ĐẨY MẠNH KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ,
HOÀN THÀNH THẮNG LỢI KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1972
(Báo cáo của Chính phủ do ông Nguyễn Côn, Phó Thủ tướng kiêm
Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước trình bày tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá IV, ngày 20-3-1972)
Thưa Chủ tịch Tôn Đức Thắng,
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Năm 1971, sự nghiệp cách mạng trên cả hai miền nước ta đã phát triển rất tốt đẹp.
Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch kính mến, nhân dân ta đã kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục giành được những thắng lợi to lớn trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, đánh bại một bước quan trọng chính sách "Việt Nam hóa" chiến tranh của đế quốc Mỹ; tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang phát triển hết sức có lợi cho ta, không lợi cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Ta đang ở thế mạnh, thế thắng, thế chủ động, thế đi lên; địch đang ở thế yếu, thế thất bại, thế bị động, thế đi xuống.
Ở miền Bắc, dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và thực hiện Nghị quyết của kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IV, nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu giành được những thành tích và tiến bộ mới trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, chuyển biến tình hình kinh tế và công tác quản lý, tạo cơ sở cho bước phát triển mới mạnh mẽ hơn của nền kinh tế trong năm 1972 và các năm sau.
Tiếp theo báo cáo chính trị của đồng chí Thủ tướng Chính phủ, xin báo cáo Quốc hội những phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước năm 1972. Báo cáo này gồm ba phần:
1. Những thành tích trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1971.
2. Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch nhà nước năm 1972.
3. Mấy vấn đề lớn về tăng cường và cải tiến công tác quản lý kinh tế.
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG THÀNH TÍCH TRONG VIỆC THỰC HIỆN
KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1971
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Năm 1971, phấn đấu theo phương hướng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhân dân miền Bắc đã thu được những thành tích và tiến bộ đáng phấn khởi.
Luôn luôn nắm vững những nhiệm vụ hàng đầu là chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã hết lòng hết sức làm tròn nghĩa vụ vẻ vang chi viện đầy đủ và kịp thời cho tiền tuyến lớn, góp phần tích cực tạo nên những chiến thắng lớn trên các chiến trường. Đồng thời, luôn luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, nhân dân ta đã kịp thời đập tan và làm thất bại nhục nhã mọi hành động chiến tranh của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc.
Chúng ta đã tập trung lực lượng nhanh chóng khắc phục những hậu quả do lũ lụt gây ra đối với nền kinh tế, và đã có những cố gắng rất lớn nhằm giúp đỡ nhân dân các vùng bị lụt sớm ổn định đời sống, khôi phục và đẩy mạnh sản xuất. Mặc dầu bị lũ lụt hạn chế một phần kết quả, nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế năm 1971 đã được thực hiện tương đối tốt, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước được hoàn thành vượt mức, nền kinh tế đang trên đà chuyển biến theo chiều hướng tốt.
Nhiều ngành sản xuất đã đạt được tốc độ phát triển cao hơn so với những năm trước.
Thắng lợi nổi bật trong sản xuất nông nghiệp là vụ lúa đông - xuân đã đạt mức năng suất và sản lượng cao nhất từ trước đến nay, vượt các năm bình thường từ 40 đến 50 vạn tấn thóc. Việc gieo cấy các giống lúa mới có năng suất cao trên phần lớn diện tích lúa đã đem lại kết quả rõ rệt, mở ra triển vọng tốt về tăng sản lượng lương thực, đồng thời tạo ra khả năng tăng vụ trên diện tích rộng lớn, phát triển vụ đông, từ đó có thể sử dụng có hiệu quả hơn đất đai và sức lao động, biến đổi một bước cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp. Diện tích một số cây công nghiệp như cói, chè, thuốc lá mở rộng hơn các năm trước. Một số địa phương đã bước đầu tiến hành việc quy hoạch một số vùng trồng cây công nghiệp tập trung, như vùng mía ở Vạn Điểm, Sông Lam, Việt Trì; vùng thuốc lá Nho Quan; vùng lạc Hà Bắc, Nghệ An; vùng chè Nghĩa Lộ, Yên Bái, v.v.. Về chăn nuôi, mặc dầu bị lũ lụt gây thiệt hại, ta vẫn giữ vững được đàn lợn, tiếp tục phát triển mạnh gà, vịt. Một số cơ sở bước đầu của chăn nuôi lớn (như cơ sở giống bò, giống gà, cơ sở chế biến thức ăn gia súc…) đang được xây dựng, có những cơ sở đã đi vào sản xuất.
Công tác chỉ đạo nông nghiệp về các mặt cơ bản như: điều tra cơ bản, phân vùng, quy hoạch, xây dựng hệ thống giống, v.v., bước đầu được chấn chỉnh và tăng cường. Các vùng sản xuất tập trung và một số vùng kinh tế mới được tích cực chuẩn bị để triển khai xây dựng trong thời gian tới. Nhà nước đã tăng cường giúp đỡ nông nghiệp về các mặt phân bón, giống, vôi và một số vật tư kỹ thuật khác. Nhiều hợp tác xã ở các vùng khác nhau vẫn giữ được thế phát triển tốt, đặc biệt là sản xuất lúa và chăn nuôi lợn.
Sản xuất công nghiệp đã hoàn thành tương đối toàn diện và vượt mức kế hoạch nhà nước. Nhiều sản phẩm quan trọng đã tăng lên khá so với năm trước: điện tăng gần 33%, than tăng 23%, xi măng tăng 38%, phân bón các loại tăng gần 23%, vải tăng 17,5%, giấy tăng 22%, v.v.. Nhìn chung, sản xuất công nghiệp (cả công nghiệp Trung ương, công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp) được tăng thêm nhiều điều kiện để đi vào ổn định và tiếp tục phát triển mạnh hơn. Đáng chú ý là hai ngành điện và than phát triển khá, đã tạo cho nhiều ngành khác có cơ sở để đẩy mạnh sản xuất và góp phần vào việc phục vụ nông nghiệp. Nhiều loại hàng tiêu dùng thông thường được tăng thêm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân và góp phần vào việc ổn định thị trường, tiền tệ, giá cả.
Nhiều xí nghiệp quan trọng do Trung ương quản lý đã cố gắng chuyển biến công tác quản lý và chỉ đạo, đạt và vượt mức nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch nhà nước, như sản lượng, năng suất lao động, giá thành, nộp tích lũy… Công nghiệp địa phương của một số tỉnh, thành phố (như Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Hà…) đã xác định và đi vào thực hiện một số hướng sản xuất mới phục vụ nông nghiệp và phục vụ xuất khẩu, có triển vọng phát triển và khá hơn trong các năm tới.
Công tác xây dựng cơ bản được mở rộng, khối lượng xây dựng vượt hơn hẳn so với các năm trước đây. Các cơ sở công nghiệp Trung ương và địa phương bị địch đánh phá trong chiến tranh phá hoại đã và đang được khôi phục, có kết hợp cải tạo và mở rộng thêm. Nhiều cơ sở quan trọng đã bảo đảm được kế hoạch xây dựng và đi vào sản xuất đúng thời hạn. Bên cạnh việc khôi phục các cơ sở cũ, chúng ta đã khởi công xây dựng thêm nhiều công trình công nghiệp để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Việc khôi phục một số công trình thủy lợi được hoàn thành tốt; đồng thời đã xây dựng nhiều cơ sở vật chất - kỹ thuật khác phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các tuyến đường giao thông chủ yếu, bao gồm hệ thống cầu, đường, các khu vực đầu mối giao thông đã được khôi phục một phần và từng bước mở rộng. Hệ thống kho tàng và các khu vực nhà ở được đẩy mạnh xây dựng. Đội ngũ những người làm công tác xây dựng (cán bộ thiết kế, cán bộ quản lý thi công, lực lượng công nhân xây lắp…) được mở rộng nhanh và đang cố gắng vươn lên.
Ngành Giao thông vận tải, trong chiến tranh phá hoại, đã lập được nhiều thành tích xuất sắc, vừa qua, vẫn tiếp tục phát huy truyền thống, khắc phục nhiều khó khăn lớn, vừa tích cực khôi phục và phát triển giao thông, vừa tăng cường nhanh lực lượng vận tải, thực hiện khối lượng vận tải tăng hơn nhiều so với trước. Năm vừa qua, ngành Giao thông vận tải đã hoàn thành vượt mức nhiệm vụ vận tải phục vụ tiền tuyến và bảo đảm tốt nhiệm vụ vận chuyển phân bón cho nông nghiệp, vận chuyển vật liệu cho các công trình xây dựng trọng điểm, vận chuyển hàng xuất, nhập khẩu và vận chuyển phục vụ chống lũ lụt.
Một tiến bộ đáng chú ý trong năm qua là công tác quản lý được chú trọng hơn trước. Một số chủ trương mới được thực hiện trong năm qua như: chủ trương ổn định sản xuất, cải tiến một bước công tác quản lý xí nghiệp công nghiệp, điều tra năng lực sản xuất các xí nghiệp, công nghiệp, xây dựng giá bán buôn xí nghiệp tạm thời, bồi dưỡng cán bộ quản lý xí nghiệp, v.v., đã bước đầu phát huy tác dụng tốt. Với mức độ khác nhau, các ngành, các địa phương, các cơ sở đã tiến hành chấn chỉnh một bước công tác quản lý; đi sâu hơn vào công tác kế hoạch, chấn chỉnh một bước quản lý lao động, kỹ thuật, vật tư; bắt đầu chú ý tính toán chi phí sản xuất, giá thành, lỗ lãi… Trong nhiều ngành sản xuất và xây dựng, ngày làm việc và giờ công thực tế sản xuất hàng ngày đã tăng hơn trước; mức sử dụng công suất thiết bị, đặc biệt là trong ngành điện, hóa chất, than, dệt, và một số xí nghiệp công nghiệp nhẹ, đã được chú trọng đẩy lên. Năng suất lao động của một số xí nghiệp đạt và vượt mức kế hoạch. Tiêu hao vật chất trong sản xuất và giá thành một số sản phẩm quan trọng có giảm hơn so với năm trước. Các mặt tài chính, tiền tệ, giá cả chuyển biến tốt; nguồn thu trong nước tăng lên; kế hoạch xuất khẩu thực hiện vượt mức; tiền và hàng đi dần vào thế cân đối; thị trường và giá cả ổn định hơn trước. Việc áp dụng chính sách hai giá đối với một số mặt hàng và thực hiện việc bán bình thường nhiều loại hàng hóa đã góp phần ổn định thị trường, ngăn chặn đầu cơ tích trữ nhỏ và phục vụ người tiêu dùng tốt hơn. Giá cả các loại hàng trên thị trường xã hội tính chung đã giảm xuống khoảng 4,7% so với năm 1970, trong đó giá thị trường tự do giảm khoảng 16%.
