Hội thảo về phát triển thị trường vốn lành mạnh, minh bạch trong tình hình mới
Sau 20 năm phát triển, thị trường vốn của Việt Nam phát triển nhanh cả về chiều rộng và chiều sâu; khung khổ pháp lý được hoàn thiện; quy mô, sản phẩm, thanh khoản tăng nhanh, góp phần huy động được nguồn lực tài chính rất quan trọng cho nền kinh tế, hỗ trợ và bổ sung cho kênh cung ứng vốn truyền thống là tín dụng ngân hàng.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, hiện nay khung khổ pháp lý về thị trường vốn ngày càng được hoàn thiện, theo hướng: tăng cường các biện pháp tái cơ cấu tổ chức tín dụng (TCTD), định chế tài chính yếu kém, xử lý các hành vi vi phạm trên thị trường; nâng cao tính minh bạch, kỷ luật thị trường và chuẩn mực giám sát; tiệm cận gần hơn với thông lệ, nguyên tắc và các cam kết quốc tế; thúc đẩy thị trường vốn phát triển nhanh, mạnh hơn, góp phần đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của hệ thống tài chính.
Một số văn bản pháp lý và thể chế chính sách quan trọng đã được ban hành như: Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng; Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020”;… ra đời giúp đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu cũng như tăng cường nhận thức, trách nhiệm của khách hàng, TCTD trong việc tuân thủ quy định của pháp luật, đảm bảo an toàn hệ thống, góp phần ổn định tài chính, tiền tệ của quốc gia. Luật Chứng khoán sửa đổi năm 2019 khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Chứng khoán năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2010), tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển, bảo đảm an ninh, an toàn thị trường chứng khoán; Nghị định 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán; Nghị định 156/2020/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán.... củng cố, hoàn thiện nền tảng pháp lý để thị trường hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) riêng lẻ thay thế Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04 tháng 12 năm 2018 của Chính phủ quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp và Nghị định số 81/2020/NĐ-CP ngày 09/7/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04/12/2018 quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Theo đó, khung khổ pháp lý thị trường TPDN đã liên tục được hoàn thiện, đảm bảo phù hợp với thông lệ tốt của quốc tế, thị trường đã dần hình thành các cấu phần cần thiết để phát triển, đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các DN, tổ chức kinh tế, cũng như nhu cầu đầu tư của thị trường.
Các nhà quản lý, nhà nghiên cứu cũng cho rằng, quy mô thị trường tăng nhanh. Quy mô thị trường chứng khoán tăng nhanh trong giai trong giai đoạn 2016-2017 và 2020-2021. Đến tháng 6/2022, giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán tương đương 78,16% GDP (tháng 12/2015, vốn hoá thị trường chứng khoán tương đương 41,8% GDP). Trong đó, vốn hoá thị trường cổ phiếu tăng khoảng 340% so với cuối năm 2015; vốn hoá thị trường trái phiếu tăng 111% so với cuối năm 2015.
Quy mô thị trường chứng khoán tăng trưởng mạnh và từng bước thu hẹp khoảng cách với thị trường tiền tệ (hiện tỷ lệ tín dụng/GDP tại thời điểm tháng 6/2022 đạt khoảng 113,9%), chia sẻ vai trò kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, hỗ trợ tiếp cận nguồn lực tài chính cho doanh nghiệp để ổn định và phát triển sản xuất, đặc biệt là có thêm nguồn lực mở rộng quy mô hoặc đầu tư vào công nghệ, giảm rủi ro phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngắn hạn của hệ thống ngân hàng thương mại. Tổng giá trị huy động vốn qua thị trường chứng khoán giai đoạn 2016 - 2020 tăng 133% so với giai đoạn 2011 – 2015, trong đó huy động vốn qua TPDN tăng 532%, huy động vốn qua phát hành TPCP tăng 54%, giá trị thu được qua cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp tăng 712%.
Nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu cũng nêu rõ, trên cả ba thị trường ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, các sản phẩm dịch vụ tài chính phát triển nhanh, xuất hiện nhiều sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của các khách hàng và nhà đầu tư. Đặc biệt, các sản phẩm ngày càng được phát triển theo hướng tích hợp công nghệ do ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài chính được đẩy mạnh. Trong lĩnh vực ngân hàng, các TCTD đang tích cực đầu tư hạ tầng công nghệ để chuyển đổi mô hình từ ngân hàng truyền thống sang ngân hàng số. Trên thị trường chứng khoán, trong giai đoạn 2016 - tháng 6/2022, số doanh nghiệp niêm yết tăng từ hơn 1100 mã cổ phiếu, chứng chỉ quỹ lên hơn 1600 mã cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Các sản phẩm được đa dạng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư, phòng ngừa rủi ro như quỹ mở, quỹ thành viên, quỹ ETF, quỹ đầu tư bất động sản (REIT). Tháng 8/2017, thị trường chứng khoán phái sinh ra đời với sản phẩm hợp đồng tương lai chỉ số VN30. Tháng 6/2019, sản phẩm chứng quyền có bảo đảm chính thức được đưa vào giao dịch.
Ngoài ra, theo đánh giá của nhiều chuyên gia tài chính, tình hình tài chính và hoạt động của các định chế tài chính nhìn chung đảm bảo an toàn, ổn định. Hoạt động cơ cấu lại các TCTD yếu kém kết hợp với xử lý nợ xấu đã đạt được các kết quả tích cực. Hệ thống TCTD đã thoát khỏi rủi ro đổ vỡ và tác động tiêu cực đến tổng thể hệ thống. Các ngân hàng đã có bước tiến lớn trong việc đáp ứng các yêu cầu an toàn vốn theo các thông lệ quốc tế. Đến tháng 6/2022, có 26/35 ngân hàng thương mại trong nước áp dụng Thông tư 41/2016/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện trụ cột I của Basel II. Mức độ tập trung vốn tại các ngân hàng thương mại vốn nhà nước giảm; cạnh tranh trên thị trường ngày một tăng. Cùng với đó, hệ thống CTCK, công ty Quản lý quỹ (QLQ) được tái cơ cấu, lành mạnh hóa tài chính, chất lượng tài sản được cải thiện. Theo đó, tính đến 30/6/2021, 82 CTCK trên thị trường có tổng tài sản tăng 3,7 lần so với cuối 2016, tổng vốn chủ sở hữu tăng 2,3 lần. Tỷ lệ nợ có vấn đề giảm xuống 2,1% từ mức 6,4% năm 2016. Đến 30/6/2021, có 46 công ty QLQ đang hoạt động với vốn chủ sở hữu tăng 33%.