thông tin dữ liệu số hóa trong nước, phát huy vai trò của nguồn tài nguyên số phục vụ cho kinh tế số, thúc đẩy kết nối và chia sẻ thông tin của các cơ quan quản lý, bộ ngành, trung ương, địa phương; Đẩy mạnh đầu tư cho hạ tầng số, nền tảng số, huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai, phát huy vai trò của các quỹ tài chính hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khuyến khích thương mại hoá và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích và hỗ trợ ứng dụng công nghệ vào thực tiễn sản xuất và kinh doanh; Đẩy nhanh quá trình thử nghiệm và khẩn trương ứng dụng đại trà các công cụ thanh toán điện tử, tiền số và các hình thức kinh doanh và dịch vụ kinh tế số không dùng tiền mặt; khuyến khích phát triển các định chế tài chính mới như Fintech. Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong quản lý tài chính, thuế,
an sinh xã hội, y tế, giáo dục.
Về dài hạn, PGS.TS. Bùi Quang Tuấn cho rằng cần phải có cách tiếp cận tổng thể, hệ thống hơn. Cần phải chú ý tới các yếu tố của một hệ sinh thái đầy đủ của chuyển đổi số. Đồng thời cần phải chú ý tới xu hướng phục hồi xanh đang trở thành một xu hướng nổi trội trên thế giới. PGS.TS. Bùi Quang Tuấn nhấn
mạnh, tận dụng phục hồi nền kinh tế để tái cấu trúc theo hướng xanh hóa nền kinh tế là một thời cơ lớn. Chiến lược tăng trưởng xanh cũng xác định 4 nội
dung quan trọng là giảm phát thải khí nhà kính, xanh hóa sản xuất, xanh hóa lối sống và tiêu dùng, và xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu. Do đó, các giải pháp để thực hiện chuyển đổi số và phát triển kinh tế số cần phải được lồng ghép tốt với thực hiện các giải pháp của chiến lược tăng trưởng xanh đã được đưa ra ở Quyết định 1685 của Thủ tướng Chính phủ ngày 1/10/2021.
Bàn về các giải pháp can thiệp nền kinh tế, PGS.TS.Bùi Quang Tuấn kiến nghị: Thứ nhất, cần ưu tiên nguồn lực củng cố hệ thống y tế trên toàn quốc. Cụ thể, gói củng cố hệ thống y tế cần khoảng 76.000 tỷ đồng. Thứ hai, cần tiếp tục củng cố hệ thống an sinh xã hội. Cụ thể, gói củng cố hệ thống an sinh xã hội cần khoảng 58.000 tỷ đồng. Thứ ba, cần hỗ trợ doanh nghiệp thiết thực hơn, trong đó gói hỗ trợ doanh nghiệp cần khoảng 244.000 tỷ đồng cùng với việc hạ mặt bằng lãi suất là rất cấp thiết.,Thứ tư, tiếp tục cải cách thể chế, giải quyết những điểm nghẽn trong giải ngân vốn đầu tư công. Gói đầu tư công mà PGS.TS. Bùi Quang Tuấn đề xuất có quy mô là 288.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2 năm 2022-2023. Như vậy, tổng gói cứu trợ nền kinh tế dựa trên 4 lĩnh vực ưu tiên dự kiến có giá trị khoảng 666.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 8% tổng giá trị GDP nền kinh tế năm 2020.
PGS.TS. Bùi Quang Tuấn nhấn mạnh, để đảm bảo các biện pháp trên thực hiện thành công, cần đảm bảo sự phối hợp để thiết kế và thực hiện các chính sách giữa các bộ ngành thuộc Chính phủ và Quốc hội. Các cơ quan của Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan tham mưu cần phối hợp chặt chẽ trong việc tính toán nhằm đảm bảo dòng tiền hỗ trợ thực sự được đưa vào hoạt động sản xuất của doanh nghiệp và hộ gia đình thay vì chuyển qua kênh đầu cơ các tài sản tài chính rủi ro, vốn không đóng góp cho phục hồi tăng trưởng.
09h20: Ông Francois Painchaud – Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam trình bày "Khuyến nghị chính sách đẩy mạnh phục hồi kinh tế".
Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam
Ông Francois Painchaud – Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam, cho biết, kinh tế thế giới đang trong quá trình phục hồi bất chấp các đợt dịch COVID bùng phát, chỉ số giá sản xuất (PPI) tăng trong bối cảnh giá đầu vào ngày càng tăng và chuỗi cung ứng gián đoạn. Tiến trình hồi phục này là có lợi cho Việt Nam, tuy nhiên, mức độ phục hồi của các nước phụ thuộc lớn vào tỷ lệ tiêm chủng. Tăng trưởng sụt giảm mạnh trong khi tỷ lệ tiêm chủng ở mức thấp để lại những vết sẹo trong trung hạn tại các nước mới nổi và đang phát triển với không gian chính sách hạn chế, phụ thuộc vào lĩnh vực du lịch.
Về phản ứng chính sách tài khóa, ông Francois Painchaud cho rằng, quy mô các biện pháp hỗ trợ tài khóa ở các nền kinh tế phát triển có thể không áp dụng được ở các quốc gia đang phát triển bao gồm Việt Nam, các hỗ trợ chính sách cần được tinh chỉnh dựa trên tình hình phát triển kinh tế cũng như diễn tiến dịch bệnh ở từng nước. Các biện pháp đóng cửa biên giới, giãn cách xã hội cần đi kèm với các hỗ trợ về mặt chính sách cần thiết, kịp thời cho các hộ gia đình và doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi chúng ta hướng tới việc mở cửa trở lại. Đặc biệt ở Việt Nam, khi tiến trình hồi phục đang được triển khai hiệu quả, cần tập trung vào tăng trưởng bền vững, tạo sức chống chịu cao.
Toàn cảnh
Theo ông Francois Painchaud, trong năm 2021, Việt Nam đối mặt với đợt dịch bùng phát lớn hơn và dai dẳng hơn, khiến nền kinh tế gián đoạn nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến việc làm, đặc biệt là ở khu vực phi chính thức. Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp phải rất nhiều thách thức trước dịch bệnh. Hiện Việt Nam đang gỡ bỏ các rào cản, dần hồi phục lại nền kinh tế. Đại diện IMF khuyến nghị Việt Nam thực hiện các chính sách hỗ trợ phục hồi cần thiết như: tạo không gian tài khóa dồi dào; tăng chi tiêu cho y tế, tiêm chủng và trợ cấp; áp dụng biện pháp chuyển lỗ ngược; tăng cường đầu tư công; hỗ trợ đầu tư tư nhân; duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.
Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam Francois Painchaud cho rằng mục tiêu phục hồi và phát triển của Việt Nam là có thể đạt được nhưng đòi hỏi những cải cách cơ cấu quyết liệt hơn, cần phục hồi mạnh mẽ, cải thiện khả năng chống chịu trước đại dịch, quyết liệt cải cách cơ cấu và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Ông Francois Painchaud nhấn mạnh, các chương trình hồi phục đã được chính quyền Việt Nam cân nhắc để đưa ra những cải cách nhằm nâng cao năng suất nhưng kế hoạch cải cách này cần được thực hiện một cách quyết đoán và nhanh chóng hơn nữa. (Chi tiết tham luận ở file đính kèm).