Nhờ kết quả đẩy mạnh sản xuất và thực hiện các biện pháp về phân phối, đời sống nhân dân được ổn định, và có mặt được cải thiện hơn năm trước. Thu nhập thực tế của công nhân, viên chức và nhân dân lao động ở thành thị có tăng thêm. Một số mặt công tác phục vụ đời sống như xây dựng và sửa chữa nhà ở, cung cấp nước, điện, chữa bệnh, đi lại, v.v. được cải thiện một bước. Đời sống nhân dân các vùng bị lụt tuy còn một số khó khăn phải tiếp tục giải quyết, nhưng nhìn chung, được ổn định, nhân dân tin tưởng và yên tâm đẩy mạnh sản xuất.
Cùng với sự chuyển biến trên lĩnh vực kinh tế, sự nghiệp giáo dục, đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật tiếp tục phát triển. Năm 1971, số học sinh các cấp từ vỡ lòng đến cấp III đã lên đến 7 triệu em. Học tập kinh nghiệm của các đơn vị tiên tiến, các trường đang phấn đấu nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Việc đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật đang được đẩy mạnh. Điều đáng chú ý là, trong năm qua, chúng ta đã bắt đầu thực hiện việc bồi dưỡng về công tác quản lý cho nhiều cán bộ quản lý xí nghiệp công nghiệp quốc doanh Trung ương và bước đầu bồi dưỡng cho một số cán bộ lãnh đạo cấp huyện.
Ngành y tế đã có nhiều cố gắng trong việc phòng, chống dịch, mở rộng mạng lưới và cải tiến công tác khám bệnh, chữa bệnh; đặc biệt là đã khắc phục nhiều khó khăn để giữ vững hoạt động của các cơ sở y tế, tích cực bảo vệ sức khỏe của đồng bào vùng bị lụt.
Tóm lại, việc thực hiện nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế theo phương hướng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết của kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IV đã đạt kết quả rõ rệt trong năm 1971. Cùng với những thành tựu đã đạt được trong các năm trước, nhiệm vụ khôi phục kinh tế đã được thực hiện một bước quan trọng; nền kinh tế của ta đang trên đà chuyển biến tốt và có thể để tiếp tục vươn lên mạnh mẽ.
Chúng ta phấn khởi trước những thành tích đã đạt được, nhưng đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ to lớn của sự nghiệp cách mạng thì những kết quả đạt được trong mấy năm qua mới chỉ là bước đầu. Tình hình kinh tế còn có khó khăn, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội còn nhỏ; chiến tranh nhiều năm và nạn lụt mới đây cũng gây cho chúng ta những hậu quả phải tiếp tục phấn đấu để khắc phục. Công tác quản lý kinh tế còn nhiều khuyết điểm và nhược điểm, chưa đáp ứng tốt các yêu cầu của nền kinh tế quốc dân, chưa khai thác đầy đủ những khả năng và thuận lợi sẵn có. Đối với những việc cần làm và có khả năng làm để phát huy nhanh hơn lực lượng tiềm tàng trong nền kinh tế, để xây dựng một bước cơ cấu của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và để cải thiện đời sống nhân dân, công việc của chúng ta thật chưa đầy đủ. Với những điều kiện thuận lợi sẵn có và với những cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng thêm, nhiều ngành có thể phấn đấu để vươn lên đạt những thành tích lớn hơn. Bên cạnh một số ngành có cố gắng lớn, còn có những ngành chuyển biến chậm; nhiều công tác cần kíp chưa được chuẩn bị tích cực và tiến hành khẩn trương; một số mặt công tác làm chưa tốt.
Sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, chưa vững chắc. Bên cạnh những thành tích đạt được qua nhiều năm phấn đấu, công tác thủy lợi về nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu. Từ việc trồng rừng và bảo vệ rừng đầu nguồn, đắp đê, bảo vệ đê, khơi thông và nạo vét các dòng sông, v.v., để chống lụt, đến việc xây dựng thủy nông, chống úng, chống hạn trong đồng để phục vụ thâm canh,v.v., đều cần được rút kinh nghiệm một cách toàn diện để làm nhanh và tốt hơn. Các mặt biện pháp khác như giống, công cụ, phân bón (nhất là phân hữu cơ), v.v., chưa được đẩy lên mạnh và đồng đều theo yêu cầu của thâm canh, tăng năng suất.
Công nghiệp và thủ công nghiệp còn nhiều khả năng tiềm tàng chưa được phát huy đúng mức. Nhiều ngành còn yếu hoặc còn phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu cấp bách của nền kinh tế (ví dụ: cơ khí, vật liệu xây dựng, khai thác gỗ, đánh cá biển, v.v.,).
Về xây dựng cơ bản, bên cạnh một số công trình được tập trung lực lượng, bảo đảm kế hoạch xây dựng, thì vẫn còn nhiều mục tiêu quan trọng trong nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải đạt khối lượng thấp so với kế hoạch.
Công tác cung ứng vật tư và vận tải phục vụ sản xuất đang còn là những khâu yếu ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của các cơ sở.
Công tác của các ngành lưu thông phân phối (tài chính, ngân hàng, giá cả, thương nghiệp, v.v.,) chưa thật kết hợp chặt chẽ với nhau và trên nhiều mặt, chưa thật gắn với sản xuất, nên chưa phát huy tác dụng tích cực phục vụ và thúc đẩy sản xuất.
Điều cần nhấn mạnh là tại nhiều xí nghiệp, công trường, năng suất lao động tăng chậm, ngày công, giờ công thực tế chưa đạt mức quy định, lực lượng máy móc thiết bị được tăng thêm nhiều, nhưng công suất sử dụng thấp. Mức tiêu hao vật chất trong sản xuất và giá thành nhiều loại sản phẩm còn cao; việc sử dụng nguyên liệu, vật liệu còn lãng phí nhiều. Chất lượng nhiều loại sản phẩm tiến bộ chậm, thậm chí có loại sút kém hơn trước. Nhiều xí nghiệp chưa quan tâm củng cố hạch toán kinh tế, chưa quản lý chặt chẽ giá thành và chi phí sản xuất, chưa bảo đảm kinh doanh có lãi để mở rộng tái sản xuất.
Trong nông nghiệp, một số hợp tác xã chưa chấp hành đúng quy định của Hội đồng Chính phủ về quản lý và sử dụng ruộng đất, chưa tiến hành quản lý lao động, vật tư, tài chính một cách chặt chẽ, tệ tham ô, lãng phí vẫn chưa được triệt để khắc phục, quyền làm chủ của xã viên trong sản xuất và phân phối chưa được tôn trọng đầy đủ… Ở địa phương nào cũng còn một bộ phận hợp tác xã chậm tiến, làm ăn kém, sản xuất phát triển chậm, năng suất cây trồng thấp, đời sống xã viên còn có khó khăn.
Những thiếu sót trên đã hạn chế khá nhiều đà chuyển biến chung của nền kinh tế.
Nguyên nhân của tình hình trên có phần do bản thân nền kinh tế còn mang nhiều nhược điểm vốn có của nền sản xuất nhỏ mà ta chưa có đầy đủ thời gian để khắc phục, nhưng điều chủ yếu là do công tác tổ chức và quản lý kinh tế còn có nhiều khuyết điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế.
Kế hoạch nhà nước, từ Trung ương đến các cấp, chưa phản ánh đầy đủ yêu cầu và khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế. Có nhiều trường hợp, kế hoạch còn dừng lại ở phương hướng, nhiệm vụ, chưa được cụ thể hóa thành những biện pháp hành động. Các ngành, các cấp chưa nắm chắc khâu kế hoạch, chưa quan tâm đầy đủ đến việc tổ chức và hướng dẫn xây dựng kế hoạch từ cơ sở lên, do đó, chất lượng của kế hoạch chậm được nâng lên và giá trị pháp lệnh của kế hoạch còn yếu.
Chế độ hạch toán kinh tế còn bị xem nhẹ và chưa trở thành công cụ quan trọng trong công tác quản lý; các loại định mức, tiêu chuẩn, giá cả còn thiếu nhiều và chưa được chấp hành nghiêm chỉnh; nhiều cơ sở kinh doanh không chú ý cân nhắc hiệu quả kinh tế và tính toán lỗ lãi một cách chặt chẽ.
Các chế độ, chính sách cần thiết để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ kinh tế, tăng cường công tác quản lý và kế hoạch hóa chậm ban hành và chưa kết hợp với nhau một cách đồng bộ. Trong nhiều trường hợp, các đòn bẩy kinh tế (như tiền lương, tiền thưởng, tín dụng, giá cả, v.v.,) chưa có tác dụng nhiều trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển. Công tác quản lý khoa học - kỹ thuật chưa được tổ chức tốt và phát huy đầy đủ vai trò rất quan trọng của nó nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa bị xem nhẹ. Kỷ luật nhà nước có chỗ còn lỏng lẻo. Chức trách và chế độ trách nhiệm của một số cơ quan trong bộ máy quản lý chưa được xác định rõ ràng. Luật pháp và các quy định về quản lý, kế hoạch hóa, hạch toán kinh tế, hợp đồng kinh tế, kỷ luật sản xuất, kỷ luật lao động, v.v., chưa được chấp hành nghiêm chỉnh. Ở nhiều nơi, quyền làm chủ tập thể của nhân dân chưa được tôn trọng một cách đầy đủ.
Công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện chưa bảo đảm. Sau khi có chủ trương, việc nghiên cứu để có kế hoạch và biện pháp thực hiện cụ thể thường chậm chạp, thiếu sự phân công chịu trách nhiệm từng khâu, từng việc rõ ràng, không giải quyết kịp thời các vấn đề về chính sách, chế độ, không có sự kiểm tra, đôn đốc chặt chẽ.
