TỔNG THUẬT SÁNG 20/10: KHAI MẠC KỲ HỌP THỨ 4, QUỐC HỘI KHÓA XV
Toàn cảnh Phiên họp Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XV, ngày 20/10/2022
Theo đó, trong chương trình Phiên họp chiều nay, Quốc hội tiếp tục nghe: Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2022, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2023 và Kế hoạch tài chính 3 năm 2023-2025; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự thảo Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội (sửa đổi)...
16h34: Sau khi nghe tờ trình, báo cáo về đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2022, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2023 và Kế hoạch tài chính 3 năm 2023-2025; dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); dự thảo Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; dự thảo Nghị quyết ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội, cuối phiên họp chiều ngày 20/10, Quốc hội tiến hành họp riêng về công tác nhân sự, dưới dự điều hành của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ.
16h27: Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng: Đảm bảo việc tổ chức Kỳ họp linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thực tiễn
Thẩm tra dự thảo Nghị quyết ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng nêu rõ, Ủy ban Pháp luật tán thành việc nghiên cứu sửa đổi Nội quy kỳ họp Quốc hội; thống nhất với 04 mục đích, quan điểm chỉ đạo xây dựng dự thảo Nghị quyết ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội (sửa đổi) được nêu trong Tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung Nội quy kỳ họp Quốc hội với 31 nhóm vấn đề mới đã cơ bản đáp ứng mục đích, quan điểm do Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề ra. Nội dung của dự thảo Nội quy kỳ họp phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, cơ bản bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật. Hồ sơ dự thảo Nghị quyết cơ bản đầy đủ các tài liệu theo quy định tại khoản 1 Điều 64 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Về Kỳ họp Quốc hội, Ủy ban Pháp luật tán thành với việc bổ sung quy định về kỳ họp thường lệ và kỳ họp bất thường trong dự thảo Nội quy kỳ họp. Bên cạnh đó, đề nghị cân nhắc bổ sung quy định kỳ họp Quốc hội có thể được tổ chức liên tục hoặc theo hai hay nhiều đợt tùy theo nội dung, chương trình được Quốc hội thông qua tại khoản 2 Điều 1 của dự thảo Nội quy kỳ họp để bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Pháp luật đề nghị cân nhắc để quy định phù hợp hơn đối với trường hợp một số đại biểu bắt buộc phải vắng mặt tại một số phiên họp toàn thể, họp Tổ... để tham gia các cuộc làm việc với cơ quan soạn thảo, cơ quan hữu quan về tiếp thu, chỉnh lý, rà soát kỹ thuật các dự thảo luật, nghị quyết trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thì không coi là vắng họp.
Về chương trình kỳ họp Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật đề nghị trong Điều 6 của dự thảo Nội quy kỳ họp nghiên cứu, bổ sung quy định về những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng chương trình kỳ họp đã được thực hiện hiệu quả như: bố trí thời gian thảo luận các dự án luật, dự thảo nghị quyết được thông qua tại kỳ họp trước các dự án luật, dự thảo nghị quyết được xem xét lần đầu; phiên thảo luận về kinh tế - xã hội được tổ chức trước phiên chất vấn và trả lời chất vấn; các nội dung trong các lĩnh vực có liên quan đến nhau được bố trí thảo luận gần nhau…
Về chất vấn tại phiên họp toàn thể, Ủy ban Pháp luật cơ bản tán thành với quy định về chất vấn, tranh luận của đại biểu Quốc hội trong phiên chất vấn theo quy định tại Điều 19 của dự thảo Nội quy kỳ họp. Tuy nhiên, về khoản 3 Điều 19, Ủy ban Pháp luật đề nghị: Ngoài việc kéo dài thời gian trả lời chất vấn, cần bổ sung quy định về kéo dài thời gian phiên chất vấn; xác định rõ thời gian kéo dài tối đa trong từng trường hợp. Bổ sung điều kiện kéo dài thời gian phiên chất vấn cần xin ý kiến và được sự đồng ý của Quốc hội để bảo đảm tính thống nhất với quy định về phiên họp toàn thể của Quốc hội tại Điều 18.
16h10: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội (sửa đổi)
Nội quy kỳ họp Quốc hội năm 2015 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần được sửa đổi, bổ sung Trình bày tờ trình về dự thảo Nghị quyết ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội (sửa đổi), Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết: Nội quy kỳ họp Quốc hội được ban hành kèm theo Nghị quyết số 102/2015/QH13 của Quốc hội ngày 24/11/2015 (Nội quy năm 2015).