09h40: TRAO ĐỔI VÀ THẢO LUẬN MỞ
Phát biểu thảo luận của GS.Nguyễn Đức Khương, IPAG Business School & AVSE Global:
GS.Nguyễn Đức Khương, IPAG Business School & AVSE Global, đề xuất một số chính sách nhằm thúc đẩy đổi mới hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, phục hồi phát triển kinh tế, từ điểm cầu trực tuyến tại Pháp
Liên quan đến nền tảng phát triển, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo thường sẽ phải trả lời hai câu hỏi: Tại sao cần 1 hệ sinh thái đổi mới sáng tạo?. Ở đây, đổi mới sáng tạo là một yếu tố quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế thông qua việc thúc đẩy tăng năng suất, tăng hiệu quả và từ đó sản xuất được nhiều hàng hóa, dịch vụ hơn. Khi đạt đến 1 trình độ cao chúng ta tiến đến đổi mới, đột phá, điều này cho phép chúng ta tạo ra chuỗi giá trị, lợi thế cạnh tranh và có thể thay thế những sản phẩm cũ.
Câu hỏi thứ hai: Đâu là giải pháp cơ cấu thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo phát triển gồm: tăng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển; đầu tư vào giáo dục và đào tạo, tạo điều kiện cho các doanh nhân khởi nghiệp một cách dễ dàng hơn;… tạo dựng vườn ươm công nghệ?
Điều chúng ta phải chú ý là việc đổi mới sáng tạo chỉ tốt khi nằm trong một hệ sinh thái sáng nghiệp và văn hóa sáng nghiệp. Cần nhận thức rõ vai trò phải đào tạo văn hóa đào tạo kiến thức về sáng lập doanh nghiệp cho lớp doanh nhân tiếp theo. Bên cạnh đó phải tập trung vào đổi mới sáng tạo ko chỉ liên quan đến khoa học công nghệ mà còn liên quan trực tiếp đến thể chế về kinh tế - chính trị; xã hội;… có sự đan xen, tương tác lẫn nhau từ đó tác động ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Khi nghiên cứu về kinh nghiệm quốc tế, thấy rằng tồn tại tam giác thành công cho chiến lược xây dựng, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, bao gồm 3 mũi nhọn: Xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định, tăng tốc trong chuyển đổi số; có thái độ với rủi ro rõ ràng hơn; Chính sách và môi trường đổi mới sáng tạo; khung pháp lý về thuế và thương mại nhằm thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo phát triển dựa trên việc tạo khung pháp lý về số hóa chúng ta đơn giản thủ tục hành chính cho khởi nghiệp, sáng lập doanh nghiệp.
Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo có các tầng khác nhau và tầng cao nhất là hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia quốc gia, ngành, khu vực, tỉnh/thành phố, cấp tổ chức, … Liên quan đến loại hình đổi mới sáng tạo, chúng ta xoay quanh 4 loại hình đổi mới sáng tạo chủ đạo: đổi mới sản xuất; đổi mới quy trình, công nghệ, quản trị; Đổi mới tiếp thị, thị trường, mô hình kinh doanh; Đổi mới tổ chức, sắp xếp con người, bộ máy. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ở đây sẽ là một không gian bao gồm tất cả những con người, quy trình và quy tắc của trò chơi cần thiết để thực hiện đổi mới tăng năng suất, hiệu quả. Tức là sử dụng ít đầu vào nhưng tạo được nhiều của cải, sản phẩm hơn
Bên cạnh đó, COVID-19 tạo ra nhiều thách thức cho đổi mới và sáng tạo. Trong đó có thách thức dành riêng cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đó là sự suy giảm về nhu cầu dẫn đến việc hạn chế đầu tư vào R&D, đổi mới sáng tạo. Những đổi mới sáng tạo buộc phải tập trung vào vấn đề đổi mới mang tính chất dự báo thị trường tương lai, đổi mới có tính thích ứng gắn chặt chẽ với yêu cầu, bài toán từ nền kinh tế, yêu cầu phải có hành lang về mặt chính sách tạo không gian cho thử nghiệm các phương thức chưa tồn tại có điều kiện phát triển; phải có thích ứng với giảm tính di động, sự sẵn sàng và năng lực của nhân viên và đối tác. Cuối cùng là giải quyết các bài toán kinh tế - xã hội mới: biến đổi khí hậu, bảo mật thông tin, đảm bảo niềm tin trong môi trường số, ưu tiên những người nghèo nhất và không bỏ lại ai phía sau.
Kiến nghị về chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo cho phục hồi kinh tế, GS. Nguyễn Đức Khương kiến nghị, kiến tạo môi trường vĩ mô (mở rộng đầu tư vào R&D, khuyến khích đầu tư mạo hiểm; Nền tảng trực tuyến để người dân có thể góp ý các dự án, chính sách đổi mới sáng tạo, Hỗ trợ nghiên cứu và đổi mưới do các đại học, tổ chức nghiên cứu và các doanh nghiệp phối hợp, Đảm bảo tính toàn diện hệ thống khoa học – Công nghệ - ĐMST và hỗ trợ nghiên cứu liên nghành; Thúc đẩy ứng dụng công nghệ hiện có để tạo ra các doanh nghiệp và việc làm mới ;…). Đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp thực thi đổi mới. Trong đó, chú trọng đổi mới mô hình kinh doanh (đáp ứng những yêu cầu mưới từ khách hàng, kinh doanh theo hướng bền vững, có khả năng kháng cự với các cú sốc, tạo sự khác biệt được người tiêu dùng quan tâm đánh giá cao), thu hút nhân tài, đầu tư công nghệ và dữ liệu lớn, chuyển đổi số, thúc đẩy dịch vụ lưu động.
“Chỉ có sự gắn kết chặt chẽ con người – quy trình – luật chơi mới tạo ra được một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo giải quyết hiệu quả các thách thức hiện tại và tương lai”, GS.Nguyễn Đức Khương nhấn mạnh.
09h 52: Ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
Ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
Thảo luận tại Diễn đàn, ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) quan tâm tới những thách thức mới, xu hướng kinh doanh mới trong thời gian tới. Theo ông Đậu Anh Tuấn, trong năm 2020-2021, bối cảnh mới đã đặt cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trước những thách thức “rất mới” và “rất khác”. Cụ thể: tính bất định cao hơn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19; Doanh nghiệp không chỉ đối mặt với vấn đề kinh doanh trực tiếp của mình, ngành mình mà đối mặt với những thách thức toàn cầu, những vấn đề lớn hơn không biên giới như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, cạnh tranh giữa các nước lớn…
Từ phân tích trên, ông Đậu Anh Tuấn nhận định, có 5 xu hướng đầu tư kinh doanh trong bối cảnh mới. Đó là các xu hướng: Sẵn sàng thay đổi mô hình doanh không phù hợp; Thích ứng tốt hơn; Hướng nội hơn; Xanh hơn; Hoạt động kinh doanh nhân văn, vì con người hơn.
Cho rằng doanh nghiệp Việt Nam, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam không ngại thay đổi, ông Đậu Anh Tuấn chỉ rõ, trong "gen của mình", các doanh nghiệp Việt Nam luôn có khả năng thích ứng cao; đồng thời, các doanh nghiệp đã bắt đầu quan tâm đến thị trường trong nước, bước đầu hướng đến những tiêu chuẩn xanh hơn, nhân văn hơn.
Đánh giá đại dịch COVID-19 là một khó khăn nhưng cũng là một cơ hội rất lớn để các doanh nghiệp Việt Nam nâng cấp mình, ông Đậu Anh Tuấn tin tưởng rằng, cùng với Chính phủ, doanh nghiệp Việt Nam sẽ là một chủ thể quan trọng tạo nên bước phát triển thần kỳ, khích lệ của Việt Nam trong bối cảnh mới.
10h02: Ông Nguyễn Ngọc Bảo - Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam: giải quyết vấn đề thu nhập và việc làm tại các hợp tác xã
Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo
Tán thành với các tham luận được trao đổi tại Diễn đàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho biết vấn đề chung của kinh tế nói chung và khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã nói riêng là giải quyết vấn đề thu nhập và việc làm.