Điều cần nhấn mạnh là, trong nhiều ngành, nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh, công tác quản lý còn mang nặng tính chất hành chính cung cấp. Đó là lối quản lý không chú ý vận dụng các quy luật kinh tế và các nguyên tắc quản lý nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, quản lý một cách tùy tiện, không theo định mức, tiêu chuẩn, không chú trọng điều tra, nghiên cứu, xem nhẹ các biện pháp kinh tế, kỹ thuật. Đó là lối quản lý không quan tâm tính toán hiệu quả kinh tế, "thu được bao nhiêu thì thu, chi tốn bao nhiêu cũng chi, có lãi thì nộp, bị lỗ thì xin bù", thiếu tính toán, cân nhắc trong khi quyết định làm việc này hay làm việc kia, làm cách này hay cách khác. Quản lý theo lối hành chính cung cấp như vậy không khuyến khích mọi người vươn lên mức tiên tiến, mà lại nuôi dưỡng bệnh tự do, vô trách nhiệm, vô kỷ luật, làm ăn được chăng hay chớ; người làm giỏi không được thưởng, người làm hỏng, làm sai không bị phạt.
Chúng ta đang phấn đấu và khôi phục phát triển kinh tế, từng bước tạo ra thế cân đối của nền kinh tế, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, giải quyết những nhiệm vụ cơ bản trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện một sự chuyển biến lớn lao như vậy, chúng ta phải có những cố gắng vượt bậc và liên tục trong nhiều năm, và mỗi năm, mức độ tiến bộ phải lớn hơn nhiều so với năm qua thì mới đủ sức tạo ra những thay đổi lớn trên các mặt cơ bản của nền kinh tế.
Chúng ta có những điều kiện thuận lợi cơ bản và những khả năng tiềm tàng to lớn. Nhiều ngành, nhiều địa phương và cơ sở đã và đang vươn lên. Với những thành tích và tiến bộ trong năm qua, với những kinh nghiệm phong phú đã thu được, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng năm nay, chúng ta sẽ giành được những thắng lợi mới to lớn và toàn diện hơn.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1972
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đang ở thời kỳ rất quan trọng. Chúng ta đang có những điều kiện thuận lợi cơ bản để đưa cuộc kháng chiến tiến lên mạnh mẽ. Nhiệm vụ cần kíp của nhân dân ta trong tình hình hiện nay là: với tinh thần kiên trì kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, phải động viên toàn lực, cố gắng vượt bậc, anh dũng tiến lên đẩy mạnh cuộc kháng chiến; đoàn kết phối hợp chiến đấu chặt chẽ với quân dân Lào và quân dân Campuchia anh em, đánh bại chính sách "Việt Nam hóa" chiến tranh của đế quốc Mỹ, đánh bại "học thuyết Níchxơn" ở Đông Dương, giành thắng lợi to lớn hơn nữa cho cuộc kháng chiến.
Nhân dân ta ở miền Bắc phải ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, tăng cường và củng cố hậu phương về mọi mặt, làm đầy đủ nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến và tiếp tục đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến lên.
Năm 1972, chúng ta phải triển khai mạnh mẽ hơn nữa việc thực hiện các phương hướng lớn của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, vừa phấn đấu giành những thắng lợi lớn nhất cho kế hoạch nhà nước năm nay, vừa chuẩn bị thật tốt cho năm 1973 và những năm tiếp theo, bảo đảm hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị lần thứ 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp đầu năm nay đã kiểm điểm việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1971, xác định nhiệm vụ kế hoạch nhà nước năm 1972 và đề ra những phương hướng và biện pháp lớn về tăng cường và cải tiến quản lý kinh tế nhằm thúc đẩy tình hình chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, tạo nên một sự biến đổi rõ rệt trên các mặt cơ bản của nền kinh tế quốc dân.
Mục tiêu cấp bách về kinh tế hiện nay của nhân dân ta là: phấn đấu tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, bảo đảm nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tạo nguồn vốn tích lũy trong nước để đẩy mạnh tái sản xuất mở rộng và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân.
Thực hiện phương hướng và mục tiêu trên, kế hoạch nhà nước năm 1972 có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1. Động viên mọi cố gắng cao nhất, bảo đảm đầy đủ và kịp thời sức người, sức của chi viện cho tiền tuyến. Luôn luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi hành động phiêu lưu quân sự của địch.
2. Ra sức phát triển công nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, có kế hoạch thiết thực và tích cực đưa nông nghiệp tiến nhanh và vững chắc lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tăng nhanh nguồn nông sản hàng hóa phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tăng cường kinh tế tập thể, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn;
Ra sức khôi phục và phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp, đặc biệt coi trọng phát triển ngành cơ khí, tích cực trang bị kỹ thuật cho nông nghiệp và các ngành kinh tế khác;
Đẩy mạnh giao thông vận tải phục vụ tiền tuyến, phục vụ công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế;
Cải tiến lưu thông phân phối, tăng cường xuất khẩu, bảo đảm đời sống của nhân dân;
Ra sức tăng năng suất lao động, phân bố hợp lý sức lao động; tạo điều kiện để thu hút và phát huy mọi lực lượng lao động xã hội, đẩy mạnh sản xuất và xây dựng.
3. Mở rộng xây dựng cơ bản, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật của kinh tế Trung ương và kinh tế địa phương, bảo đảm yêu cầu khôi phục và phát triển kinh tế, bảo đảm phục vụ chiến đấu và các nhu cầu cấp thiết về đời sống của nhân dân, tích cực chuẩn bị điều kiện để đẩy mạnh xây dựng cơ bản theo quy mô lớn hơn nữa trong những năm sau.
4. Tổ chức việc nghiên cứu kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế và văn hóa. Chấn chỉnh và xúc tiến công tác điều tra cơ bản, phân vùng kinh tế, quy hoạch các ngành sản xuất; tăng cường công tác nghiên cứu khoa học và kỹ thuật; tổ chức nghiên cứu các vấn đề về hợp tác quốc tế; xây dựng kế hoạch dài hạn về đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ và công nhân kỹ thuật.
5. Tập trung sức làm tốt công tác tăng cường và cải tiến quản lý nhà nước, nhất là quản lý kinh tế, đồng thời phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phát động mạnh mẽ phong trào quần chúng thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế và kế hoạch nhà nước.
Dưới đây, xin trình bày mấy vấn đề chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1972:
1. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tích cực đưa nông nghiệp tiến nhanh và vững chắc lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
Yêu cầu hết sức cấp bách đối với nông nghiệp là phải đẩy mạnh sản xuất theo hướng toàn diện, thâm canh, chuyên canh trên cơ sở quy vùng, tiến nhanh lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện của ta, nền nông nghiệp sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa phải là nền nông nghiệp phát triển toàn diện, mạnh mẽ, theo quy mô lớn ở cả ba vùng đồng bằng, trung du, miền núi, chăn nuôi trở thành một ngành sản xuất chính quan trọng như trồng trọt, lâm nghiệp kết hợp với nông nghiệp được phát triển mạnh, và cùng với sự phát triển của trồng trọt và chăn nuôi các ngành nghề thủ công ở nông thôn được mở rộng; nền nông nghiệp sản xuất lớn cũng là nền nông nghiệp có năng suất lao động, năng suất cây trồng và năng suất chăn nuôi cao, có nguồn nông sản hàng hóa lớn và ngày càng phong phú, vừa thỏa mãn được yêu cầu trong nước, vừa đóng góp ngày càng nhiều cho xuất khẩu; một nền nông nghiệp như vậy tất yếu phải dựa trên hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật được xây dựng ngày càng hoàn chỉnh, áp dụng phương pháp và kỹ thuật sản xuất tiên tiến đủ sức tận dụng được khả năng đất đai và khai thác được điều kiện thuận lợi của nông nghiệp nhiệt đới nước ta. Chỉ có tiến lên theo con đường trên, nền nông nghiệp của ta mới thoát khỏi tình trạng lạc hậu, còn mang nặng tính chất tự túc tự cấp hiện nay, thực sự làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển của công nghiệp.
Năm 1972 và các năm sắp tới, chúng ta phấn đấu để có một bước tiến rõ rệt theo phương hướng trên; một mặt, phải tập trung sức bảo đảm nhiệm vụ sản xuất, thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất lương thực, thực phẩm, ra sức phát triển chăn nuôi và trồng cây công nghiệp, tích cực chuẩn bị để đưa vụ đông lên thành vụ sản xuất quan trọng, đẩy mạnh nghề rừng, v.v.; mặt khác, phải có những cố gắng lớn để chuyển biến một bước cơ cấu sản xuất là công tác quản lý nông nghiệp theo hướng sản xuất xã hội chủ nghĩa. Trong năm 1972, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8,6% (so với bình quân hai năm 1970 -1971) (1).
Để thực hiện các nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp năm 1972, cần phải triển khai và tích cực thực hiện các mặt công tác sau đây:
a) Tiến hành mạnh mẽ công tác phân vùng và quy hoạch sản xuất
Phân vùng và quy hoạch sản xuất nông nghiệp là công tác hết sức quan trọng để thể hiện phương hướng sản xuất tập trung, theo quy mô lớn, làm căn cứ cho việc xây dựng hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật đồng bộ, phù hợp với yêu cầu thâm canh, tăng năng suất của từng cây, từng con, trên từng vùng. Trước mắt, phải tích cực xây dựng và hình thành các vùng lúa có năng suất và sản phẩm hàng hóa cao, các vùng màu tập trung. Về cây công nghiệp, đẩy mạnh việc quy hoạch các vùng lạc, mía, chè, thuốc lá, dâu tằm, dứa, chuối, v,v., bảo đảm cung cấp đủ nguyên liệu cho các xí nghiệp công nghiệp nhẹ hiện có và đang xây dựng và tăng nhanh nguồn nông sản xuất khẩu. Ở trung du và miền núi, phải xúc tiến việc quy hoạch các vùng kinh tế mới và từng bước xây dựng các vùng này một cách toàn diện (có nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến, giao thông vận tải, v.v.), trong đó cả quốc doanh và hợp tác xã cùng sản xuất theo một phương hướng thống nhất. Năm 1972-1973, phải tiến hành quy hoạch vùng kinh tế mới khoảng 20 vạn héc-ta để có cơ sở mở rộng xây dựng trong các năm tới. Phải quy hoạch các vùng lâm nghiệp kết hợp với nông nghiệp, đặc biệt là các vùng chăn nuôi lớn, vùng trồng cây công nghiệp, cây làm thuốc, cây lấy gỗ làm trụ mỏ, làm giấy, sợi nhân tạo…; kết hợp chặt chẽ việc xây dựng vùng kinh tế mới và cuộc vận động định canh định cư với việc phát triển nghề rừng (bao gồm trồng rừng, bảo vệ, cải tạo rừng và khai thác lâm sản) để tạo ra một thế mới tiến lên mở mang toàn diện kinh tế vùng trung du và miền núi. Phải xây dựng các vùng thực phẩm, chung quanh các thành phố, khu công nghiệp và các vùng rau, quả phục vụ xuất khẩu. Việc chuyển hướng sản xuất ở các vùng ngoài đê, vùng đê bối, vùng phân lũ phải gắn với công tác quy hoạch chung trong từng địa phương để hình thành các vùng sản xuất tập trung ở những nơi có điều kiện nhằm bố trí lại sản xuất một cách có lợi nhất.
