KẾT QUẢ XỬ LÝ NỢ XẤU CHƯA THỰC SỰ VỮNG CHẮC, NỀN KINH TẾ VẪN TIỀM ẨN RỦI RO

08/06/2022

Đánh giá việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc, thực trạng nợ xấu cho thấy nền kinh tế vẫn tiềm ẩn rủi ro.

 

Đánh giá việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, với những đóng góp của Nghị quyết số 42, trong giai đoạn 2017-2021, nợ xấu cơ bản được kiểm soát, tỷ lệ nợ xấu nội bảng được duy trì ở mức dưới 2% (đạt mục tiêu đặt ra khi ban hành Nghị quyết là duy trì dưới 3%), trong đó tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng đến 31/12/2021 là 1,49%, giảm so với thời điểm trước khi triển khai Nghị quyết (tại thời điểm 31/7/2017, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng là 2,51%); nhiều tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu giảm đáng kể so với thời điểm trước khi triển khai Nghị quyết. Bên cạnh đó, quy mô, năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng được tăng cường; năng lực quản trị, điều hành tiếp tục được nâng cao; sự an toàn, ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng được giữ vững; hệ thống các tổ chức tín dụng giữ vai trò chủ đạo trong bảo đảm cung ứng vốn cho nền kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, đặc biệt là trong bối cảnh dịch COVID-19.

Tuy nhiên, theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc, thực trạng nợ xấu cho thấy nền kinh tế vẫn tiềm ẩn rủi ro. Một số biện pháp áp dụng theo Nghị quyết số 42 còn chưa thực sự phát huy hiệu quả (như áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án...). Đối với nợ xấu nói chung, xử lý bằng dự phòng rủi ro còn chiếm tỷ lệ cao (47% tổng nợ xấu được xử lý); một số lĩnh vực có số nợ xấu chiếm tỷ trọng cao so với nợ xấu của toàn hệ thống như: bất động sản (chiếm 18,4%); cho vay tiêu dùng (chiếm 25,8%); BOT, BT giao thông (3,92%); nợ xấu của lĩnh vực đầu tư, kinh doanh cổ phiếu và đầu tư, kinh doanh trái phiếu chỉ chiếm lần lượt là 1,13% và 0,01% so với nợ xấu của toàn hệ thống nhưng chiếm tới 19,57% và 2,87% tổng dư nợ tín dụng của từng lĩnh vực. Đây là những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, có thể gây ảnh hưởng đến sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng nói riêng và nền kinh tế nói chung, nhất là trong điều kiện năng lực chống chịu của nền kinh tế còn hạn chế.

Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ phân tích rõ hơn nguyên nhân dẫn đến số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 đến nay còn ở mức khá cao và có xu hướng gia tăng; các giải pháp đã triển khai thực hiện để nhận diện cũng như kiểm soát rủi ro đối với các khoản cho vay, nhất là các khoản thuộc các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Có ý kiến đề nghị đánh giá về chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ (được thực hiện đến ngày 30/6/2022), mặc dù chính sách này hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh dịch COVID-19 nhưng có thể phản ánh không đầy đủ nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nền kinh tế. 

Toàn cảnh phiên họp

Về khó khăn, vướng mắc trong triển khai Nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế nêu rõ, tại Báo cáo số 358/BC-CP ngày 5/8/2020 về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 42, Chính phủ đã nêu 11 nhóm vấn đề khó khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 42. Ủy ban Kinh tế cũng đã có Báo cáo số 2321/UBKT14 ngày 23/10/2020 đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết, trong đó đã kiến nghị một số nội dung để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Tuy nhiên, đến nay tại Báo cáo số 174, Chính phủ tiếp tục nêu 6 nhóm vấn đề khó khăn, vướng mắc; so với báo cáo kết quả 3 năm, có 5 vấn đề không tiếp tục được đề cập tại Báo cáo số 174 gồm: Khó khăn, vướng mắc liên quan đến phối hợp thu giữ tài sản bảo đảm; Về đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu; Về điều kiện chuyển nhượng tài sản bảo đảm là dự án bất động sản (khoản 1 Điều 10); Về công tác phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự. Về giới hạn phạm vi lựa chọn tổ chức thẩm định giá, nhưng bổ sung 2 nội dung trong số 6 nhóm vấn đề gồm: Về xử lý tài sản nằm trên/trong tài sản bị thu giữ; Về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho rằng, ngoài vướng mắc liên quan đến đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đã được xử lý theo Thông tư số 09/2021/TT-BTNMT ngày 30/6/2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các khó khăn, vướng mắc khác, bao gồm cả các vấn đề đã nêu tại Báo cáo số 358 và Báo cáo số 174 của Chính phủ, đến nay các tổ chức tín dụng và các cơ quan liên quan vẫn tiếp tục phản ánh, kiến nghị trong quá trình triển khai. Qua các báo cáo và kết quả làm việc với các cơ quan liên quan, Ủy ban Kinh tế nhận thấy còn khó khăn, vướng mắc chủ yếu là việc áp dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết chưa thực sự đạt hiệu quả, nhất là đối với các khoản nợ xấu phát sinh trước thời điểm 15/8/2017 do hầu hết các hợp đồng bảo đảm được ký trước thời điểm Nghị quyết số 42 có hiệu lực không quy định trực tiếp nội dung về thỏa thuận thu giữ tài sản bảo đảm, dẫn đến tỷ lệ thu giữ thành công còn chưa cao.

Ngoài ra, một số nội dung tại Nghị quyết chưa được hướng dẫn đầy đủ, chưa thống nhất hoặc khó triển khai, thiếu một số hướng dẫn cụ thể về: Phương pháp thẩm định giá đối với các khoản nợ, làm cơ sở triển khai quy định tại khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết; Trường hợp trên/trong tài sản bị thu giữ có các tài sản khác của bên bảo đảm hoặc bên thứ ba (các đồ gia dụng, điện tử, giường tủ…); chế tài xử lý hoặc cơ chế, cách thức tiến hành cưỡng chế trong trường hợp bên bảo đảm, bên giữ tài sản không hợp tác hoặc xử lý TSBĐ là tài sản duy nhất của bên bảo đảm để triển khai quy định tại Điều 7 của Nghị quyết; Nội hàm quy định về “Tài sản tranh chấp trong vụ án” tại điểm d khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết; Nội hàm quy định về “không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án” quy định tại Điều 14 của Nghị quyết.

Minh Hùng