Chia sẻ về những điểm nghẽn hiện nay do tác động của đại dịch COVID-19, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho biết, hiện nay có đến 90% hợp tác xã giảm doanh thu, thu nhập của người lao động trong hợp tác xã giảm khoảng 25%; đặc biệt trong lĩnh vực phi nông nghiệp giảm đến 78% thu nhập.
Khó khăn của các hợp tác xã hiện này là trong tiếp cận tín dụng và chi phí sản xuất đầu vào (giá cước vận tải, giá phân bón, vật tư nông nghiệp tăng đến 41% và các chi phí sản khác đều tăng). Khoảng 51,4% lao động tạm dừng việc làm hoặc việc làm chưa đầy đủ so với trước dịch bệnh. Xét về sản xuất, thu nhập và đầu ra tiếp tục khó khăn.
Bên cạnh đó vẫn có các hợp tác xã có xu hướng phục hồi, như Hợp tác xã sản xuất sản phẩm bảo đảm an toàn đạt tiêu chuẩn Vietgap, Globalgap vẫn tiếp tục duy trì được chuỗi liên kết và phục hồi tương đối nhanh.
Với Hợp tác xã nông nghiệp, do sức cầu giảm nên giá bán giảm, doanh thu giảm gần 30%, từ đó chi phí, nghĩa vụ trả nợ ngân hàng tăng. Hợp tác xã công công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chịu tác động của chuỗi cung ứng, thị trường và khó tiêu thụ sản phẩm nhất là các sản phẩm OCOP. Vận tải hành khách chưa phục hồi rõ. Hợp tác xã du lịch phục hồi chậm.
Qua tổng hợp kiến nghị chung của các hợp tác xã trong cả nước, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo đề nghị, trước mắt tiếp tục đẩy mạnh chiến lược vaccine, công bố công khai, cập nhật các phác đồ điều trị thuốc chữa COVID-19 để tạo tâm lý an tâm trong xã hội, thông tin nhanh nhất về các diễn biến của dịch bệnh, làm cho người dân có định hướng trong sản xuất và bảo vệ sức khỏe.
Toàn cảnh Diễn đàn
Chủ tịch Liên minh hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo nhấn mạnh cần phải thể chế hóa các chính sách hỗ trợ kịp thời, khắc phục những hạn chế trong công tác triển khai thực hiện chính sách.
Chủ tịch Liên minh hợp tác xã Việt Nam chỉ rõ, hiện nay, các chính sách của bộ ngành chưa quy định rõ đối tượng hợp tác xã, liên hợp tác xã nên vướng tại địa phương khi thực hiện. Do đó, đề nghị quan tâm đến đối tượng là hợp tác xã trong xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách.
Đề nghị quan tâm giải quyết vấn đề vốn đối với hợp tác xã, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho rằng cần quan tâm đến tín dụng nội bộ, có hợp tác xã vẫn dư vốn để hỗ trợ thành viên nhưng hiện chưa có cơ chế thực hiện; cùng với đó là Quỹ Tín dụng nhân dân cho vay ngoài thành viên ở địa bàn nông thôn, nhất là hợp tác xã tham gia chuỗi giá trị, trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chuyển đổi số, mở rộng cho vay tín chấp đối với hợp tác xã, hộ nông dân, địa bàn nông thôn.
Ngoài ra, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đề nghị có chính sách miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian từ 3-5 năm cho hợp tác xã, thuế thu nhập cá nhân đối với thành viên góp vốn vào hợp tác xã để giúp hợp tác xã huy động thêm các thành viên tham gia. Để giảm chi phí sản xuất, Chủ tịch Liên minh hợp tác xã Việt Nam đề nghị các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước rà soát các chính sách giảm chi phí sản xuất như giống, phân bón, thức ăn gia súc…cũng như giải quyết khó khăn cho hợp tác xã khi tiếp cận nguồn lực đất đai cho sản xuất.
10h30: TỌA ĐÀM CẤP CAO
Ông Lê Quang Minh - Tổng Giám đốc Truyền hình Quốc hội Việt Nam điều phối Tọa đàm cấp cao
Thành phần tham gia Tọa đàm cấp cao có: Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh; Chủ tịch Viện Hàn lâm Kinh tế Xã hội Việt Nam Bùi Nhật Quang; Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Thành Phong; Giám đốc Ngân hàng phát triển châu Á tại Việt Nam Andrew Jeffries; Trưởng đại diện Quỹ tiền tệ Quốc tế tại Việt Nam Francois Painchaud.
Tại Tọa đàm cấp cao, nhiều câu hỏi xoay quanh nội dung phục hồi và phát triển bền vững trong thời gian tới đã được đặt ra cho các diễn giả.
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh
Tổng Giám đốc Truyền hình Quốc hội Lê Quang Minh: Trước hết xin đặt câu hỏi với Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh. Thưa ông, trong bối cảnh quốc tế và trong nước như hiện nay, Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức; cần phải có ngay những giải pháp để hỗ trợ phục hồi nền kinh tế và tiếp tục phát triển. Nhiều ý kiến cho rằng, Quốc hội cũng đã thể hiện quan điểm chủ động, vào cuộc rất sớm, đề nghị Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh chia sẻ thêm cách tiếp cận của Quốc hội đối với các chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế?”
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh: Chính sách tài khóa và tiền tệ là vấn đề rất quan trọng. Chủ tịch Quốc hội đã quan tâm và chỉ đạo các Ủy ban của Quốc hội từ sớm, từ xa, tổ chức nhiều cuộc làm việc với các chuyên gia để thảo luận, đưa ra cơ sở thực tiễn và khoa học phù hợp với thực trạng kinh tế của Việt Nam để xây dựng các gói chính sách hỗ trợ phù hợp.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, các chính sách tài khóa và tiền tệ đưa ra cơ bản bám sát các nguyên tắc lớn. Cụ thể, phải bám sát các quy định của Nhà nước (Kết luận số 20 của Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết 41 về Chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội…); tập trung hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động, kích cầu đầu tư và thị trường; kết hợp hài hòa các chính sách; sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phục hồi và phát triển kinh tế; các chính sách đưa ra phải đủ lớn, có trọng tâm, trọng điểm để tạo ra cú hích, thay đổi cần thiết cho nền kinh tế nước ta; bảo đảm các gói kích thích khả thi và được thực thi nhanh, tập trung vào các lĩnh vực có tính lan tỏa rộng; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế, đảm bảo tính dài hạn và an ninh an toàn tài chính quốc gia; các chính sách huy động, phân bổ nguồn lực bảo đảm công khai minh bạch…
Tổng Giám đốc Truyền hình Quốc hội Việt Nam Lê Quang Minh: Thưa ông Nguyễn Thành Phong - Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương, đại dịch Covid-19 ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế. Tuy nhiên, kết quả phòng chống dịch bệnh của Việt Nam trong thời gian qua đã cho thấy bước đầu về những kết quả khả quan. Vậy theo ông, đâu là động lực cho những tăng trưởng chính đối với nền kinh tế trong thời gian tới?
Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Thành Phong: Nếu giả sử như năm 2020 và 2021 không có đại dịch COVID-19 xảy ra thì GDP của Việt Nam tăng trưởng khoảng 7%. Tuy nhiên, trong thực tế, đại dịch xảy ra thì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2020 chỉ tăng 2,91% và năm 2021 dự kiến chỉ tăng 2,5%.
Để giảm thiệt hại cho nền kinh tế, Việt Nam cần tìm ra các biện pháp, cách thức để nhanh chóng phục hồi đà tăng trưởng. Do đó, cần tìm ra động lực cho những tăng trưởng chính đối với nền kinh tế trong thời gian tới.
Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Thành Phong
Việt Nam là nền kinh tế có độ mở lớn. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP vượt khoảng 200%. Đối với các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đều biết dựa vào thị trường rộng lớn ở bên ngoài và mở rộng quy mô sản xuất, thu ngoại tệ để nhập khẩu những thiết bị cần thiết. Thực tế cho thấy, khả năng mở rộng tăng cung cho nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào mức độ đầu tư. Vì thế, các động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế hiện nay là đầu tư để vừa tăng cầu và cũng vừa tăng sản lượng tiềm năng. Tức là mở rộng khả năng cung ứng, đẩy mạnh tiêu dùng trong nước, mở rộng đầu tư, ứng dụng công nghệ số để đổi mới cách thức sản xuất, tiêu dùng và đầu tư có hiệu quả. Trong đó, đầu tư là điều kiện cần, xuất khẩu là điều kiện đủ, tiêu dùng nội địa là yếu tố tăng thêm, chuyển đổi số là yếu tố thời đại.
Việc khuyến khích tiêu dùng đầu tư nội địa rất cần thiết nhưng nếu tăng đầu tư quá mức thì sẽ làm giảm tiết kiệm và qua đó giảm đầu tư hoặc làm phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài. Vì thế, việc khai thác thị trường trong nước nên chú trọng vào sản xuất hàng hóa tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu.
Thông qua sự phát triển kinh tế của Việt Nam đã cho thấy, xuất khẩu và đầu tư nước ngoài là những yếu tố quan trọng để tạo được niềm tin của các nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên, đầu tư của Nhà nước vẫn đóng vai trò dẫn dắt để phục hồi nền kinh tế. Vì thế, sự đầu tư của Nhà nước nên tập trung vào cơ sở hạ tầng, nhân lực, khoa học công nghệ...
Trong điều kiện phục hồi kinh tế, Việt Nam nên hạ thấp lãi suất ngân hàng, cần có gói kích thích kinh tế cũng như tái lập được cung ứng lao động để phục cho các sự hồi phục sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tổng Giám đốc Truyền hình Quốc hội Việt Nam Lê Quang Minh: Thưa ông Bùi Nhật Quang, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, bên cạnh những chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể đưa ra các giải pháp trong ngắn hạn, đa số các chuyên gia đề cập đến giải pháp phát triển nền kinh tế số. Và chuyển đổi số có thể coi là giải pháp lâu dài cho nền kinh tế Việt Nam thì cần nhìn nhận cách tiếp cận này như thế nào để vừa đảm bảo đầu tư lâu dài phát triển kinh tế số, đồng thời hỗ trợ tức thì cho nền kinh tế hồi phục sớm nhất?
Ông Bùi Nhật Quang, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam: Diễn đàn sáng nay đã đưa ra nhiều giải pháp khác nhau để nền kinh tế thật sự phục hồi và có tính bền vững. Nhóm nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã có nhiều đánh giá, trong đó phát triển kinh tế số là một trong những lựa chọn đáng quan tâm trong bối cảnh hiện nay để có thể phục hồi bền vững.
Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Bùi Nhật Quang
Kinh tế số không phải chủ đề mới trong 5 năm gần đây, từ những phương thức sơ khai như kinh tế Internet, giao dịch trên mạng, đến những phát triển cao hơn như nội dung số, nền tảng số, Internet kết nối vạn vật, dữ liệu điện toán đám mây, phát triển trí tuệ nhân tạo… Đây là những biểu hiện rất quan trọng của kinh tế số và chuyển đổi số. Đây cũng là cơ hội để chúng ta xem xét lại cả quy trình, tiếp tục mục tiêu đặt ra rất xuyên suốt là phục hồi tăng trưởng, đồng thời thực hiện các khâu đột phá chiến lược như Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu ra, trong đó tính toán tiếp tục việc tái cấu trúc mô hình tăng trưởng thì kinh tế số là một trong những giải pháp quan trọng.
Kinh tế số trong giai đoạn hiện nay bình quân trên thế giới chiếm khoảng 15% GDP, còn ở Việt Nam khiêm tốn hơn, chiếm khoảng 10% GDP. Điều này cho thấy rằng, chúng ta còn dư địa rất lớn cho phát triển kinh tế số. Đây cũng là nền tảng tương đồng xuất phát điểm như nhiều quốc gia khác, từ đó có thể đẩy mạnh phát triển kinh tế số và tăng cường cạnh tranh quốc gia. Kinh tế số có rất nhiều nội dung, trong đó quan trọng nhất chính là giúp nước ta tái cơ cấu và có ngành nghề mới. Ngoài ra, chúng ta có thể chọn được một số khâu đột phá để bứt phá lên so với các quốc gia khác có mức độ cạnh tranh tương đương với Việt Nam.
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp như hiện nay, vấn đề đầu tư và tăng cường về công nghệ thông tin không hẳn là vấn đề khó khăn nhất. Vấn đề khó nhất là những đột phá, thay đổi lớn về thể chế. Đây là điểm nhấn cần được quan tâm trong bối cảnh phát triển mới khi đẩy mạnh phát triển kinh tế số. Bởi kinh tế số chưa phải là giải pháp hoàn hảo nếu không có những thay đổi về thể chế, chính sách, những quy định cho phù hợp.
Do vậy, đây là cơ hội tốt nhất để chúng ta tập trung vừa phát triển kinh tế số, vừa đẩy mạnh cải cách thể chế. Đây cũng là căn cứ giúp tăng năng lực cạnh trạnh, tao hiệu quả cho các ngành nghề phát triển mới nhằm đạt mục tiêu phục hồi và phát triển bền vững.
Tổng Giám đốc Truyền hình Quốc hội Việt Nam Lê Quang Minh: Thưa ông Francois Painchaud – Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam, sau đại dịch COVID-19, theo ông, đâu sẽ là những cơ hội của Việt Nam khi triển khai các giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế, đặc biệt với sự xuất hiện của biến chủng mới Omicron?
Ông Francois Painchaud – Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam: Để có thể tận dụng các cơ hội phục hồi phát triển kinh tế trong bối cảnh hiện nay, cần phải đảm bảo ổn định vĩ mô về cả tài khóa cũng như tiền tệ. Đó là điều quan trọng nhất trong thời điểm này. Từ kinh nghiệm ứng phó dịch COVID-19, Việt Nam đã rút ra bài học đẩy mạnh đầu tư cho y tế, an sinh xã hội, tiến hành các chương trình hỗ trợ người lao động khu vực phi chính thức. Các chương trình này cần được đẩy mạnh nhân rộng, tiến hành kịp thời hơn, quyết liệt hơn và làm cho dễ tiếp cận hơn nữa. Trong tương lai, có thể Việt Nam sẽ còn gặp những thách thức mới, vậy nên cần có cơ chế để ứng phó với những khó khăn này.
Ông Francois Painchaud – Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam
Về cơ hội, Việt Nam có cơ hội lớn để hỗ trợ phục hồi kinh tế, cần đầu tư dài hạn vào chuyển đổi nền kinh tế, cải thiện kỹ năng, nâng cao kết nối, số hóa, xây dựng Chính phủ điện tử để Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn, năng suất hơn. Có sự thay đổi rất lớn trong chuỗi giá trị toàn cầu, tạo ra nhiều thách thức cũng như các cơ hội, lợi ích cho Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ở mức ngang tầm với các nước trong khu vực, cần phải tham gia các công đoạn thêm giá trị gia tăng, đẩy mạnh hiệu quả thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng cường cải thiện hiệu suất lao động ở cả khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Việt Nam đã có nền tảng để cải cách cơ cấu, hiện này là thời điểm phù hợp để triển khai một cách khẩn trương hơn nữa.
Tổng Giám đốc Truyền hình Quốc hội Việt Nam Lê Quang Minh: Thưa ông Andrew Jeffries - Giám đốc ngân hàng phát triển châu Á tại Việt Nam, theo ông, đâu sẽ là những cơ hội và thách thức chính của Việt Nam trong quá trình triển khai những biện pháp phục hồi sau đại dịch COVID-19?