b) Tăng cường công tác thủy lợi
Công tác thủy lợi của ta, qua nhiều năm cố gắng, đã đạt được những thành tích lớn, song vẫn còn là một khâu yếu, về nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu. Năm 1972, để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu sản xuất nông nghiệp, công tác thủy lợi có tầm quan trọng rất lớn. Chúng ta phải rất khẩn trương thực hiện một loạt biện pháp tích cực để chủ động chống lũ lụt, bảo đảm khả năng chống lũ lớn, như tăng cường và củng cố đê điều, tổ chức chu đáo lực lượng phòng, chống lũ lụt, có kế hoạch khơi thông các dòng sông và cửa lạch, trồng rừng và bảo vệ rừng đầu nguồn v.v.. Ở trong đồng, phải trên cơ sở kiểm tra tất cả các hệ thống thủy lợi hiện có mà tích cực tiến hành quy hoạch thiết kế nhằm trong vài ba năm, làm xong về cơ bản việc hoàn chỉnh các hệ thống thủy lợi, đồng thời làm thêm một số công trình mới, bảo đảm tưới, tiêu cho lúa vụ đông - xuân, cho vùng màu và cây công nghiệp tập trung, thu hẹp dần diện tích bị úng trong vụ mùa.
c) Đẩy mạnh xây dựng các cơ sở vật chất - kỹ thuật khác phục vụ nông nghiệp
Cùng với việc tăng cường công tác thủy lợi, phải tích cực xây dựng các cơ sở vật chất - kỹ thuật khác một cách đồng bộ theo hướng tiến lên sản xuất lớn. Phải chú trọng đẩy mạnh xây dựng hệ thống công tác giống (cây trồng, gia súc, gia cầm) từ Trung ương, tỉnh, huyện đến hợp tác xã để, trong những năm tới, có đủ giống tốt cung cấp một cách phổ biến. Đi đôi với việc giải quyết giống, phải tích cực xây dựng các cơ sở sản xuất và chế biến thức ăn cho gia súc; quy hoạch một số đồng cỏ tập trung và chỉ đạo tốt việc cải tạo và gieo trồng cỏ… Về công cụ và cơ khí, phải hướng hoạt động của ngành Cơ khí đi sâu tìm hiểu yêu cầu của nông nghiệp, tăng nhanh khả năng phục vụ nông nghiệp. Riêng đối với các trạm máy kéo và các đội cơ khí nông nghiệp, phải dựa vào kết quả kiểm tra trong năm qua mà bố trí lại khu vực hoạt động, sắp xếp và điều chỉnh lại máy móc ở các trạm phù hợp với điều kiện đất đai và sản xuất của từng vùng, bảo đảm việc sửa chữa, cung cấp phụ tùng, nhiên liệu, v.v., nhằm phát huy tốt hơn nữa khả năng phục vụ của công nhân và máy móc. Về phân bón, các hợp tác xã phải tích cực khai thác các nguồn phân địa phương và có kế hoạch sử dụng tốt số phân bón hóa học (đạm, lân, apatít nghiền) và vôi do Nhà nước cung cấp.
d) Tăng cường cung cấp vật tư kỹ thuật cho nông nghiệp
Năm 1972, khối lượng vật tư Nhà nước cung cấp cho nông nghiệp khá lớn: 50 vạn tấn phân đạm, gần 30 vạn tấn phân lân các loại, 60 vạn tấn vôi, 90 vạn tấn than, v.v.. Điều này thể hiện sự cố gắng của Nhà nước trong tình hình vật tư của ta còn thiếu thốn. Vì vậy, các ngành, các cấp cần tổ chức tốt việc vận chuyển có kế hoạch và phương thức cung cấp cụ thể, bảo đảm các loại vật tư trên được phân phối kịp thời vụ, đúng mục đích, đúng đối tượng, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, yêu cầu thâm canh; tăng năng suất trên từng vùng, đồng thời bảo đảm khối lượng nông sản Nhà nước thu mua được tăng lên một cách tương xứng. Phải khắc phục tình trạng phân phối một cách tùy tiện, lãng phí, không đem lại hiệu quả mong muốn.
e) Tăng cường và cải tiến công tác chỉ đạo và quản lý nông nghiệp
Việc triển khai nhiều mặt công tác để bảo đảm nhiệm vụ của nông nghiệp năm 1972 và chuẩn bị cho các năm sau đòi hỏi công tác chỉ đạo và quản lý nông nghiệp từ Trung ương đến các hợp tác xã phải được tăng cường và cải tiến một cách mạnh mẽ.
Ở Trung ương và cấp tỉnh, cần xây dựng hệ thống quản lý tập trung thống nhất nông nghiệp, chỉ đạo thống nhất các mặt quản lý sản xuất và quản lý kỹ thuật (kể cả thủy nông), quản lý hợp tác xã và quản lý nông trường, tổ chức tốt việc phối hợp các ngành công nghiệp, các ngành lưu thông phân phối tập trung phục vụ đắc lực sản xuất nông nghiệp. Chú trọng nghiên cứu giải quyết một số chính sách có tác dụng khuyến khích thúc đẩy nông nghiệp, như: chính sách thu mua, giá mua một số loại nông sản, chính sách đầu tư vốn vào nông nghiệp, giá bán các máy móc cho nông nghiệp, v.v..
Phải xúc tiến việc kiện toàn cấp huyện, làm cho cấp huyện trở thành một khâu quan trọng trong quản lý nông nghiệp, có đủ năng lực làm tròn nhiệm vụ chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp, củng cố hợp tác xã, đưa nông nghiệp từng bước tiến lên sản xuất lớn.
Đối với các nông trường quốc doanh, phải giúp nông trường kiểm tra và xác định phương hướng sản xuất, biện pháp kỹ thuật, tổ chức quản lý kinh doanh phù hợp với điều kiện cụ thể từng nơi, gắn với việc quy hoạch và chỉ đạo xây dựng các vùng kinh tế mới.
Việc tăng cường công tác quản lý hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa quyết định bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp. Năm 1972, phải tiến hành tổng kết kinh nghiệm các hợp tác xã tiên tiến ở những vùng khác nhau để rút kinh nghiệm chỉ đạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý hợp tác xã; cần chuẩn bị tốt tiến tới mở đại hội đại biểu nông dân tập thể ở các cấp. Mặt khác, phải tích cực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý nông nghiệp (kể cả cán bộ kinh tế và cán bộ kỹ thuật), chú trọng cán bộ quản lý hợp tác xã, hình thành một đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt bảo đảm đưa nông nghiệp tiến lên.
2. Đẩy nhanh nhịp độ khôi phục và phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp
Hiện nay, nhiều ngành công nghiệp đang trên đà chuyển biến tốt. Năm vừa qua, một số ngành đã khôi phục và vượt được sản lượng cũ (như điện, phân bón, dệt…), năm nay chúng ta phải phấn đấu để cơ bản hoàn thành nhiệm vụ khôi phục của nhiều ngành khác (như than, xi măng, vật liệu xây dựng …), đẩy nhanh nhịp độ khôi phục và phát triển công nghiệp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế. Khôi phục và tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, khôi phục mức sản xuất phải gắn liền với khôi phục và vượt các chỉ tiêu chất lượng đã đạt được trong những năm trước chiến tranh (như năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, mức sử dụng công suất thiết bị, giá thành, v.v..).
Năm 1972, giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp phải tăng 17,4% so với năm 1971, trong đó, công nghiệp do Trung ương quản lý tăng 22%, công nghiệp do địa phương quản lý tăng gần 14%. Năng suất lao động tính bằng tiền của một công nhân viên sản xuất công nghiệp tăng gần 12%, giá thành sản phẩm công nghiệp hạ 4,6%.
Sau đây là nhiệm vụ của một số ngành công nghiệp chủ yếu:
Ngành Điện phải trên cơ sở đẩy mạnh khôi phục, mở rộng một số nhà máy điện cũ, xây dựng thêm nhà máy mới, và điều đặc biệt quan trọng là phải tập trung sức xây dựng nhanh các hệ thống đường dây tải điện và trạm biến thế, cải tạo mạng lưới phân phối ở các thành phố và khu công nghiệp, xây dựng thêm các hệ thống cung cấp điện cho nông nghiệp, v.v., bảo đảm từ giữa năm 1972 trở đi, cung cấp điện đủ và ổn định cho công nghiệp, cho thủy lợi và các ngành hoạt động khác. Năm 1972, phải hoàn thành việc xây dựng nhà máy Thủy điện Thác Bà, khôi phục xong nhà máy Điện Hà Bắc, đẩy mạnh khôi phục và xây dựng mới một số nhà máy điện quan trọng khác. Phải cải tiến việc phân phối và quản lý tiêu dùng điện một cách triệt để tiết kiệm.
Ngành Than phải đẩy nhanh việc cải tạo, khôi phục và xây dựng các khu mỏ; giải quyết đồng bộ các khâu khác trong dây chuyền sản xuất như vận tải, sàng rửa, bến cảng, sửa chữa, v.v., cân đối với khả năng khai thác, bảo đảm tăng sản lượng, nâng cao chất lượng và đưa sản xuất đi dần vào ổn định.
Hai ngành điện và than phải phấn đấu để trong năm nay, vừa đạt và vượt kế hoạch sản lượng, vừa thực hiện về cơ bản các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đã đạt được trước chiến tranh.