Sau gần 07 năm thi hành, Nội quy đã cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để Quốc hội triển khai thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn với nhiều quy trình, thủ tục mới được cập nhật, quy định cụ thể. Việc thực hiện Nội quy đã góp phần thúc đẩy hoạt động của Quốc hội ngày càng chuyên nghiệp, bài bản và nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả các kỳ họp Quốc hội.
Tuy nhiên, Nội quy năm 2015 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần được sửa đổi, bổ sung. Cụ thể: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2020 và nhiều đạo luật khác đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Một số điều, khoản tại Nội quy năm 2015 không còn phù hợp với thực tiễn, nhất là từ năm 2016, Quốc hội đã có nhiều cải tiến, đổi mới trong công tác chuẩn bị và tiến hành kỳ họp đã được thực tiễn kiểm nghiệm tính hợp lý, được đại biểu Quốc hội, cử tri và Nhân dân đánh giá cao. Do đó, việc sửa đổi Nội quy kỳ họp là cần thiết.
Hoàn thiện các quy định về kỳ họp Quốc hội theo hướng đầy đủ, khoa học và hợp lý
Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường nhấn mạnh, việc sửa đổi, bổ sung Nội quy năm 2015 dựa trên quan điểm quán triệt: Thể chế hóa chủ trương của Đảng tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Chương trình hành động của Đảng đoàn Quốc hội. Đồng thời, việc sửa đổi, bổ sung Nội quy năm 2015 nhằm hoàn thiện các quy định liên quan đến kỳ họp Quốc hội theo hướng quy định đầy đủ quy trình, thủ tục chặt chẽ, cụ thể, khoa học, hợp lý tại kỳ họp; những quy trình, thủ tục cụ thể liên quan đến kỳ họp đã được quy định tại các luật chuyên ngành thì không quy định lại mà chỉ dẫn chiếu nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường nhấn mạnh: Việc sửa đổi, bổ sung Nội quy năm 2015 cũng kế thừa, phát huy có hiệu quả những quy định còn phù hợp; nội quy hóa những vấn đề cải tiến, đổi mới trong công tác chuẩn bị, tiến hành kỳ họp, tạo thuận lợi cho đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình tại kỳ họp, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả kỳ họp. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước thực hiện chuyển đổi số trong các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội, bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả của kỳ họp Quốc hội.
Nội dung cơ bản của dự thảo nghị quyết
Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết, trên cơ sở thực tiễn và quán triệt quan điểm, mục đích sửa đổi, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị hình thức văn bản là Nghị quyết ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội (sửa đổi), gồm 3 chương với 57 điều (tăng 01 điều so với Nội quy hiện hành), trong đó, bổ sung 09 điều, sửa đổi 43 điều, kế thừa nguyên văn 05 điều.
Dự thảo Nội quy (sửa đổi) quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục tiến hành kỳ họp Quốc hội; quy định cụ thể thẩm quyền của chủ thể tiến hành một số thủ tục tại kỳ họp Quốc hội; dành 01 điều quy định dẫn chiếu các quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục tiến hành các nội dung của kỳ họp Quốc hội tại các luật, nghị quyết, bao gồm việc: xem xét, thông qua luật, nghị quyết; giám sát tối cao, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm; quyết định trưng cầu ý dân; tiếp công dân.
Bố cục của Dự thảo Nội quy gồm 3 chương với 57 điều (tăng 01 điều so với Nội quy hiện hành), trong đó, bổ sung 09 điều, sửa đổi 43 điều, kế thừa nguyên văn 05 điều.
Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường nhấn mạnh, dự thảo cũng đã được rà soát và gom những nội dung được tiến hành theo quy trình giống nhau để quy định trình tự, thủ tục chung.
15h57: Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Nguyễn Phú Cường: Làm rõ yếu tố đặc thù để khai thác, phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế của Thành phố Buôn Ma Thuột.