Ông Andrew Jeffries, Giám đốc ngân hàng phát triển châu Á tại Việt Nam: Cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội do tác động của đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng rất nhiều đến chính sách tài khóa và tiền tệ của thế giới và Việt Nam. Giải pháp về y tế và sức khỏe được coi là giải pháp quan trọng nhất.
Ở Việt Nam, chiến lược vắc-xin đã được thực hiện rất tốt. Việc tiêm chủng vắc-xin được triển khai rất nhanh. Tuy nhiên, khi thế giới xuất hiện biến chủng mới omicron thì Việt Nam phải cần thêm vắc-xin và cần có động lực cho việc tiêm vắc-xin. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đẩy mạnh sản xuất và nhận chuyển giao công nghệ vắc-xin mới, đảm bảo về y tế và sức khỏe cho người dân. Tư duy này là cơ hội tốt cho Việt Nam trong các giải pháp phục hồi kinh tế.
Ông Andrew Jeffries - Giám đốc ngân hàng phát triển châu Á tại Việt Nam
Bên cạnh đó, Việt nam cũng quản lý nợ công cẩn trọng và chặt chẽ, mở rộng về tài khóa. Có nhiều dư địa cho việc thuyết phục vay vốn và phục hồi. Để phục hồi cần có nhiều gói kích cầu và kích thích nền kinh tế trong ngắn hạn, cùng với đó là việc cải cách thuế, chi tiêu ngân sách, huy động nguồn lực. Đồng thời, các Ngân hàng tham gia rất nhiều vào cơ sở hạ tầng của khu vực, trong khi đó nhu cầu của Việt Nam rất lớn. Đầu tư công và cơ sở hạ tầng là xương sống của nền kinh tế.
Vậy làm thế nào để tạo nguồn lợi về kinh tế cho các địa phương, cho cả nước? Làm thế nào để đưa ra những lợi nhuận về tài chính cho nhà đầu tư và người dân? Đó là những vẫn đề cần phải quan tâm. Bên cạnh đó, trong hợp tác khu vực, cần tiếp tục có những nguồn cung vắc-xin và gia tăng kết nối du lịch. Điều này sẽ cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các quốc gia và Việt Nam; sự phối hợp chặt chẽ giữa các nước ASEAN.
Ngoài ra, chuyển đổi số là lĩnh vực rất quan trọng trong phục hồi sau đại dịch. Do đó, cần cơ sở hạ tầng để vụ cho chuyển đổi số; có giải pháp quan trọng để thu hút được đầu tư trong lĩnh vực này; bổ trợ về đầu tư, đào tạo nghề, đào tạo kỹ thuật cho người lao động trong doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp cấp địa phương. Tất cả những nỗ lực này trong thời gian dài sẽ đóng vai trò tiếp tục nâng cao phát triển kinh tế Việt Nam.
Ý KIẾN CỦA MỘT SỐ CHUYÊN GIA:
Bà Carolyn Turk - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam:
Bà Carolyn Turk - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam
Đối với vấn đề phục hồi kinh tế hậu COVID-19, chúng tôi có 4 khuyến nghị dành cho Việt Nam.
Thứ nhất là Việt Nam cần tiếp tục đầu tư cho hệ thống y tế. Hiện tại, Việt Nam đang làm rất tốt công tác tiêm vaccine cho người dân với tốc độ bao phủ vaccine ấn tượng. Do đó, chúng tôi cho rằng, các bạn nên tiếp tục đẩy mạnh việc đặt hàng và phân phối vaccine ngừa COVID-19, đồng thời cũng cần lên kế hoạch phân phối vắc-xin trong tương lai. Ngoài ra, chúng tôi cho rằng, Việt Nam nên cân nhắc khả năng tái xây dựng hệ thống y tế hậu đại dịch.
Thứ hai, Việt Nam nên cân nhắc việc sử dụng cả chính sách tài khóa và tiền tệ để tái thiết nền kinh tế, đặc biệt là giảm sự cứng nhắc trong hệ thống phân bổ ngân sách, cho phép nguồn vốn được phân bổ dễ dàng hơn giữa các danh mục chi tiêu. Và phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn về danh mục các khoản đầu tư hiện nay. Hiện danh mục đầu tư có rất nhiều dự án có tên nhưng chưa có thiết kế chi tiết, chưa có nghiên cứu khả thi để triển khai. Tôi tin rằng, quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng một danh mục đầu tư tốt là yếu tố then chốt để quá trình đầu tư vào các hoạt động phục hồi kinh tế diễn ra nhanh chóng.
Thứ ba, chúng ta cũng nên cân nhắc về tính hiệu quả, 1 yếu tố quan trọng trong phục hồi kinh tế và cũng đóng góp vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế trong tương lai của Việt Nam. Việt Nam nên cân nhắc đến tính hiệu quả không chỉ trong các doanh nghiệp, nhằm nâng cao năng lực sản xuất, mà còn phải để tâm đến việc nâng cao tính hiệu quả của hoạt động chính phủ. Một cách để đạt được mục tiêu này là cân nhắc việc áp dụng các cơ chế số hóa mới để đạt được hiệu quả cao hơn. Về phía chính phủ, Việt Nam đã đạt được những bước tiến tích cực như quá trình phê duyệt đã được số hóa, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm để thực sự đạt được mục tiêu hợp lý và hiệu quả nhất. Cùng lúc đó, chính phủ cũng cần tính tới việc đầu tư cho các doanh nghiệp, để giúp họ ứng dụng được những công nghệ số mới, nhằm giúp cho Việt Nam giữ được vị thế tiên phong trong mặt trận đổi mới và công nghệ, bởi khu vực tư nhân sẽ là động lực cho quá trình phục hồi và phát triển của Việt Nam.
Thứ tư, Việt Nam nên cân nhắc tới tiêu dùng cá nhân, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp, cho người dân. Các gói hỗ trợ kinh tế tại Việt Nam cho các doanh nghiệp, cá nhân, các hộ gia đình so với khu vực cho tới thời điểm này vẫn còn thấp, cho nên chúng ta có thể cân nhắc việc gia tăng hỗ trợ và chúng tôi tin rằng vẫn còn dư địa tài khóa để làm việc này. Tuy nhên, để các gói hỗ trợ hiệu quả thì chúng ta cần quy trình thực hiện mạnh mẽ và mục tiêu cụ thể, rõ ràng.
Ông Patrick Lenain - Phó Vụ trưởng, Vụ Kinh tế, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD):
Ông Patrick Lenain - Phó Vụ trưởng, Vụ Kinh tế, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD):
Xin chào, tôi là Patrick Lenain, tôi làm việc tại Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, một tổ chức quốc tế có trụ sở tại Paris. Chúng tôi đã làm việc với Việt Nam trong nhiều năm về các lĩnh vực như đầu tư trực tiếp nước ngoài, tự do hóa thị trường, cải cách doanh nghiệp nhà nước, biến đổi khí hậu và chuyển đổi năng lượng.
Tôi rất vinh hạnh khi được chia sẻ đôi lời về những gì Việt Nam có thể làm để đạt được sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ hậu đại dịch COVID19.
Nhìn chung, Việt Nam đã kiểm soát cuộc khủng hoảng COVID tốt hơn nhiều nước khác. Vào năm 2020, khi đại dịch bùng phát, chính phủ Việt Nam đã phản ứng rất nhanh, bằng việc áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp y tế, kết hợp xét nghiệm, truy vết và cách ly. Nhờ những nỗ lực này, Việt Nam hầu như đã khống chế được dịch bệnh trong năm 2020, với số ca mắc và tử vong thấp. Và Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng GDP dương là 2,9 % vào năm 2020, một trong những mức cao nhất trên thế giới.