Ngành Cơ khí phải nghiên cứu để sớm tiến hành việc quy hoạch toàn ngành, đưa sản xuất đi dần vào chuyên môn hóa và phân công hợp tác sản xuất hợp lý. Trong năm 1972, cần ổn định thêm về phương hướng sản xuất, bổ sung và điều chỉnh lại cơ cấu thiết bị của các xí nghiệp cơ khí, tạo điều kiện để các xí nghiệp ổn định các mặt hoạt động, nâng cao mức sử dụng năng lực sản xuất hiện có và nâng cao dần chất lượng sản phẩm. Phải cố gắng bảo đảm nhiệm vụ sản xuất phụ tùng và sửa chữa, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu và chế tạo thiết bị toàn bộ, sản xuất thêm nhiều loại thiết bị mới, chú trọng các thiết bị và phụ tùng phục vụ nông nghiệp; thiết bị toàn bộ cho các ngành vật liệu xây dựng, công nghiệp nhẹ, lương thực, thực phẩm, chế tạo các loại phương tiện vận tải, bốc dỡ cho ngành Giao thông vận tải và Thủy sản, v.v.. Để bảo đảm được nhiệm vụ trong năm nay và các năm sau, cần đặc biệt coi trọng việc tổng kết kinh nghiệm về các mặt kỹ thuật cơ bản (như đúc, rèn, dập, nhiệt luyện…), tăng cường công tác thiết kế công nghiệp, đẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng công nhân cơ khí; phát triển đội ngũ công nhân lành nghề; cần rút kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động, phát huy tác dụng của các nhóm sản phẩm cơ khí mới xây dựng.
Ngành Hóa chất và Phân bón phải tận dụng công suất của các cơ sở hiện có, tăng nhanh khả năng sản xuất phân lân, đẩy mạnh khôi phục và xây dựng các nhà máy phân đạm để trước mắt có thể tăng mức cung cấp phân lân và từ năm sau, cung cấp được phần quan trọng nhu cầu phân đạm cho sản xuất nông nghiệp.
Ngành Sản xuất vật liệu xây dựng phải tích cực khôi phục và mở rộng sản xuất xi măng, triển khai nhanh việc xây dựng hàng loạt các xí nghiệp gạch, ngói, bê tông đúc sẵn, vôi v.v., theo hướng tập trung quy mô lớn; tăng cường khai thác và chế biến gỗ, sử dụng gỗ một cách hợp lý và tiết kiệm, tận dụng gỗ cành, ngọn; đẩy mạnh khai thác đá, cát, sỏi, v.v., bảo đảm cung cấp đủ vật liệu xây dựng thông thường cho nhu cầu xây dựng của Nhà nước và hợp tác xã. Chuẩn bị để sớm xây dựng thêm một số xí nghiệp sản xuất các loại vật liệu xây dựng cần thiết khác như kính, sứ vệ sinh, sứ cách điện,v.v.; từng bước công nghiệp hóa ngành sản xuất vật liệu xây dựng phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh xây dựng theo quy mô lớn trong những năm sau.
Cùng với việc khôi phục và phát triển một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, phải khôi phục và phát triển nhanh các ngành công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, bao gồm cả công nghiệp Trung ương, công nghiệp địa phương, hợp tác xã tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, để phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, có đủ hàng công nghiệp trao đổi với nông sản, tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu và tăng nguồn tích lũy xã hội chủ nghĩa.
Ngành Công nghiệp chế biến thực phẩm phải phát triển mạnh để tiến tới thỏa mãn yêu cầu về chế biến lương thực (bột mì và màu ở các khu vực tập trung), chế biến các loại thực phẩm thông thường (đậu phụ, nước chấm, đường, bánh kẹo, chè, rượu, thuốc lá, v.v..); mở rộng sản xuất nhiều mặt hàng mà hiện nay việc đáp ứng nhu cầu còn bị hạn chế (như mì chính, bia, nước ngọt, v.v..). Nghề đánh cá biển, nuôi trồng, khai thác và chế biến các loại thủy sản phải phát triển mạnh để tăng thêm nguồn thực phẩm cung cấp cho người và một phần làm thức ăn cho chăn nuôi. Phải chú trọng củng cố các hợp tác xã nghề cá, cung cấp đủ thuyền lưới, đẩy mạnh nghề đánh cá bằng ánh sáng và các nghề có năng suất cao, từng bước trang bị cơ giới cho các hợp tác xã có đủ điều kiện, mặt khác, phải chú trọng củng cố và tăng cường các xí nghiệp quốc doanh đánh cá của Trung ương và xây dựng nhanh một số xí nghiệp quốc doanh địa phương.
Ngành Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phải đẩy mạnh sản xuất vải, các loại may mặc sẵn, giấy và các loại đồ dùng văn phòng, đồ dùng gia đình và các loại hàng tiêu dùng khác, bảo đảm các nhu cầu thiết yếu, đồng thời cố gắng đáp ứng một cách toàn diện mọi nhu cầu tiêu dùng thông thường trong đời sống hàng ngày, khắc phục tình trạng thiếu những mặt hàng tuy không thật quan trọng nhưng thuộc nhu cầu chính đáng của nhân dân.
Trong khi vươn lên bảo đảm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, hạn chế và tiến tới giảm hẳn việc nhập khẩu các mặt hàng mà trong nước có khả năng sản xuất được, ngành công nghiệp nhẹ phải đặc biệt coi trọng nhiệm vụ sản xuất hàng xuất khẩu, từng bước xây dựng các cơ sở chuyên làm hàng xuất khẩu, tích cực mở rộng mặt hàng, tăng số lượng, và điều rất quan trọng là phải phấn đấu đạt cho được các tiêu chuẩn chất lượng theo yêu cầu của xuất khẩu.
Về công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp, nhiệm vụ chủ yếu là phải tập trung sức phát triển mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, đồng thời chú trọng sản xuất vật liệu xây dựng, các mặt hàng phục vụ nông nghiệp, xây dựng cơ bản và hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc củng cố các xí nghiệp hiện có, cải tiến và tăng cường công tác quản lý để khai thác tốt hơn khả năng tiềm tàng, cần xây dựng thêm các xí nghiệp cần thiết, với điều kiện là phải nghiên cứu kỹ nhu cầu, nguồn nguyên liệu và hiệu quả kinh tế. Chú trọng hướng dẫn phát triển thêm các hợp tác xã và tổ làm công tác sửa chữa, phục vụ.
Các ngành quản lý công nghiệp ở Trung ương cần làm tốt nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo toàn ngành, hết sức giúp đỡ và tạo điều kiện cho công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ.
3. Ra sức tăng cường công tác giao thông vận tải phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống nhân dân
Ngành Giao thông vận tải đang đứng trước nhiệm vụ to lớn và rất khẩn trương; phải cố gắng làm tốt nhiệm vụ vận chuyển phục vụ tiền tuyến và vươn lên mạnh mẽ hơn nữa phục vụ đắc lực cho sản xuất và xây dựng, bảo đảm vận chuyển vật tư, hàng hóa đến tận cơ sở sản xuất (xí nghiệp, công trường, hợp tác xã), góp phần tích cực vào việc tăng cường lưu thông phân phối, ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân, đồng thời tích cực chuẩn bị các mặt để phát triển mạnh giao thông vận tải trong những năm sau.
Năm 1972, yêu cầu vận chuyển các mặt đều rất cấp bách. Để bảo đảm nhiệm vụ trước hết phải đẩy mạnh công tác xây dựng cơ bản, khẩn trương khôi phục và phát triển giao thông vận tải. Tích cực khôi phục các hệ thống đường sắt cũ, cải tạo và mở rộng các khu đầu mối quan trọng, tăng cường hệ thống thông tin tín hiệu để tăng nhanh năng lực vận tải của từng tuyến đường. Xúc tiến xây dựng một số đoạn đường sắt mới phục vụ khai thác và vận chuyển than, gỗ, vật liệu xây dựng. Tiếp tục cải tạo và mở rộng Cảng Hải Phòng, nạo vét luồng ra vào ở các cảng và các luồng sông chủ yếu, làm thêm cầu tàu và bổ sung thêm thiết bị bốc dỡ, v.v., để tăng năng lực tiếp nhận hàng hóa ở các cảng lớn. Đẩy mạnh việc khôi phục, cải tạo các tuyến đường bộ.
Để nâng cao công suất sử dụng các loại phương tiện, phải đặc biệt chú trọng tổ chức lại mạng lưới sửa chữa, tăng cường sản xuất và cung cấp phụ tùng, nâng cao năng lực sửa chữa, tăng thời gian hoạt động của các loại phương tiện.
Mặt khác, phải khẩn trương sắp xếp và tổ chức mạng lưới vận tải thống nhất ở các khu vực quan trọng, bố trí lại mạng lưới vận tải phục vụ cho các cơ sở sản xuất và xây dựng, phân công hợp lý giữa Bộ Giao thông - Vận tải với các bộ khác và các địa phương, kết hợp chặt chẽ và linh hoạt các loại phương tiện (đường sắt, đường bộ, đường thủy…) trong từng khu vực và trên từng tuyến đường, theo một quy hoạch có lợi nhất, bảo đảm sử dụng hợp lý các loại phương tiện, vận chuyển nhanh, giá thành hạ.
Đồng thời, tiến hành sớm việc quy hoạch lại hệ thống kho hàng, xây dựng thêm kho cho các cảng, các khu vực giao nhận hàng tập trung và cho các ngành có khối lượng hàng hóa lớn; chú trọng tăng năng lực bốc dỡ, thống nhất việc quản lý lực lượng bốc dỡ và kho, bãi ở các ga, cảng; từng bước cơ giới hóa khâu bốc dỡ.
Cùng với việc thực hiện tốt các công tác trên, ngành Giao thông vận tải phải ra sức cải tiến và tăng cường công tác quản lý, đặc biệt là công tác tổ chức và quản lý vận tải, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đã đạt trước chiến tranh, trước hết là các chỉ tiêu rút ngắn thời gian quay vòng phương tiện, tăng năng suất lao động, hạ giá thành vận chuyển, v.v.. Cần ra sức củng cố tổ chức và cải tiến công tác quản lý ở các cơ sở (công ty vận tải, xí nghiệp sửa chữa, v.v..).
Cùng với sự cố gắng của ngành Giao thông vận tải, các ngành khác, đặc biệt các ngành công nghiệp, nông nghiệp, vật tư, thương nghiệp, v.v., tùy phạm vi trách nhiệm của mình, phải tích cực giải quyết các vấn đề kho tàng, tiếp nhận, giúp sản xuất và sửa chữa phương tiện, hỗ trợ cho ngành Giao thông vận tải hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
4. Mở rộng quy mô và tăng nhanh nhịp độ xây dựng
cơ bản
Xây dựng cơ bản là một khâu rất quan trọng trong nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Năm 1972 và mấy năm trước mắt, phải mở mang nhanh xây dựng cơ bản để tiếp tục khôi phục các cơ sở bị địch đánh phá, cải tạo, mở rộng và đổi mới thiết bị các cơ sở cũ và xây dựng mới nhiều công trình cần thiết khác để tạo điều kiện mở rộng và đẩy mạnh sản xuất hơn nữa trong các năm sau, xây dựng từng bước cơ cấu tiến bộ của nền kinh tế quốc dân.