Trình bày Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Phú Cường cho biết, Ủy ban Tài chính, Ngân sách đã phối hợp với các cơ quan liên quan để thẩm tra Tờ trình của Chính phủ về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Đa số ý kiến nhất trí chủ trương ban hành Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Buôn Ma Thuột, tuy nhiên có ý kiến đề nghị cân nhắc việc ban hành Nghị quyết đặc thù đối với Thành phố Buôn Ma Thuột vì việc ban hành Nghị quyết của Quốc hội về chính sách đặc thù cho một Thành phố trực thuộc tỉnh là điểm mới. Nếu chỉ áp dụng chính sách ưu tiên cho doanh nghiệp, người lao động tại thành phố Buôn Ma Thuột thì chưa bình đẳng giữa các đối tượng trong cùng tỉnh Đắk Lắk, ảnh hưởng đến chính sách khuyến khích đến với địa bàn khó khăn khi mà nơi có điều kiện thuận lợi lại được ưu đãi hơn.
Đánh giá chung về nội dung Dự thảo Nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Phú Cường nhấn mạnh, đây là trường hợp đặc biệt khi lần đầu trình Quốc hội ban hành cơ chế, chính sách đặc thù cho một đơn vị cấp huyện. Điều này cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của thành phố Buôn Ma Thuột đối với phát triển kinh tế - xã hội, ổn định quốc phòng, an ninh trên địa bàn Tây Nguyên. Đa số ý kiến tán thành về mặt chủ trương ban hành Nghị quyết. Đề nghị sau khi được Quốc hội thông qua, Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu một số cơ chế đặc thù phù hợp, tạo động lực phát triển vùng Tây Nguyên, trong đó lưu ý đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp chế biến, năng lượng sạch; phát triển chuỗi giá trị sản phẩm đối với một số cây trồng đặc thù; Ưu đãi đầu tư phát triển du lịch, dịch vụ theo hướng xanh, sinh thái, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; Ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là y tế, giáo dục.
Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội đề nghị Chính phủ xem xét lại tính hợp lý của nội dung Nghị quyết vì: Về quy mô, các chính sách còn ít; khó tạo sức lan tỏa vùng miền, trong khi đó mục tiêu ban hành Nghị quyết này theo Tờ trình của Chính phủ, không chỉ nhằm phát triển một Thành phố Buôn Ma Thuột mà là tạo cơ sở để phát triển cả khu vực Tây Nguyên.
Về tính chất, các chính sách chưa thể hiện đậm nét yếu tố đặc thù về điều kiện kinh tế-xã hội để khai thác, phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế của Thành phố Buôn Ma Thuột nói riêng và cả khu vực Tây Nguyên nói chung, trong đó có đặc thù về tài nguyên thiên nhiên, giá trị văn hóa, lịch sử, con người với 40 dân tộc bản sắc đa dạng; với vị trí địa lý là trung tâm vùng Tây Nguyên, tam giác Lào - Việt Nam - Căm-pu-chia. Nếu đối chiếu giữa mục tiêu đề ra trong Kết luận 67 với nội dung Dự thảo Nghị quyết thì khó “tạo đột phá đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội thành phố”.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội cũng nêu một số nội dung cụ thể trong dự thảo Nghị quyết như: quản lý tài chính, ngân sách nhà nước; các chính sách ưu đãi thuế; ưu đãi đối với sản xuất, chế biến cà phê; quản lý quy hoạch; ưu đãi đối với chuyên gia, nhà khoa học, tài năng đặc biệt…
Theo đó, Ủy ban Tài chính, Ngân sách nhất trí với quy định phân bổ thêm 45% theo tỷ lệ phần trăm (%) định mức chi thường xuyên như Dự thảo Nghị quyết quy định: Tỉnh Đắk Lắk được phân bổ thêm 45% theo tỷ lệ phần trăm (%) định mức chi thường xuyên. Số chi tăng thêm được bố trí chi cho các nhiệm vụ chi của thành phố Buôn Ma Thuột.