Tuy nhiên, việc duy trì chiến lược “zero COVID” không thể kéo dài mãi. Điều này đòi hỏi phải đóng cửa hoàn toàn biên giới, và đưa ra các hạn chế thường xuyên, gây gián đoạn phát triển kinh tế, với những tác động tiêu cực lâu dài. Australia, New Zealand, Singapore cuối cùng đã từ bỏ chính sách “zero COVID” và Việt Nam đã đúng khi làm điều tương tự.
Tuy nhiên, nhờ chính sách học cách sống chung an toàn với dịch bệnh mới này, các hoạt động kinh tế xã hội hiện đang dần được nối lại. Sản xuất công nghiệp đã phục hồi và sự gián đoạn chuỗi cung ứng đang giảm dần. Nhưng điều này không đảm bảo tốc độ tăng trưởng nhanh trong tương lai. Đại dịch vẫn hoành hành ở nhiều nơi trên thế giới, biến thể mới Omicron là một nguy cơ mới đe đọa triển vọng tăng trưởng kinh tế và sẽ mất nhiều thời gian để các hoạt động như du lịch, lữ hành và khách sạn, trở lại bình thường.
Vì vậy, chúng ta cần triển khai thêm những chính sách gì để hỗ trợ sự phục hồi của nền kinh tế? Tôi xin đề xuất ba ưu tiên sau:
Thứ nhất, điều cần thiết là phải đạt được tỷ lệ tiêm chủng rất cao, càng sớm càng tốt, bao gồm cả việc triển khai tiêm mũi nhắc lại vaccine phòng covid-19. Mua vắc xin thôi chưa đủ, việc phối hợp tốt để phân phối, tổ chức các chiến dịch tiêm chủng, thuyết phục những người còn lưỡng lự đi tiêm chủng, cũng là điều cần thiết. Tại Hàn Quốc, ngoài các cơ sở công lập, các phòng khám y tế tư nhân cũng cung cấp dịch vụ tiêm chủng tại các cơ sở của họ. Ở nhiều quốc gia, những người chưa tiêm chủng phải chịu các hạn chế - ví dụ như ở Áo và Đức, họ phải có kết quả xét nghiệm âm tính mới được đi máy bay, đi tàu hoặc đến nhà hàng, trong khi những người tiêm chủng đầy đủ được miễn các hạn chế này.
Thứ hai, các giải pháp hỗ trợ kinh tế vĩ mô cần phải mạnh mẽ và nhanh chóng. So với các nền kinh tế phát triển, việc triển khai các gói hỗ trợ chính sách còn ít và bị trì hoãn ở nhiều nền kinh tế mới nổi. Điều này dẫn đến sự phục hồi kinh tế thất bại, có nguy cơ làm suy yếu tăng trưởng dài hạn. Nếu không nhận được đủ sự hỗ trợ, nhiều công ty sẽ phá sản, các kế hoạch đầu tư không được triển khai, công nhân mất việc làm, trẻ em không được đến trường. Trong khi đó, các nền kinh tế thị trường mới nổi triển khai các gói hỗ trợ lớn đã vận hành rất tốt. Kể từ khi đại dịch bùng phát, Malaysia đã hai lần nâng trần nợ công, từ 55% GDP lên 65% GDP. Malaysia đã tung ra các gói cứu trợ khổng lồ, có quy mô lên tới hơn 35% GDP, giúp nền kinh tế tiếp tục phát triển.
Thứ ba, chi tiêu công nhiều hơn sẽ đồng nghĩa với việc nợ nhiều hơn, vì vậy việc lựa chọn các chương trình chi tiêu tốt là điều cần thiết. Hầu hết các chính phủ đều đang tìm cách xây dựng lại tốt đẹp hơn sau đại dịch - nói cách khác, họ muốn đầu tư cho tương lai. Ví dụ, điều này có nghĩa là tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và kỹ năng số, để tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận với các công nghệ như thương mại điện tử, điện toán đám mây và trí tuệ nhân tạo.
Đầu tư công cũng phải tính tới vấn đề biến đổi khí hậu bằng cách cắt giảm lượng khí thải carbon, ví dụ như tạo ra nhiều điện năng hơn từ các tuabin gió, các tấm pin mặt trời, khí sinh học và sinh khối, thay vì điện than. Đầu tư vào giáo dục và phát triển kỹ năng cũng là điều cần thiết: sau đại dịch, chúng ta sẽ không trở lại với những công việc như cũ: Việt Nam sẽ cần ngày càng nhiều nhân viên chăm sóc sức khỏe được trả lương tốt hơn, nhiều chuyên gia kỹ thuật số hơn và nhiều chuyên gia quản lý chuỗi cung ứng hơn. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng sẽ khó khăn hơn, do các nền kinh tế phát triển đang cố gắng mang dây chuyền sản xuất và việc làm trở lại đất nước của họ, vì vậy, Việt Nam sẽ cần phải tăng cường khả năng cạnh tranh và sự hấp dẫn hơn nữa đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Nói tóm lại, Việt Nam có tiềm năng kinh tế rất lớn. Trước đại dịch, thành tựu kinh tế của Việt Nam rất nổi bật, với mức tăng trưởng GDP trung bình gần 7% mỗi năm. Đây là con số rất là cao. Với những cải cách chính sách đúng đắn, chúng tôi tin tưởng rằng Việt Nam sẽ đạt được sự thịnh vượng về kinh tế trong tương lai gần.
GS.TS.Trần Ngọc Anh, Đại học Indiana Bloomington, Hoa Kỳ:
Phát biểu trực tuyến tại Tọa đàm cấp cao, GS.TS Trần Ngọc Anh đã đưa ra bức tranh toàn cảnh về phục hồi và phát triển kinh tế của một số trụ cột kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, Châu Âu. Theo GS.TS Trần Ngọc Anh, châu Âu đang thực hiện tự chủ chiến lược. Trong đó, về kinh tế thực hiện tự chủ một số ngành (như microchip); Bớt nhập khẩu, đánh thuế những nước có nhiều khí thải; Tăng trưởng 4,3%;…
Nhấn mạnh 3 chính sách trong năm 2022, GS.TS Trần Ngọc Anh cho rằng, cần quan tâm, chú trọng vấn đề về: Lạm phát; Tài chính số và Net-zero.
CÁC ĐẠI BIỂU THAM GIA PHÁT BIỂU Ý KIẾN TẠI DIỄN ĐÀN:
Đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường – Đoàn ĐBQH Tp. Hà Nội, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường – Đoàn ĐBQH Tp. Hà Nội, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Bên cạnh việc tăng cường nguồn lực để phục hồi và phát triển kinh tế, chúng ta cần đánh giá được sức hấp thụ của các chính sách hỗ trợ này ra sao, để đảm bảo hiệu quả, tránh thất thoát.