Điều cần chú ý là, trong khi nhu cầu xây dựng rất lớn, khả năng xây dựng của ta có mặt bị hạn chế, phải hết sức tránh phân tán vốn và lực lượng xây dựng, việc phân phối vốn xây dựng phải tập trung trước hết vào các mục tiêu chủ yếu, ưu tiên cho việc phát triển nông nghiệp, khôi phục và phát triển công nghiệp, khôi phục và phát triển giao thông vận tải, đồng thời chú ý đúng mức xây dựng các nhà ở, bệnh viện, trường học, các công trình phục vụ công cộng ở thành phố và khu công nghiệp.
Theo tinh thần trên, vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1972 tăng trên 50% so với năm 1971, riêng vốn xây lắp tăng 44%.
Vốn đầu tư xây dựng công nghiệp chiếm 38% số vốn xây lắp, chủ yếu là nhằm khôi phục và phát triển mạnh các ngành điện, than, phân bón; tăng cường năng lực sản xuất của ngành Cơ khí; khôi phục và mở rộng nhanh sản xuất và khai thác vật liệu xây dựng, khôi phục và xây dựng công nghiệp luyện kim; từng bước xây dựng ngành Công nghiệp xây dựng; khôi phục và phát triển nhanh các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp đánh cá và chế biến thủy sản, v.v..
Vốn đầu tư vào nông nghiệp chiếm 22% tổng số vốn xây lắp và tăng trên 41% so với năm 1971 nhằm đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện các cơ sở vật chất - kỹ thuật phù hợp với phương hướng sản xuất của từng vùng, đặc biệt phải tập trung làm nhanh công tác hoàn chỉnh thủy lợi, hệ thống các trạm, trại giống cây trồng và gia súc; xây dựng các vùng sản xuất tập trung (vùng cây công nghiệp, vùng thực phẩm xung quanh các thành phố và khu công nghiệp, vùng rau quả xuất khẩu, v.v..); quy hoạch và xây dựng các vùng kinh tế mới ở trung du và miền núi, các trạm máy móc nông nghiệp và sửa chữa, v.v..
Vốn đầu tư xây dựng giao thông vận tải chiếm 17% tổng số vốn xây lắp và tăng trên 51% so với năm 1971, nhằm đẩy mạnh việc khôi phục và xây dựng các bến cảng, các tuyến đường sắt và đường bộ, mở rộng các bến, bãi, tăng cường năng lực bốc dỡ, xây dựng và mở rộng hệ thống kho ở các khu vực giao nhận hàng tập trung, v.v., để tăng nhanh khả năng tiếp nhận, vận chuyển hàng hóa, đặc biệt là trên các tuyến đường chính và các khu vực đầu mối quan trọng.
Gắn liền với khôi phục và phát triển các ngành sản xuất, phải chú ý đúng mức xây dựng hệ thống kho tàng, bảo đảm tiếp nhận, bảo quản, phân phối các loại hàng hóa và vật tư kỹ thuật, tăng cường hệ thống thông tin liên lạc trong ngành Bưu điện để bảo đảm yêu cầu thông tin kinh tế và phục vụ sản xuất.
Nhiệm vụ xây dựng cơ bản năm 1972, như trên đã trình bày, là hết sức nặng nề. Để bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng, nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư, các ngành, các cấp phải, trên cơ sở thấu suốt phương hướng và nhiệm vụ đầu tư, tăng cường chỉ đạo các khâu chuẩn bị ban đầu cho xây dựng (khảo sát, địa điểm, nghiên cứu nhiệm vụ thiết kế và thiết kế…), nắm chắc khả năng các mặt (vốn, thiết bị, vật liệu, lực lượng thi công, v.v..) mà cân đối và chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Phải tính toán cụ thể và xét duyệt kỹ lưỡng chủ trương xây dựng, xem xét kỹ các mối quan hệ giữa ngành này và ngành khác, giữa công trình này và công trình khác, bảo đảm cho việc xây dựng được đồng bộ và cân đối. Cần bố trí và phối hợp các mặt cho ăn khớp để việc thi công trên từng công trình được nhanh, gọn, dứt điểm, hoàn thành và đưa vào sản xuất đúng thời hạn, nhất là đối với các công trình trọng điểm có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế. Công tác thiết kế, lập kế hoạch cũng như quản lý xây dựng phải quán triệt tinh thần tiết kiệm vốn, sử dụng hợp lý thiết bị, vật tư, sức lao động, thúc đẩy tăng năng suất lao động, bảo đảm rút ngắn thời gian thi công, bảo đảm chất lượng công trình tốt và giá thành xây dựng hạ.
Đồng thời với việc bảo đảm nhiệm vụ xây dựng trước mắt, phải tích cực chuẩn bị các mặt, như: xúc tiến công tác điều tra cơ bản, phân vùng kinh tế, quy hoạch địa điểm xây dựng, thiết kế, đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng theo hướng tập trung quy mô lớn, phát triển lực lượng xây dựng, từng bước công nghiệp hóa ngành Xây dựng, v.v., để tạo điều kiện mở mang xây dựng cơ bản với quy mô ngày càng lớn trong những năm sau.
5. Tiếp tục ổn định tài chính, tiền tệ, giá cả, đẩy mạnh các hoạt động lưu thông phân phối phục vụ khôi phục và phát triển kinh tế, phục vụ đời sống của nhân dân
Công tác của các ngành lưu thông phân phối góp phần rất trọng yếu vào việc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế năm 1972 và các năm trước mắt.
Phải chuyển biến mạnh mẽ hoạt động của các ngành lưu thông phân phối nhằm bảo đảm các yêu cầu sau đây :
- Tích cực và chủ động phục vụ sản xuất, góp phần củng cố quan hệ sản xuất, thúc đẩy sự phân công lao động mới, thúc đẩy sự chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trước hết là trong nông nghiệp.
- Trên cơ sở sản xuất được khôi phục và phát triển, bảo đảm tập trung được đúng mức nguồn tài chính, vật tư, hàng hóa vào trong tay Nhà nước để đáp ứng với mức độ ngày càng cao mọi nhu cầu của nền kinh tế quốc dân.
- Phân phối đúng đắn nguồn vốn, nguồn vật tư, hàng hóa nhằm thực hiện các mục tiêu về xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa theo phương hướng của kế hoạch nhà nước, giải quyết thỏa đáng các yêu cầu về đời sống của nhân dân, bảo đảm sự nhất trí giữa lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích của người lao động. Đồng thời, giám đốc và kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng lao động, vốn, vật tư, hàng hóa, bảo đảm sử dụng đúng phương hướng, chính sách, chế độ và triệt để tiết kiệm.
Để đạt các yêu cầu trên, năm 1972, công tác tài chính phải đi sát hơn nữa hoạt động của các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, làm tốt chức năng giám đốc và kiểm tra hoạt động kinh tế, qua đó mà nắm chắc nguồn thu, tăng thu tài chính một cách vững chắc phù hợp với đà phát triển của nền kinh tế. Nguồn vốn trong nước cùng với nguồn vốn ngoài nước phải được phân phối tập trung cho tích lũy, để mở rộng tái sản xuất, đồng thời bảo đảm yêu cầu phát triển các mặt giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, v.v..
Công tác ngân hàng phải đặt lên hàng đầu việc cải tiến công tác tín dụng làm cho công tác tín dụng vừa phát huy được tác dụng tích cực đối với khôi phục và phát triển kinh tế, thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1972, vừa bảo đảm được nguyên tắc tín dụng xã hội chủ nghĩa (cho vay có mục đích, vay phải trả đúng thời hạn, tỷ lệ lãi hợp lý…). Phải cải tiến nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng, bảo đảm quyền lợi của cả hai phía giao dịch, hợp lý hóa và rút ngắn được thời gian chu chuyển vốn giữa các đơn vị hoạt động. Phải quản lý chặt chẽ lưu thông tiền mặt, chủ động cân đối tiền và hàng phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế.
Trong năm 1972, phải thực hiện thăng bằng tiền mặt một cách tích cực.
Phấn đấu ổn định hơn nữa tình hình giá cả, điều chỉnh một số giá chưa hợp lý (giá tư liệu sản xuất, giá mua nông sản và giá bán lẻ hàng tiêu dùng), tiếp tục thực hiện chính sách hai giá trong phạm vi cần thiết đối với một số mặt hàng tiêu dùng, mở rộng việc xây dựng giá bán buôn xí nghiệp…, phát huy tác dụng tích cực của giá cả đối với sản xuất, đời sống, đối với quản lý kinh tế và quản lý thị trường.
Công tác nội thương phải chuyển biến mạnh về nhận thức và về tổ chức chỉ đạo để thực hiện tốt các nhiệm vụ mua vào, bán ra và quản lý thị trường. Năm 1972, việc thu mua lương thực, thực phẩm, nông sản là công tác có tầm quan trọng rất lớn, phải bổ sung các chính sách cần thiết, kết hợp việc động viên, thuyết phục với các biện pháp kinh tế, hành chính, làm tốt cả nhiệm vụ thu mua trong và ngoài nghĩa vụ, mở rộng việc thu mua theo hợp đồng hai chiều. Phải làm tốt việc bán theo tiêu chuẩn những mặt hàng thuộc nhu cầu thiết yếu; mở rộng việc bán bình thường các loại hàng khác, kết hợp vận dụng chính sách hai giá trong phạm vi thích hợp. Phải kết hợp chặt chẽ mua vào và bán ra, thông qua chính sách và phương thức mua, bán đúng đắn, tổ chức mua, bán thuận lợi để phục vụ sản xuất, đời sống ngày càng tốt hơn.
Năm nay, phải đặc biệt coi trọng hơn nữa công tác quản lý thị trường. Phối hợp các biện pháp tổ chức hành chính, thuế khóa, thương nghiệp, giá cả, v.v., để ngăn chặn thị trường tự do bất hợp pháp, nghiêm cấm việc mua đi bán lại những mặt hàng do Nhà nước quản lý; tăng cường quản lý giá cả của các ngành phục vụ và sửa chữa, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường tự do đối với sản xuất, đời sống nhân dân và các mặt sinh hoạt xã hội.