Đa số ý kiến cũng nhận thấy sự cần thiết có chính sách khuyến khích sản xuất, chế biến cà phê là phù hợp với đặc thù Thành phố Buôn Ma Thuột. Tuy nhiên, quy định như Dự thảo Nghị quyết là chưa chặt chẽ vì nội hàm đối tượng ưu đãi là “Dự án đầu tư sản xuất, chế biến cà phê trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột được hưởng các ưu đãi” chưa được xác định rõ ràng. Đây là các dự án trồng cà phê và chế biến cà phê có được trên địa bàn Buôn Ma Thuột hay có thể mang cà phê từ địa phương khác đến để chế biến và hưởng ưu đãi? Hơn nữa, mức thuế suất ưu đãi, thời gian ưu đãi cao nhất cần được cân nhắc để bảo đảm tương quan với các địa phương khác theo đúng tinh thần Kết luận 67 của Bộ Chính trị…
Đối với quy định về ưu đãi đối với chuyên gia, nhà khoa học, tài năng đặc biệt, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Phú Cường nêu rõ, việc tạo cơ chế, chính sách thu hút chuyên gia, nhà khoa học, tài năng đặc biệt làm việc tại Thành phố Buôn Ma Thuột là cần thiết, góp phần tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị không áp dụng quy định trên vì Luật Thuế thu nhập cá nhân chỉ quy định đối tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo thì mới được xem xét giảm thuế. Nếu quy định như dự thảo sẽ dẫn đến chưa công bằng giữa các địa phương và giữa các đối tượng trên cùng địa bàn tỉnh Đắk Lắk…
15h46: Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: Vệc xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù cho thành phố Buôn Ma Thuột nhằm cụ thể hóa chỉ đạo của Bộ Chính trị, phát huy các tiềm năng, lợi thế để phát triển thành phố Buôn Ma Thuột nhanh và bền vững
Sự cần thiết ban hành Nghị quyết
Trình bày Tờ trình về dự thảo Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội cho phép áp dụng thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk là cần thiết. Vì thành phố Buôn Ma Thuột có vị trí trung tâm vùng Tây Nguyên, kết nối các trung tâm phát triển vùng Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và tam giác phát triển Lào - Việt Nam - Căm-pu-chia.
Thành phố Buôn Ma Thuột là đô thị loại I mang những đặc trưng cơ bản của một đô thị trung tâm đa chức năng, có sức lan tỏa về kinh tế, văn hóa và có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của vùng Tây Nguyên và cả nước.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng chỉ rõ, thành phố Buôn Ma Thuột phát triển kinh tế chưa tương xứng với vị trí, tiềm năng, lợi thế; thiếu sự kết nối trong phát triển giữa các ngành theo chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ cao; kết cấu hạ tầng còn thiếu đồng bộ; huy động nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Buôn Ma Thuột chưa đạt yêu cầu đề ra. Thành phố Buôn Ma Thuột chưa thực sự đóng vai trò là đô thị trung tâm của vùng Tây Nguyên, chưa trở thành cực tăng trưởng có tác động lan tỏa tới các tỉnh trong Vùng.
Việc xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù cho thành phố Buôn Ma Thuột nhằm cụ thể hóa chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Kết luận số 67-KL/TW Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, việc xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù cho thành phố Buôn Ma Thuột nhằm cụ thể hóa chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Kết luận số 67-KL/TW, phát huy các tiềm năng, lợi thế để phát triển thành phố Buôn Ma Thuột nhanh và bền vững; phấn đấu thực hiện mục tiêu của Bộ Chính trị đã đề ra.
Về quản lý tài chính - ngân sách nhà nước (Điều 3), trong đó về mức dư nợ vay, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, tỉnh Đắk Lắk được vay thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ các nguồn tài chính khác trong nước và từ nguồn vay nước ngoài của Chính phủ vay về cho Tỉnh vay lại với tổng mức dư nợ vay không vượt quá 40% số thu ngân sách Tỉnh được hưởng theo phân cấp. Về định mức phân bổ chi thường xuyên, tỉnh Đắk Lắk được phân bổ thêm 45% theo tỷ lệ phần trăm (%) định mức chi thường xuyên tính theo định mức dân số đối với dân số thuộc thành phố Buôn Ma Thuột theo các nguyên tắc, tiêu chí tính dự toán chi thường xuyên năm 2022 cho dự toán chi thường xuyên năm 2023 và trong thời gian thực hiện Nghị quyết này.
Liên quan đến ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (Điều 4), Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, dự án đầu tư trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột thuộc các lĩnh vực sản xuất, chế biến nông sản; du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái; y tế, giáo dục và đào tạo; sản xuất các sản phẩm tiết kiệm năng lượng, các sản phẩm phục vụ ngành công nghiệp năng lượng tái tạo; đầu tư kinh doanh trung tâm logistics, cảng cạn, kho hàng hóa được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong thời gian 15 năm, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 04 năm và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 09 năm tiếp theo.