Theo đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường, hiện tại, tiêu chí để đánh giá, xác định hiệu quả của việc hấp thụ nguồn vốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp đều rất chậm. Cụ thể, tốc độ chuyển vốn vào các hoạt động đầu tư phát triển, tốc độ giải ngân vốn đầu tư công, tốc độ tăng trưởng tín dụng đều chậm. Điều này chứng tỏ sức hấp thụ nguồn vốn hỗ trợ của nền kinh tế đang có vấn đề. Đại biểu băn khoăn dòng vốn hỗ trợ có đang thực sự đi vào các hoạt động sản xuất kinh doanh hay không; giá trị và hiệu quả kinh tế tạo ra so với đồng vốn chuyển vào đầu tư như thế nào…
Đại biểu Hoàng Văn Cường cũng cho rằng, những chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế nước ta trong thời gian tới cần phải làm rõ và giải quyết được vấn đề này; đảm bảo giải ngân vốn đầu tư công nhanh hơn, đưa ra những giải pháp đặc biệt về giải ngân vốn đầu tư công, thậm chí đặt hàng đơn vị tư nhân giải ngân vốn đầu tư công làm sao đảm bảo tiến độ giải ngân nhanh và hiệu quả; ngân hàng cần đồng hành với doanh nghiệp, vốn tín dụng hỗ trợ phải đảm bảo chảy vào đúng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp; kiểm soát chặt chẽ dòng tiền vào các lĩnh vực mong muốn đầu tư; thay đổi phương thức tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp…
Nguyên Phó Thủ tướng Đức Philipp Rosler:
Nguyên Phó Thủ tướng Đức Philipp Rosler
Thưa ngài Chủ tịch Quốc hội, thưa các quý bà, quý ông! Lời đầu tiên tôi muốn gửi lại cảm ơn tới quý vị vì đã mời tôi tham gia ý kiến tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021. Đây là vinh dự lớn của tôi khi được đóng góp tại Diễn đàn và sau đây là một số suy nghĩ, từ góc nhìn của tôi.
Tôi tin tưởng rằng Việt Nam đang phục hồi từ khủng hoảng COVID-19 và Việt Nam nên tập trung vào thế mạnh của mình, đầu tiên và quan trọng nhất là khả năng sản xuất tuyệt vời. Thứ hai, Việt Nam cũng cần phải tập trung vào phát triển công nghệ. Hiện nay, nhiều sản phẩm chất lượng cao đã được sản xuất tại Việt Nam, tuy nhiên, bên cạnh đó, Việt Nam cũng nên tập trung vào năng lực công nghệ của mình. Đã có nhiều mẫu điện thoại thông minh của Hàn Quốc được sản xuất tại Việt Nam và mới đây, Apple cũng đã quyết định đặt cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Và Việt Nam cũng có đội ngũ lao động tay nghề cao, tập trung vào công nghệ. Và tôi nghĩ rằng đây chính là tương lai của nền kinh tế Việt Nam.
Có hai xu hướng chính mà nền kinh tế toàn cầu đang hướng tới. Đầu tiên là phát triển bền vững. Và thứ hai là công nghệ, nói chính xác hơn là số hóa. Về vấn đề phát triển bền vững, Việt Nam có thể đóng góp rất nhiều ở khía cạnh này, bởi Việt Nam có nền nông nghiệp rất vững mạnh. Chúng ta đang tiến tới kỷ nguyên của những giải pháp nhanh hơn, bằng cách ứng dụng công nghệ, sử dụng các ứng dụng nhưng đồng thời chúng ta cũng sản xuất một cách bền vững. Điều này là rất tốt cho các sản phẩm của Việt Nam, nền kinh tế của Việt Nam, và cho cả nền kinh tế thế giới, khi chúng ta chú trọng đến việc sản xuất hàng hóa một cách bền vững. Thứ hai, về mặt công nghệ, Việt Nam có nhiều start up và một cộng đồng doanh nghiệp rất trẻ trung và sáng tạo. Họ nên chú trọng vào công nghệ, và làm thế nào để đưa những tiến bộ về công nghệ vào các ngành công nghiệp cơ bản, ví dụ như giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng, và tất nhiên cả vào ngành sản xuất, chế biến chế tạo, và nông nghiệp.
Tôi tin tưởng rằng Quốc hội Việt Nam đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Tôi có biết nhiều đại biểu Quốc hội Việt Nam và có thể thấy rằng các đại biểu luôn lắng nghe ý kiến của người dân, theo dõi sự biến động của nền kinh tế, từ đó họ tìm ra các giải pháp. Ví dụ như, để thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam một cách nhanh chóng hơn, thu hút vốn đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ tại Việt Nam. Các đại biểu cũng có thể giúp gạt đi các trở ngại liên quan đến thói quan liêu, từ đó các thúc đẩy tinh thần và sự phát triển của các doanh nghiệp tại Việt Nam. Cắt giảm thời gian hình thành nên các doanh nghiệp mới. Hình thành nên hành lang pháp lý… cho toàn bộ xã hội và nền kinh tế Việt Nam. Một lần nữa, tôi biết rất nhiều đại biểu Quốc hội Việt Nam và họ thực sự đã có những đóng góp rất to lớn.
Tôi đặc biệt khuyến nghị Việt Nam nên giữ tinh thần lạc quan. Trước đại dịch COVID-19, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong phát triển kinh tế. Đó là điều mà chúng ta có thể tin tưởng. Thứ hai, Việt Nam có hệ thống pháp luật rất tốt. Và như chúng ta đã trao đổi, các đại biểu Quốc hội Việt Nam luôn lắng nghe những yêu cầu của nền kinh tế. Thứ ba, có tất cả 97 triệu công dân Việt Nam. Người dân Việt Nam được biết đến với sự thông minh, chăm chỉ và rất có tinh thần khởi nghiệp. Từ nền tảng xã hội như vậy, Việt Nam có thể đạt được hầu như tất cả mọi thứ. Mặc dù tôi là người Đức nhưng hiện nay tôi đang sống tại Thụy Sỹ và tôi có thể nói rằng, người Việt Nam thực chất khá giống với người Thụy Sĩ. Tất nhiên về hình thức, chúng ta không giống nhau, nhưng tư duy lại thực sự tương đồng. Đây là lý do tại sao nhiều người nói rằng, người Thụy Sĩ thì ở châu Âu và người Việt Nam thì giống như người Thụy Sĩ tại ASEAN vậy. Tôi nghĩ rằng tất cả những điều này có thể giúp chúng ta tự tin rằng, chúng ta sẽ vượt qua khủng hoảng do đại dịch COVID-19, với sức mạnh và động lực từ những con người Việt Nam.
Tôi đã có vinh dự được gặp gỡ Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và Đoàn Đại biểu cấp cao Quốc hội Việt Nam tại Viên, Áo. Tôi nghĩ rằng, Đoàn đại biểu từ Việt Nam đã đi ra cộng đồng thế giới để nêu bật lên những phẩm chất của con người Việt Nam, đất nước và nền kinh tế Việt Nam. Và đó thực sự là cách thức đúng đắn để nói về những điều tốt đẹp mà Việt Nam có thể làm được, và những điều tuyệt vời mà tất cả mọi người có thể làm được tại Việt Nam. Nếu như muốn tìm kiếm sự hợp tác, thì chúng ta cần phải trực tiếp làm điều đó. Đó cũng là những điều mà Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, Chủ tịch nước và Thủ tướng Việt Nam đã làm. Các nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đã đi ra thế giới để tìm kiếm những đối tác toàn cầu. Tôi đã có dịp đồng hành cùng các đoàn đại biểu của Việt Nam và thấy rằng, các đoàn đại biểu có thể quyết định, ký kết rất nhiều các thỏa thuận, biên bản ghi nhớ. Đó là minh chứng rõ ràng về hướng đi đúng đắn. Đi ra thế giới và tìm kiếm các đối tác trên toàn cầu. Và tôi có thể nói rằng, Việt Nam luôn được đón chào trên toàn thế giới.
Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam Đặng Hồng Anh:
Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam Đặng Hồng Anh
Trên cơ sở lắng nghe các đề xuất, kiến nghị của hơn 10.000 hội viên Hội Doanh nhân trẻ, tôi xin có những ý kiến đóng góp để phục hồi nền kinh tế.