Công tác ngoại thương phải phối hợp chặt chẽ với các ngành sản xuất trong nước đẩy mạnh sản xuất và tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, có những biện pháp tích cực về các mặt tổ chức sản xuất, thu mua, giá cả để nâng cao nhanh chóng khối lượng hàng nông sản, nông sản chế biến và hàng thủ công xuất khẩu, phấn đấu đưa giá trị hàng xuất khẩu năm 1972 tăng 34% so với năm 1971. Các ngành, các địa phương, các cơ sở sản xuất phải thấy đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu. Phải bảo đảm kế hoạch về số lượng, mặt hàng và phấn đấu đạt các tiêu chuẩn về phẩm chất theo yêu cầu của thị trường. Đồng thời, chuẩn bị tích cực các điều kiện để có kế hoạch xuất khẩu với quy mô lớn và dài hạn sau này.
Về nhập khẩu, phải theo sát phương hướng sản xuất và xây dựng trong nước, nắm chắc và soát xét chặt chẽ các yêu cầu nhập của các ngành, các địa phương, các cơ sở, bảo đảm nhập đầy đủ và kịp thời các nguyên liệu, vật liệu, thiết bị, phụ tùng và các loại hàng cần thiết khác mà ta chưa sản xuất được, giảm hẳn việc nhập các hàng hóa, thiết bị, có thể sản xuất được ở trong nước.
Phải kết hợp các biện pháp thương nghiệp, tài chính, giá cả với việc tăng cường công tác tổ chức đời sống, bảo đảm giữ vững và từng bước tăng thu nhập thực tế của người lao động. Trước mắt, phải tập trung sức giải quyết tốt hơn các vấn đề ăn, mặc, bảo vệ sức khỏe, cải thiện một bước vấn đề nhà ở cho công nhân, viên chức. Nhà nước cần tiếp tục giúp đỡ nhân dân các vùng vừa qua bị lụt giữ vững đời sống để đẩy mạnh sản xuất. Ngành Nội thương phải đặc biệt coi trọng việc cải thiện bữa ăn hàng ngày của người lao động ở thành phố và khu công nghiệp: phải cố gắng bảo đảm mức cung cấp thực phẩm, chất đốt một cách đều đặn, đủ tiêu chuẩn, phẩm chất tốt và giá ổn định; đồng thời phải tích cực nâng cao kỹ thuật chế biến món ăn, cải thiện điều kiện phục vụ và cải tiến tổ chức quản lý các nhà ăn tập thể.
Trong việc thực hiện trách nhiệm của mình đối với các mặt hoạt động của nền kinh tế, các ngành lưu thông phân phối phải coi việc phục vụ nông nghiệp là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Phải nghiên cứu để sớm bổ sung một loạt chính sách và biện pháp về đầu tư, tín dụng, giá cả, phân phối, v.v., để thực sự thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy trồng trọt và chăn nuôi tiến lên theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào việc tăng cường kinh tế tập thể và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn.
6. Đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật. Tăng cường các công tác giáo dục, y tế
Hiện nay, chúng ta đã có một lực lượng cán bộ và công nhân kỹ thuật bao gồm hàng mấy chục vạn người. Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng này đã có những cống hiến lớn và đang trưởng thành nhanh chóng. Tuy nhiên do những khuyết điểm, nhược điểm trong công tác đào tạo, và một phần là do việc phân phối và sử dụng chưa tốt, cho nên cán bộ và công nhân ta chưa phát huy đầy đủ tác dụng trong xây dựng kinh tế. Để bảo đảm yêu cầu khôi phục và phát triển sản xuất năm 1972 và chuẩn bị cho việc xây dựng kinh tế với quy mô lớn hơn trong các năm sau, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tốt lực lượng cán bộ và công nhân kỹ thuật có ý nghĩa rất cấp bách.
Ở các trường đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật và quản lý kinh tế, cần nâng cao trình độ cán bộ giảng dạy: cải tiến chương trình giảng dạy; tăng thêm thiết bị thí nghiệm và thực tập; chú trọng quản lý tốt các trường học, giải quyết tốt các vấn đề về ăn, ở. Phải cải tiến mạnh mẽ việc phân phối và sử dụng cán bộ khoa học - kỹ thuật, chuyển phần lớn cán bộ mới ra trường xuống công tác ở các cơ sở sản xuất, đồng thời điều chỉnh hợp lý số cán bộ chưa được bố trí đúng ngành nghề, để tạo điều kiện cho anh chị em có thể phát huy tốt hơn khả năng của mình.
Đối với công nhân kỹ thuật, yêu cầu cấp bách là phải đẩy mạnh công tác đào tạo với quy mô lớn, hơn các năm trước đây, để gấp rút tăng cường đội ngũ công nhân kỹ thuật kịp đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành, chú trọng phát triển đội ngũ công nhân lành nghề. Do đó, phải nhanh chóng xây dựng một mạng lưới trường đào tạo công nhân kỹ thuật có quy mô thích hợp, có xưởng thực tập được trang bị khá.
Tích cực đẩy mạnh phong trào bổ túc văn hóa tại chức, nâng cao chất lượng các trường bổ túc văn hóa tập trung; kiện toàn và phát triển các lớp mẫu giáo, vỡ lòng đi đôi với nâng cao chất lượng giảng dạy. Cần phát triển giáo dục phổ thông cấp III bằng các hình thức như: vừa học tập vừa lao động, hoặc mở rộng các trường đào tạo công nhân, các trường trung học chuyên nghiệp, v.v., để các cháu học xong lớp 7 chưa đúng tuổi lao động được tiếp tục học tập. Các địa phương cần dành vật liệu xây dựng và tiền vốn, đồng thời phát huy khả năng của nhân dân đóng góp để xây dựng các trường phổ thông, trường sư phạm. Phải tích cực đào tạo giáo viên người miền núi nhằm, trong một số năm, các tỉnh miền núi tự bảo đảm được yêu cầu giáo viên phổ thông.
Ngành Y tế cần làm tốt hơn nữa công tác phòng, chống dịch bệnh. Chú trọng tăng cường hệ thống phòng bệnh, chữa bệnh ở các công trường, lâm trường, nông trường, xí nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp; củng cố các bệnh viện huyện, từng bước xây dựng lại và trang bị thêm các bệnh viện tỉnh.
Các tổ chức y tế, bảo vệ bà mẹ và trẻ em phải chăm sóc tốt hơn nữa sức khỏe của các cháu nhỏ, đồng thời phải đẩy mạnh việc hướng dẫn các biện pháp sinh đẻ có kế hoạch, để bảo đảm sức khỏe cho các bà mẹ và tạo điều kiện nuôi dạy các cháu tốt hơn.
PHẦN THỨ BA
MẤY VẤN ĐỀ LỚN VỀ TĂNG CƯỜNG
VÀ CẢI TIẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ KINH TẾ
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Việc thực hiện nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ từng bước tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải tăng cường và cải tiến công tác quản lý kinh tế, một khâu có ý nghĩa quyết định để tạo ra sự chuyển biến rõ rệt của nền kinh tế trong năm 1972, làm đà cho bước tiến lên mạnh mẽ trong những năm sau.
Phương hướng cơ bản của việc cải tiến quản lý kinh tế là xóa bỏ lối quản lý hành chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, khắc phục cách tổ chức quản lý của sản xuất nhỏ, xây dựng cách tổ chức quản lý nền công nghiệp lớn, thúc đẩy quá trình đưa nền kinh tế quốc dân từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Trước mắt, phải mau chóng đưa các hoạt động kinh tế trở lại bình thường, đưa công tác quản lý đi vào nền nếp, động viên cao mọi khả năng tiềm tàng về lao động, đất đai, vật tư, thiết bị, v.v., để đẩy mạnh khôi phục và phát triển kinh tế, tăng nhanh thu nhập quốc dân, tạo cho nền kinh tế thế phát triển tốt để từ đó tiến lên mạnh mẽ.
Theo phương hướng cơ bản nói trên, việc tăng cường và cải tiến quản lý kinh tế trong thời gian tới phải nhằm từng bước xây dựng hệ thống quản lý kinh tế phù hợp với những điều kiện cụ thể của nước ta.
Tăng cường và cải tiến công tác quản lý kinh tế là nhiệm vụ công tác trọng yếu của tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, trong khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế tập thể. Phải tăng cường và cải tiến quản lý ở tất cả các khâu quản lý như kế hoạch hóa, thực hiện hạch toán kinh tế và vận dụng đúng đắn hệ thống đòn bẩy kinh tế, quản lý khoa học - kỹ thuật, tổ chức bộ máy quản lý, nhằm đạt đến một sự chuyển biến đồng bộ, ăn khớp từ trên xuống dưới và có kết quả thiết thực, đưa các hoạt động của Nhà nước và công tác quản lý kinh tế đi vào nền nếp chặt chẽ.
Nội dung quan trọng của việc tăng cường và cải tiến công tác quản lý kinh tế trước hết là cải tiến công tác kế hoạch hóa, chuyển biến mạnh mẽ phương pháp kế hoạch hóa, làm cho kế hoạch trong những năm trước mắt thể hiện đúng đắn phương hướng và nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, thực sự là công cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế quốc dân.
Muốn vậy, phải khắc phục những nhược điểm hiện nay trong việc nắm tình hình và đánh giá tình hình, không ngừng nâng cao căn cứ khoa học của kế hoạch, cung cấp các cơ sở chính xác cho việc lập và chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Phải nâng cao chất lượng của công tác thống kê, thường xuyên tiến hành kiểm kê, nắm chắc năng lực sản xuất, lao động, đất đai, vật tư, thiết bị, v.v., để phát hiện và phản ánh hết các khả năng tiềm tàng đó vào kế hoạch. Phải có kế hoạch xúc tiến điều tra cơ bản, điều tra và nghiên cứu kinh tế, làm rõ các căn cứ kinh tế kỹ thuật khi quyết định các phương án kế hoạch. Phải tăng cường các công tác định mức, tiêu chuẩn, v.v., làm căn cứ nâng cao chất lượng công tác cân đối kế hoạch.
Công tác cân đối phải phát triển thành công cụ trọng yếu trong phương pháp kế hoạch hóa, là khâu bảo đảm tính chất hiện thực của kế hoạch nhà nước. Trung ương phải nắm vững các cân đối cơ bản của quá trình tái sản xuất mở rộng, quan tâm đầy đủ các cân đối lớn, bảo đảm cho các ngành, các địa phương có đủ các điều kiện vật chất tương ứng với nhiệm vụ đã được giao. Trong thời gian tới, cần chấn chỉnh và tổ chức lại công tác cân đối vật tư, thiết bị, hàng tiêu dùng (cân đối hiện vật) từ trên xuống dưới. Trên cơ sở làm tốt các cân đối hiện vật mà làm kế hoạch thống nhất hiện vật và tài chính ở tất cả các cấp.