Về quản lý quy hoạch (Điều 5), Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, Thủ tướng Chính phủ quyết định việc phân cấp cho Ủy ban nhân dân Tỉnh Đắk Lắk thực hiện phê duyệt điều chỉnh cục bộ quy hoạch chung xây dựng khu chức năng, điều chỉnh cục bộ quy hoạch chung đô thị của thành phố Buôn Ma Thuột theo trình tự, thủ tục do Thủ tướng Chính phủ quy định và báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện.
Về ưu đãi đối với chuyên gia, nhà khoa học, tài năng đặc biệt (Điều 6), chuyên gia, nhà khoa học, tài năng đặc biệt làm việc tại các cơ quan chuyên môn và đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc thành phố Buôn Ma Thuột trong thời gian thực hiện Nghị quyết này được miễn thuế thu nhập cá nhân trong thời gian 05 năm đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công tại thành phố Buôn Ma Thuột.
Ngoài ra, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, dự thảo Nghị quyết giao nhiệm vụ cho các cơ quan thuộc Quốc hội, Chính phủ trong việc tổ chức thực hiện, sơ kết, tổng kết và giám sát việc thực hiện Nghị quyết và quy định hiệu lực thi hành từ 01 tháng 01 năm 2023 và thời gian thực hiện Nghị quyết trong 05 năm (Điều 7 và Điều 8).
15h23: Quốc hội nghỉ giải lao
15h08: Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh: Cần thiết sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền 2012
Trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Ủy ban Kinh tế nhất trí sự cần thiết sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012 với các lý do như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ; cho rằng hồ sơ dự án Luật đã được Cơ quan soạn thảo chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, đầy đủ, đáp ứng yêu cầu quy định; các nội dung của dự thảo Luật phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 và cơ bản tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan.
Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp tục rà soát kỹ lưỡng các nội dung tại dự thảo Luật về các quy định liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập dữ liệu, xác minh thông tin nhận biết khách hàng với các luật có liên quan, như Luật An ninh mạng và dự thảo Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) dự kiến trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4 và thông qua tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV...
Đồng thời, đề nghị cần xem xét kỹ quy định tại khoản 1 Điều 26 về yếu tố để thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ đối với “Giao dịch được thực hiện theo yêu cầu của bị can, bị cáo hoặc người bị kết án…”.
Việc bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ tại khoản 3 phải được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi Chính phủ ban hành quy định để bảo đảm phù hợp với quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tương đồng với quy định tại khoản 3 Điều 4 của dự thảo Luật. Ủy ban Kinh tế thống nhất việc quy định các dấu hiệu đáng ngờ bao gồm dấu hiệu đáng ngờ cơ bản và dấu hiệu đáng ngờ theo các lĩnh vực cụ thể.
Tuy nhiên cần nghiên cứu bao quát cả các lĩnh vực khác thuộc đối tượng báo cáo nhưng chưa được quy định các dấu hiệu đáng ngờ cụ thể như luật sư, công chứng, kinh doanh kim loại quý, đá quý…. Đồng thời, đề nghị tiếp tục rà soát, điều chỉnh bảo đảm hợp lý và khả thi khi khối lượng báo cáo tương đối lớn trong khi một số quy định còn mang tính định tính, chưa rõ ràng…
Liên quan đến nội dung về đánh giá rủi ro rửa tiền của đối tượng báo cáo và phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho rằng, đây là quy định mới và cần thiết trong bối cảnh các hành vi rửa tiền ngày càng tinh vi, thường xuyên thay đổi, đồng thời phù hợp với khuyến nghị của FATF. Tuy nhiên, đề nghị tiếp tục rà soát, cân nhắc kỹ lưỡng quy định về báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền và khoản 1 Điều 16 về xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo bảo đảm tính khả thi và tránh tạo gánh nặng về thủ tục hành chính cho các đối tượng khi triển khai. Đồng thời cần báo cáo rõ về chế tài xử lý trong trường hợp không báo cáo hoặc không cập nhật kịp thời theo quy định tại dự thảo Luật, để tăng tính hiệu lực, hiệu quả và tính khả thi của các quy định này.