Với mục tiêu khôi phục và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho sự hồi phục của doanh nghiệp, sinh kế của người dân, Chính phủ đang soạn thảo gói phục hồi nền kinh tế để trình Quốc hội phê duyệt theo tinh thần Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII là xem xét, điều chỉnh chính sách tài khóa và tiền tệ theo hướng linh hoạt, phù hợp để phục hồi, thúc đẩy nền kinh tế-xã hội.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ lại gói kích cầu kinh tế năm 2008 và 2009. Quy mô gói kích cầu kinh tế khi đó đã giúp cho đất nước vượt qua khủng hoảng và Việt Nam là một trong số rất ít nước có tăng trưởng dương. Mặc dù gói kích cầu đầu tư đã giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng tại thời điểm đó nhưng cũng tạo ra những hệ lụy to lớn cho sự phát triển bền vững khi chính sách tuy đúng đắn nhưng việc thực hiện thiếu đồng bộ, thiếu giám sát dẫn tới thất thoát, tiêu cực, thậm chí là tác dụng ngược và không đến đúng đối tượng. Nguyên nhân chính được đúc kết là do thiếu cơ chế kiểm soát tốt trong quá trình triển khai chính sách, thiếu sự phối hợp, trao đổi giữa khu vực doanh nghiệp, các cơ quan, chủ thể trong thực thi chính sách kích cầu nên khi thực hiện quy mô lớn nhưng dòng tiền ít dành cho sản xuất mà lại vào chứng khoán, đầu cơ bất động sản. Hậu quả là lạm phát tăng cao gây bất ổn nền kinh tế vĩ mô, kìm hãm sự hồi phục kinh tế.
Trước những bất cập trên, tôi xin kiến nghị với Quốc hội cần tập trung vào công tác giám sát thực thi chính sách, kích cầu kinh tế theo phương châm từ xa, từ sớm. Đây là mô hình tiên tiến nhất hiện nay về giám sát thực thi chính sách theo phương châm khoa học, toàn diện và xuyên suốt bắt đầu từ khi xây dựng chính sách. Việc giám sát, đánh giá hiệu quả thực hiện được diễn ra song song với quá trình triển khai chính sách. Cách làm này đặc biệt phù hợp với chính sách kích cầu kinh tế bởi nó cho phép chính sách được cập nhật, điều chỉnh kịp thời khi gặp những vướng mắc, vấn đề phát sinh trong thực tiễn, tránh sự bất cập không được giải quyết trong quá trình triển khai khiến cho việc giải ngân liên tục bị gián đoạn và làm giảm hiệu quả của chính sách. Ngoài ra, phương pháp tiếp cận từ xa, từ sớm cũng giúp nâng cao tính thực tiễn, tính đại diện của chính sách thông qua cơ chế tham vấn công tư và sự vào cuộc, giám sát, phối hợp thực hiện của chính các đối tượng thụ hưởng. Qua đó, đảm bảo hiệu quả cao nhất việc đưa chính sách vào đời sống của người dân.
Trên thực tế, mô hình giám sát chính sách từ xa, từ sớm đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia và hiệu quả của nó đã được chứng minh. Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam trân trọng đề xuất trên và mong nhận được sự phối hợp với các nhà khoa học, các tổ chức quốc tế thực hiện một chương trình hỗ trợ Quốc hội triển một chương trình giám sát chính sách từ xa, từ sớm, với nguồn tài trợ từ ngân hàng WB và các chuyên gia nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất khi thực hiện hiệu qủa gói kích cầu kinh tế để Việt Nam vượt quá khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh:
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh
Cũng tại Diễn đàn, ông Đặng Hồng Anh - Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam đã đặt câu hỏi với Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh của Quốc hội: “Theo ông, chính sách nào để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển bền vững trong thời gian tới?”
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho rằng câu hỏi của Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam cũng chính là câu hỏi trăn trở của nhóm nghiên cứu của Ủy ban kinh tế để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi kinh tế và phát triển bền vững trong thời gian tới.
Nhận thức rằng doanh nghiệp là trụ cột của nền kinh tế, thời gian qua, đây là lực lượng xung kích đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh khẳng định, sức khỏe của doanh nghiệp gắn liền với sức khỏe của nền kinh tế. Doanh nghiệp khỏe mạnh, sản xuất kinh doanh tốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nộp ngân sách cho Nhà nước. Còn doanh nghiệp khó khăn thì kinh tế đất nước cũng khó khăn. Trong thời gian qua, nhờ có chủ trương, định hướng đúng đắn của Đảng, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã có bước tăng trưởng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Một số tập đoàn kinh tế tư nhân đã vươn ra sánh vào với các doanh nghiệp của thế giới.
Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cũng chỉ rõ, trong gần 2 năm vừa qua do đại dịch COVID-19, sức khỏe của doanh nghiệp đã bị bào mòn, do vậy cần phải có những gói chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ đã quan tâm và đưa ra các gói hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã quan tâm đến vấn đề này và ban hành một số Nghị quyết nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp chịu tác động của dịch COVID-19. Trong đó, Nghị quyết số 30/2021/QH15 của Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa XV đã tạo cơ chế đặc thù cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để chủ động, linh hoạt trong điều hành phòng, chống dịch, qua đó tạo môi trường cho doanh nghiệp ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh…; Nghị quyết 406/NQ-UBTVQH15 về ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân gặp khó khăn do tác động của dịch COVID-19.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu rõ, tại “Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021: Phục hồi và Phát triển bền vững”, trong gói hỗ trợ sách chung thì các chuyên gia đã đề xuất những cơ chế, chính sách cho cộng đồng doanh nghiệp. Nhóm nghiên cứu của Thường trực Ủy ban Kinh tế cũng đã gợi mở các gói hỗ trợ cho doanh nghiệp như miễn giảm thuế phí cho doanh nghiệp, trực tiếp hơn giảm chi phí đầu vào cho cộng đồng doanh nghiệp như chi phí điện, nước… Bên cạnh đó, nghiên cứu đề xuất một số chính sách về giảm thuế VAT 2%, đối với các hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước đang hưởng thuế suất 10%. Đồng thời đã đề xuất gói hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp. Thường trực Ủy ban Kinh tế cũng kiến nghị cần rút kinh nghiệm để tránh rơi vào vấn đề trục lợi của các gói chính sách trước đây.
Liên quan đến ý kiến của đại biểu Hoàng Văn Cường, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, tại Diễn đàn, TS.Cấn Văn Lực cũng đã đề xuất các gói hỗ trợ lãi suất cho xây dựng nhà cung cư cũ, cho nhà ở xã hội, nhà ở công nhân khu công nghiệp qua hình thức thuê, mua… Đây là hình thức trọng tâm, trọng điểm có thể lan tỏa, kích thích phát triển nền kinh tế, các chính sách cho các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề do đại dịch COVID-19 như du lịch, dịch vụ, hàng không, đường sắt, đường bộ, đồng thời cũng đề xuất các chính sách cho các ngành nghề có dư địa phát triển như chuyển đổi số và thương mại điện tử. Đây là những ngành nghề có khảnăng phục hồi nhanh sau đại dịch.
Cũng tại Diễn đàn, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, vừa qua, Ủy ban Kinh tế đã tổ chức thẩm tra, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án một luật sửa 8 luật trong thời gian tới. Vấn đề cần nhất với doanh nghiệp hiện nay chính là cải cách thể chế. Thời gian tới, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét dự án một luật sửa 8 luật, trình ra kỳ họp bất thường của Quốc hội và thông qua được cũng là cách để cải cách thể chế, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn của đại dịch. Với nhiều doanh nghiệp lớn giữ vai trò dẫn dắt thị trường, nhiều doanh nghiệp trẻ tâm huyết và trách nhiệm với sự phát triển của đất nước… có mặt tại Diễn đàn này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh mong muốn, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới sẽ đoàn kết hơn, kết nối nhiều hơn để đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội hy vọng, khó khăn hiện nay chỉ là tạm thời, với sự đoàn kết, khát khao, cống hiến của doanh nghiệp, với sự vào cuộc, hỗ trợ bằng những chính sách, cơ chế của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ sớm vượt qua khó khăn để phục hồi và phát triển, đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế của đất nước./.