SỬA ĐỔI LUẬT TÒA ÁN NHÂN DÂN: TIẾP TỤC RÀ SOÁT ĐẢM BẢO TÍNH THỐNG NHẤT VỚI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
Dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 (10/2023)
Theo Chương trình Xây dựng luật và pháp lệnh, dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hội khóa XV cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp thứ 6 tới đây (10/2023). Một trong những điểm mới tại dự thảo là quy định về điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án. Theo đó, Điều 15 Dự thảo luật được sửa đổi theo hướng Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ. Cụ thể: Trong vụ án hình sự, Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát thu thập, làm rõ tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa để xét xử. Trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà các bên đã thu thập, giao nộp cho Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng và kết quả tranh tụng tại phiên tòa để xét xử.
Thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết, đa số ý kiến tán thành với đề xuất của Tòa án nhân dân tối cao về việc Tòa án không có nghĩa vụ (trách nhiệm) thu thập chứng cứ (TTCC). Trong đó: Đối với vụ án hình sự: việc khởi tố, điều tra, truy tố thuộc trách nhiệm của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra, làm rõ tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để ra phán quyết về vụ án; nếu thiếu chứng cứ hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm... thì Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đối với vụ việc dân sự, vụ án hành chính: nghĩa vụ TTCC và chứng minh thuộc về đương sự, Tòa án không có trách nhiệm TTCC. Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà các bên thu thập được và giao nộp cho Tòa án, sau khi đã kiểm tra, làm rõ tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để ra phán quyết.…
Một số ý kiến cho rằng, việc không quy định Tòa án TTCC trong hoạt động xét xử cần được cân nhắc kỹ vì liên quan đến mô hình tố tụng của nước ta và có thể ảnh hưởng đến chất lượng xét xử của Tòa án. Khác với mô hình tố tụng tranh tụng của một số nước, Luật Tổ chức TAND năm 2014 và các luật tố tụng hiện hành tiếp tục xác định vai trò tích cực, chủ động của Tòa án trong hoạt động TTCC ở mức độ nhất định. Trong đó, Luật Tổ chức TAND quy định Tòa án TTCC theo quy định của luật tố tụng; các luật tố tụng đều có quy định thẩm quyền TTCC trong hoạt động xét xử đối với một số trường hợp, điều kiện nhất định . Việc quy định Tòa án TTCC trong hoạt động xét xử phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta, góp phần bảo đảm chất lượng xét xử, giảm oan sai. Tuy nhiên, có quy định của Luật Tổ chức TAND và các luật tố tụng hiện hành về thẩm quyền TTCC của Tòa án còn bất cập, cần được rà soát kỹ lưỡng, sửa đổi cho phù hợp. Nghị quyết 27 yêu cầu: “Nghiên cứu làm rõ…., những trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”. Yêu cầu của Nghị quyết 27 cần được thể chế hóa trong dự thảo Luật. Vì vậy, đề nghị quy định Tòa án TTCC trong hoạt động xét xử đối với một số trường hợp, điều kiện luật định.
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga
Quan tâm tới dự luật, dưới góc độ nghiên cứu, TS. Nguyễn Thị Kim Thoa, Nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp bày tỏ đồng tình với quy định tại dự thảo luật.
Theo TS. Nguyễn Thị Kim Thoa quy định như vậy sẽ bảo đảm Tòa án giữ vai trò là trọng tài, phán xử. Việc Tòa án trực tiếp thu thập chứng cứ rồi sau đó xét xử theo chứng cứ do tự mình thu thập có thể dễ có định kiến trước, dẫn tới xem nhẹ các nguồn chứng cứ khác do các bên thu thập, gây có lợi hoặc bất lợi cho một bên nào đó, làm ảnh hưởng đến nguyên tắc vô tư, khách quan của Tòa án, hạn chế việc thực hiện yêu cầu về tăng cường tranh tụng trong xét xử cũng như chưa đảm bảo đảm nguyên tắc “việc dân sự cốt ở đôi bên”.