Bên cạnh đó, đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế nhất trí với quy định tại khoản 1 về cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị, tuy nhiên, cần cân nhắc nội hàm “chức vụ cấp cao” do khái niệm này còn định tính, có thể dẫn đến cách hiểu khác nhau. Có ý kiến đề nghị nghiên cứu thêm về kỹ thuật, bảo đảm việc xác định danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị là rõ ràng, minh bạch, khả thi trong thực tiễn triển khai; cân nhắc thuật ngữ “quản lý cấp cao” tại điểm b khoản 2; nhấn mạnh hơn trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc thông báo danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị.
Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với việc các đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền, trong đó đã giới hạn một số nội dung đối với đối tượng báo cáo là cá nhân, doanh nghiệp siêu nhỏ. Tuy nhiên, cần tiếp tục rà soát kỹ lưỡng sự cần thiết, tính khả thi và tính phù hợp của các nội dung đối với các đối tượng báo cáo cụ thể…
14h52: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật Phòng, chống rửa tiền
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi), Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết, việc xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) nhằm thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đàng, Nhà nước đối với công tác Phòng, chống rửa tiền, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Bên cạnh việc kế thừa thì Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) phải khắc phục các vướng mắc, bất cập các quy định của pháp luật Phòng, chống rửa tiền hiện hành, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong hoạt động Phòng, chống rửa tiền hiện nay.
Dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) được bố cục gồm 4 Chương, 65 Điều. Phạm vi điều chỉnh, về cơ bản dự thảo Luật kế thừa quy định tại Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, theo đó phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong Phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế trong Phòng, chống rửa tiền.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) cũng quy định việc Phòng, chống rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Về đối tượng báo cáo về phòng, chống rửa tiền, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết, dự thảo Luật kế thừa quy định về đối tượng báo cáo phòng, chống rửa tiền tại Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính. Bên cạnh đó, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung về đối tượng báo cáo, trong đó có tên gọi của một số hoạt động của đối tượng báo cáo; bổ sung đối tượng báo cáo là các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
Về hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền, quy định này được kế thừa từ quy định tại Luật PCRT năm 2012 và luật hóa các quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). Bên cạnh đó, để đáp ứng thực tiễn công tác trao đổi, cung cấp thông tin về phòng, chống rửa tiền, dự thảo Luật cũng bổ sung nguyên tắc: trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về phòng, chống rửa tiền, việc trao đổi, chuyển giao thông tin trong hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
Quy định về đánh giá mức độ rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo về rửa tiền, dự thảo luật bổ sung quy định về về việc đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền. Theo đó định kỳ 05 năm, Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam, trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá. Trên cơ sở kết quả cập nhật rủi ro của các bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt kết quả cập nhật rủi ro quốc gia, kế hoạch thực hiện sau đánh giá...(còn tiếp)
Tờ trình của Chính phủ cũng nêu một số nội dung sửa đổi liên quan đến quy định về nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; về trách nhiệm xây dựng quy định nội bộ và báo cáo, cung cấp, lưu trữ hồ sơ, thông tin về phòng, chống rửa tiền. Về thực hiện thu thập, xử lý, phân tích, trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền và áp dụng các biện pháp tạm thời, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về việc trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước, cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.
Về áp dụng các biện pháp tạm thời: dự thảo quy định rõ các trường hợp thực hiện trì hoãn giao dịch và giao Chính phủ hướng dẫn các yếu tố như “cơ sở hợp lý để nghi ngờ” trên cơ sở thực tiễn công tác phòng, chống rửa tiền; luật hóa quy định về việc miễn trách nhiệm của đối tượng báo cáo tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung), bổ sung quy định về thời điểm thực hiện biện pháp trì hoãn giao dịch.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng khẳng định, tiếp thu ý kiến thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nhằm không tạo khoảng trống pháp lý sau khi Luật có hiệu lực thi hành nhưng chưa kịp hoàn thành việc phân công chức năng đơn vị đầu mối về phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước, dự thảo Luật bổ sung quy định chuyển tiếp như sau: Trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có quyết định khác, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền theo quy định của Luật này và các Luật khác có liên quan…
14h28: Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Phú Cường trình bày Báo cáo thẩm tra tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2022, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2023 và Kế hoạch tài chính 3 năm 2023-2025
Ghi nhận thu ngân sách nhà nước 9 tháng đầu năm đạt cao
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Nguyễn Phú Cường cho biết tổng số thu cân đối NSNN vượt dự toán khá cao, tăng 14,3% so với dự toán, tăng 2,9% so với ước thực hiện năm 2021. Trong đó, cả ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương đều vượt dự toán.
Bên cạnh đó, cũng lưu ý một số vấn đề như công tác dự trong xây dựng dự toán; đánh giá kỹ vai trò chủ đạo của NSTW, cơ cấu tăng thu NSNN vẫn chưa vững chắc, tỷ trọng tăng thu từ đất còn lớn; thu NSĐP không đồng đều giữa các địa phương, nhiều địa phương ước không đạt dự toán; tồn tại bất cập trong phân cấp nguồn thu giữa trung ương và địa phương.
Ủy ban Tài chính – Ngân sách cũng đề nghị Chính phủ đánh giá kỹ về ước thực hiện các khoản thu NSNN năm 2022, bảo đảm thu đúng, thu đủ, sát với tình hình thực tế; đề nghị báo cáo rõ nguyên nhân, trách nhiệm và giải pháp trong việc nhiều năm liền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp không đạt dự toán; đề nghị đánh giá kỹ nguyên nhân của tình trạng nợ thuế có xu hướng tăng.
Về chi NSNN năm 2022, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Nguyễn Phú Cường nêu rõ, báo cáo của Chính phủ cho thấy, chi NSNN năm 2022 đã bảo đảm các nhiệm vụ chỉ quản lý nhà nước, quốc phòng – an ninh, đối ngoại và thanh toán đầy đủ các chế độ, chính sách an sinh xã hội và các nghĩa vụ nợ đến hạn theo cam kết.
Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề nổi lên trong việc phân bổ, giao dự toán chi đầu tư phát triển, tiến độ giải ngân chi đầu tư phát triển; đồng thời đề nghị Chính phủ đánh giá khả năng giải ngân vốn của 3 Chương trình mục tiêu quốc gia đến hết tháng năm 2022, khả năng hoàn thành dự toán, làm rõ nguyên nhân và có giải pháp khắc phục.
Ủy ban Tài chính – Ngân sách nhất trí với mức tăng lương cơ sở
Về dự toán NSNN năm 2023, Ủy ban Tài chính – Ngân sách lưu ý, bối cảnh năm 2023 dự kiến thế giới tiếp tục phải đối mặt với rất nhiều các yếu tố rủi ro, bất định, khó khăn, thách thức ngày càng gia tăng. Trong nước, nền kinh tế tiếp tục phục hồi, tuy nhiên, áp lực lạm phát, tăng chi phí sản xuất, rủi ro về chuỗi cung ứng; nhu cầu các thị trường xuất khẩu lớn, truyền thống suy yếu; khả năng cạnh tranh, bảo vệ và giữ ổn định thị trường trong nước; điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế, đối tác thương mại, đầu tư chủ yếu của nước ta; diễn biến bất thường thiên tai, dịch bệnh, bão lũ, an ninh nguồn nước... là những thách thức, áp lực rất lớn đối với việc thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN.
Về phương án phân bổ NSTW, ngoài các nguyên tắc nêu trong Báo cáo của Chính phủ, Ủy ban Tài chính – Ngân sách đề nghị quán triệt một số nguyên tắc: phân bổ NSTW phải bám sát các nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn tại các Nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; đẩy nhanh tiến độ giao vốn, chỉ bố trí vốn cho các dự án đủ thủ tục đầu tư; bố trí trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn; xử lý dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản, hoàn tối đa vốn ứng trước và đảm bảo thực hiện chính sách an sinh xã hội; dành nguồn dự phòng để chủ động xử lý các tình huống cấp bách; đồng thời bảo đảm công khai, minh bạch, tiết kiệm, tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng.
Ủy ban Tài chính – Ngân sách cũng cho ý kiến về việc tăng lương cơ sở. Theo đó, đa số ý kiến nhất trí với mức tăng lương cơ sở (1,8 triệu đồng/tháng) và tăng chi trả cho một số đối tượng như phương án Chính phủ trình. Ủy ban Tài chính – Ngân sách cho rằng, do tác động của dịch bệnh tới tình hình thực hiện thu NSNN, lương cơ sở chưa được điều , chỉnh từ năm 2020 trở lại đây, theo đó nếu tiếp tục giữ mức 1.490.000 đồng/tháng như năm 2019 sẽ ảnh hưởng tới đời sống của một bộ phận người lao động trong khu vực nhà nước. Bên cạnh đó, một số đối tượng nghỉ hưu trước năm 1995, người có công, phụ cấp nghề đối với các bộ y tế cơ sở và y tế dự phòng vẫn có mức hưởng thấp, nhất là trong bối cảnh hiện nay nên việc điều chỉnh tăng lương cho các đối tượng này là phù hợp.