Bên cạnh đó, trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ. Tòa án thu thập chứng cứ có thể dẫn đến việc thu thập chứng cứ có lợi hoặc bất lợi cho một trong các bên đương sự, ảnh hưởng đến nguyên tắc công bằng, vô tư, khách quan của Tòa án và không phù hợp với nguyên tắc tranh tụng.
Cũng theo TS. Nguyễn Thị Kim Thoa, thực tiễn cho thấy xuất phát từ quy định này, người có nghĩa vụ chứng minh không chủ động thu thập, cung cấp chứng cứ mà ỷ lại, trông chờ vào Tòa án.
Tuy nhiên, TS. Nguyễn Thị Kim Thoa cũng phân tích một số vấn đề đặt ra cần tháo gỡ như: Các đương sự gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ, nhất là các tài liệu đó đang do cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác lưu trữ, quản lý. Những trường hợp này đương sự không thể thu thập được nên phải đề nghị tòa án thu thập; Trình độ dân trí, ý thức, hiểu biết pháp luật của người dân, nhất là người lao động hiện nay còn nhiều hạn chế, trong khi cơ chế luật sư, người bào chữa chưa đáp ứng hết được yêu cầu của người dân;…
TS. Nguyễn Mai Bộ, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân
Nêu quan điểm về nội dung này, TS. Nguyễn Mai Bộ, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân đề nghị: Nghiên cứu bổ sung quy định tại khoản 1 về việc Tòa án phải căn cứ vào cả các tài liệu, chứng cứ mà những người tham gia tố tụng nộp cho Tòa án. Bởi vì, theo quy định của pháp luật tố tụng, thì những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức có quyền nộp cho Tòa án chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án; và tại điểm h khoản 2 Điều 23 dự thảo Luật này cũng đã quy định có việc cơ quan, tổ chức, cá nhân thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án. Đồng thời, đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định tại khoản 4 về những biện pháp hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính.
Ở góc độ khác, chưa đồng tình với quy định của dự thảo, Ths. Lại Thị Thu Hà, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng đề xuất bỏ quy định thu thập chứng cứ của Tòa án ở giai đoạn hiện nay là chưa phù hợp với thực tiễn. Lý giải cho quan điểm này, Ths. Lại Thị Thu Hà nêu rõ, thực tế ở nước ta hiện nay trình độ dân trí, ý thức pháp luật của người dân, nhất là người lao động còn hạn chế trong khi cơ chế Luật sư, người bào chữa chưa đáp ứng được nhu cầu. Người dân không có đủ thông tin và điều kiện để đến các cơ quan có thẩm quyền thu thập chứng cứ, trong khi cơ quan nhà nước không tự cung cấp chứng cứ cho người dân nếu không có yêu cầu, đề nghị của cơ quan có thẩm quyền.
(Ảnh minh họa)
Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành, đương sự cũng không có quyền yêu cầu Toà án thu thập tài liệu, chứng cứ trong mọi trường hợp mà chỉ có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự không thể thu thập được và trong những trường hợp do pháp luật quy định; đồng thời cũng đã quy định cụ thể về trình tự, thủ tục để yêu cầu Toà án xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ .
Cũng theo Ths. Lại Thị Thu Hà, pháp luật hiện hành đã có cơ chế trợ giúp pháp lý cho người yếu thế, bao gồm cả hỗ trợ việc thu thập chứng cứ. Mặt khác, việc ưu tiên hỗ trợ người yếu thế là cần thiết, tuy nhiên mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và không bị phân biệt đối xử.
Trên thực tế, vẫn có trường hợp mặc dù Tòa án trực tiếp thu thập chứng cứ, xác minh, thẩm định… nhưng vẫn chưa đánh giá đúng bản chất của vụ việc, còn có sai sót, bị hủy, sửa hoặc không thi hành án được. Nếu người dân không được Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ thì có khả năng sẽ tăng thêm khó khăn ngay cả cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án, vụ việc, tăng thêm các trường hợp bản án, quyết định bị hủy, sửa...
Do đó, Ths. Lại Thị Thu Hà đề xuất, để phù hợp với chủ trương của Đảng về xây dựng một nền tư pháp “phục vụ nhân dân”, đề nghị tiếp tục quy định về nhiệm vụ, quyền hạn thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án nhân dân./.