Về kế hoạch tài chính - NSNN 3 năm 2023-2025, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Nguyễn Phú Cường cho biết qua thẩm tra nhận thấy việc lập kế hoạch tài chính NSNN 3 năm 2023-2025 đã bảo đảm theo đúng quy định pháp luật, bám sát mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng và Nghị quyết của Quốc hội, phù hợp Chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực; đảm bảo được nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn. Đây sẽ là căn cứ bước đầu đánh giá khả năng dự kiến hoàn thành kế hoạch tài chính 5 năm 2021-2025. Vì vậy, để bảo đảm việc đánh giá, đề nghị bổ sung phụ lục số liệu đánh giá việc dự kiến thực hiện các chỉ tiêu được quy định trong Nghị quyết số 23/2021/QH15. Ủy ban Tài chính – Ngân sách cũng đề nghị Chính phủ cần rà soát, xây dựng Kế hoạch tài chính 3 năm bảo đảm tính thực tế, khả thi.
14h02: Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc trình bày Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2022, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2023 và Kế hoạch tài chính 3 năm 2023-2025
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2022, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2023 và Kế hoạch tài chính 3 năm 2023-2025, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, trong 9 tháng đầu năm 2022, thu ngân sách nhà nước bằng 94% dự toán, trong đó thu nội địa đạt 88,9% dự toán, thu dầu thô đạt 113% dự toán, thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 108,8% dự toán. Đánh giá cả năm thu ngân sách ước tăng 14,3% so với dự toán. Tỷ lệ huy động ngân sách nhà nước đạt 17,2% GDP, từ thuế, phí đạt 13,9% GDP, trong đó thu nội địa đạt 9,8%, thu dầu thô vượt 141%, thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu vượt 23,6%.
Về chi ngân sách, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, ước thực hiện hết tháng 9 đạt 60,9% dự toán, trong đó chi đầu tư, phát triển đạt 48,1% dự toán. Đánh giá cả năm, chi ngân sách nhà nước bằng 114,1% dự toán, trong đó giải quyết vốn đầu tư công ước đạt 96% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Chi trả nợ lãi đạt 96,1%, chi thường xuyên đạt 100,7% dự toán. Đến hết tháng 9/2022, đã sử dụng nguồn dự phòng ngân sách trung ương chủ yếu là để bổ trợ cho các địa phương chi phòng, chống dịch, hỗ trợ người dân. Số dự phòng còn lại tiếp tục ưu tiên cho các công tác phòng chống thiên tai, dịch bệnh, bão lũ, hỗ trợ người dân và các nhiệm vụ cấp bách khác trong các tháng cuối năm.
Bội chi tăng thêm cho nhiệm vụ thuộc Chương trình phục hồi và dự án cần đẩy nhanh tiến độ của Nghị quyết 43 là 0,41% GDP. Theo đó, bội chi ngân sách năm 2022 ước thực hiện bằng 4,5% GDP, trong phạm vi Quốc hội cho phép. Trong điều hành, Chính phủ đã và đang chỉ đạo phấn đấu tăng thu ngân sách, rà soát tiết kiệm chi, cắt giảm những nhiệm vụ chi không cần thiết để tiếp tục giảm mức bội chi so với báo cáo.
Về Kế hoạch tài chính 3 năm 2023-2025, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, tỷ trọng chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách đảm bảo bám sát mục tiêu kế hoạch tài chính 5 năm, đảm bảo thực hiện một số mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng như: kinh phí đảm bảo cho quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, xã hội; cải cách tiền lương cho cán bộ, công chức, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, bố trí kinh phí cho các nhiệm vụ chi đầu tư phát triển khác.
14h00: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu điều hành Phiên họp
Theo sự phân công của Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành 4 nội dung của chương trình làm việc chiều 20/10. Theo đó, Quốc hội nghe trình bày các tờ trình và các báo cáo về: Đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2022, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2023 và kế hoạch tài chính 3 năm 2023-2025; Dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); dự thảo Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắk; dự thảo Nghị quyết về ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội (sửa đổi). Tiếp đó, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2022, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2023 và kế hoạch tài chính 3 năm 2023-2025.