Quá trình chuyển biến toàn bộ cơ cấu nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện rõ trong việc kế hoạch hóa tập trung ở Trung ương. Trước mắt, đi đôi với việc nắm vững và thực hiện tốt kế hoạch ngắn hạn hàng năm, phải xúc tiến xây dựng kế hoạch dài hạn, một nhiệm vụ rất quan trọng của việc kế hoạch hóa tập trung. Đồng thời, phải đẩy mạnh các công tác quy hoạch, phân vùng, nghiên cứu phương hướng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phương hướng hợp tác kinh tế dài hạn, đào tạo cán bộ và công nhân, v.v.. Cùng với việc tăng cường kế hoạch hóa tập trung ở Trung ương, phải nhanh chóng ổn định tình hình ở các đơn vị cơ sở, làm cho các hoạt động của đơn vị cơ sở trở lại bình thường, tạo điều kiện chuyển sang mở rộng quyền chủ động của các đơn vị này trong sản xuất và kinh doanh trên cơ sở thực hiện chế độ hạch toán kinh tế .
Trên cơ sở lấy kế hoạch nhà nước làm công cụ quản lý chủ yếu, phải nhanh chóng xóa bỏ cách quản lý theo lối hành chính cung cấp, thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán kinh tế, vận dụng đúng đắn hệ thống các đòn bẩy kinh tế. Quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mỗi đơn vị kinh tế, trước hết là các đơn vị cơ sở, tính toán thật kỹ lưỡng để xây dựng và thực hiện kế hoạch nhà nước với hao phí lao động, vật tư và tiền vốn ít nhất, với chất lượng sản phẩm tốt nhất, từ đó mà tự trang trải các chi phí sản xuất, kinh doanh có lãi, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, tự sức mình mở rộng được sản xuất, đồng thời mang lại lợi ích thiết thực cho tập thể đơn vị và cho mỗi người lao động.
Để đưa hạch toán kinh tế đi vào nền nếp, cần chấn chỉnh chế độ kế toán, thống kê ở cơ sở, thực hiện hạch toán ban đầu thật đúng đắn, tiến hành hạch toán chi phí sản xuất chặt chẽ, hạch toán chính xác giá thành. Phải xúc tiến việc mở rộng xây dựng giá bán buôn xí nghiệp; cải tiến các chế độ, thể lệ về quản lý tài chính; thực hiện chế độ phân phối lợi nhuận, trích lập các quỹ của xí nghiệp, sửa đổi công tác tín dụng ngân hàng.
Chế độ hạch toán kinh tế gắn liền với việc vận dụng các chính sách và đòn bẩy kinh tế (như tiền lương, giá cả, lợi nhuận…). Trên cơ sở không ngừng nâng cao ý thức giác ngộ của quần chúng, phải khéo sử dụng các đòn bẩy khuyến khích để tạo ra sự nhất trí ngày càng cao giữa quyền lợi của xã hội với từng tập thể và cá nhân người lao động, thúc đẩy việc hoàn thành tốt kế hoạch nhà nước. Đương nhiên, đây là những vấn đề lớn, cần phải nghiên cứu, giải quyết từng bước phù hợp với đặc điểm miền Bắc nước ta hiện nay. Trước mắt, cần nghiên cứu những chính sách cụ thể có ý nghĩa hết sức quan trọng như: chính sách về nghĩa vụ của hợp tác xã và nông dân bán lương thực và thực phẩm chủ yếu cho Nhà nước; chính sách hợp đồng hai chiều giữa Nhà nước và hợp tác xã, bảo đảm tập trung nguồn nông sản chủ yếu vào trong tay Nhà nước; chính sách phân phối trong nội bộ hợp tác xã; chính sách tiền lương; chính sách đầu tư vốn của Nhà nước, v.v..
Một nội dung khác hết sức quan trọng của công tác quản lý là tăng cường quản lý khoa học - kỹ thuật, trước mắt là tập trung vào việc xây dựng chế độ và nền nếp quản lý kỹ thuật và tổ chức thực hiện chặt chẽ chế độ ấy trong mọi ngành kinh tế quốc dân, trong các đơn vị cơ sở. Mặt yếu cơ bản này trong công tác quản lý hiện nay đang có ảnh hưởng không tốt đến việc nhanh chóng khôi phục sản xuất, nâng cao chất lượng và đẩy mạnh tăng năng suất. Nội dung chủ yếu và cấp bách của quản lý kỹ thuật là xây dựng và thực hiện đúng quy trình, quy phạm kỹ thuật, tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật, quản lý và kiểm tra chất lượng sản phẩm, áp dụng kịp thời kỹ thuật mới vào sản xuất và phổ biến nhanh chóng các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Trong điều kiện hiện nay, vận dụng các biện pháp tổ chức kỹ thuật để giải quyết những bất hợp lý trong sản xuất thường không tốn kém nhiều mà lại đạt được hiệu quả kinh tế rõ rệt.
Tăng cường công tác quản lý khoa học - kỹ thuật đòi hỏi quản lý tốt đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật. Trong vài năm trước mắt, cần bố trí lại và sử dụng tốt cán bộ khoa học - kỹ thuật, đưa công tác này đi vào nền nếp, phát huy tốt hơn nữa tác dụng của đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật hiện có; đồng thời, ra sức bồi dưỡng, nâng cao trình độ của cán bộ và công nhân kỹ thuật, đẩy mạnh việc đào tạo mới đội ngũ lao động kỹ thuật.
Mặt khác, trong khi lo nhiệm vụ kinh tế trước mắt, chúng ta đặc biệt quan tâm nghiên cứu phương hướng phát triển khoa học- kỹ thuật lâu dài. Phải gắn việc xây dựng kế hoạch về khoa học - kỹ thuật với việc nghiên cứu phương hướng phát triển kinh tế.
Phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa không tách khỏi nội dung cải tiến công tác quản lý. Đi vào xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải tích cực giáo dục cho mọi người dân tự giác chấp hành mọi nghĩa vụ của mình đối với xã hội, hiểu rõ quyền lợi của mình được luật pháp bảo đảm. Nhà nước xã hội chủ nghĩa rất nghiêm ngặt đòi hỏi mọi người phải chấp hành đầy đủ các chế độ, chính sách, thể lệ mà pháp luật đã quy định. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là làm cho các mặt hoạt động của Nhà nước và của xã hội có kỷ cương phải đi liền với việc phát huy mạnh mẽ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các quyền dân chủ của công dân phải được tôn trọng.
Đặc biệt, pháp chế kinh tế xã hội chủ nghĩa đang trong thời kỳ xây dựng, nhiều chế độ quan trọng chưa được quy định. Trước mắt, phải sớm nghiên cứu và ban hành các quy định pháp chế về nghĩa vụ của công dân trong lao động, sản xuất và đóng góp cho Nhà nước, về công tác quản lý kinh tế như: quy chế về xây dựng và thực hiện kế hoạch nhà nước, điều lệ xí nghiệp công nghiệp, điều lệ chi tiết của hợp tác xã nông nghiệp, điều lệ về hợp đồng kinh tế, điều lệ về quản lý và sử dụng ruộng đất, bảo vệ rừng và bảo vệ các nguồn tài nguyên của đất nước, v.v..
Phải đề cao kỷ luật tôn trọng và thi hành pháp chế, đòi hỏi mọi cơ quan, mọi cán bộ làm đúng chức trách của mình. Phải đề cao kỷ luật lao động, tích cực bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, nghiêm khắc xử lý các hành động phạm pháp cũng như những vụ xâm phạm quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân.
Gắn liền với các vấn đề trên, Nhà nước rất coi trọng chấn chỉnh và tăng cường tổ chức quản lý kinh tế từ trên xuống dưới, khắc phục tệ hành chính quan liêu không bảo đảm yêu cầu xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, có hạch toán kinh tế. Để làm tốt việc này, cần quy định rõ chức năng, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan và tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, kiên quyết xóa bỏ tình trạng trách nhiệm không rõ ràng, có việc quan trọng mà thiếu người phụ trách hoặc dẫm đạp, chồng chéo lên nhau, gây chậm trễ.
Tổ chức quản lý nền kinh tế quốc dân của ta phải kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành và quản lý theo cấp, dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương. Phải giữ vững quyền lãnh đạo tập trung và thống nhất của Hội đồng Chính phủ, phát huy đúng đắn vai trò của các cơ quan tổng hợp, vừa từng bước chấn chỉnh tổ chức ngành theo nguyên tắc tập trung, chuyên môn hóa và hiệp tác, thống nhất theo ngành, phù hợp với trình độ phát triển của từng ngành và năng lực quản lý của cán bộ, đi sâu vào quản lý kinh tế, kỹ thuật. Cần cải tiến và kiện toàn tổ chức cấp, tiếp tục thực hiện phân cấp quản lý kinh tế hợp lý giữa Trung ương và địa phương, sửa đổi những chỗ chưa thích hợp nhằm bảo đảm quyền tập trung thống nhất của Trung ương, chức năng quản lý toàn ngành của Bộ, Tổng cục. Cần xác định rõ chức năng quản lý toàn ngành trong phạm vi cả nước của các Bộ, Tổng cục, nâng cao trách nhiệm và quyền hạn quản lý toàn ngành của Bộ trưởng, Tổng cục trưởng trong lĩnh vực lập các quy hoạch phát triển ngành; trong việc tổng hợp kế hoạch toàn ngành theo mức độ khác nhau và chỉ đạo thực hiện kế hoạch của ngành, bao gồm cả kinh tế Trung ương, kinh tế địa phương, quốc doanh và hợp tác xã; trong công tác khoa học - kỹ thuật và trong việc đề ra các chính sách, tiêu chuẩn, định mức thuộc ngành đó, v.v.. Đồng thời, phải bảo đảm vị trí cấp tỉnh là một cấp kế hoạch toàn diện, nâng cao trách nhiệm và quyền của chính quyền địa phương đối với việc quản lý và phát triển kinh tế do địa phương phụ trách và đối với các cơ sở kinh tế của Trung ương đặt tại địa phương. Cấp tỉnh cần được chấn chỉnh và tăng cường đủ sức hoàn thành tốt mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước, và chịu trách nhiệm đầy đủ nhất quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội trong địa phương theo đúng đường lối, chế độ và pháp luật nhà nước.
Thực tiễn đã chỉ rõ vị trí rất quan trọng của cấp huyện. Huyện là cấp trực tiếp chỉ đạo nông nghiệp và thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp trong huyện, là cấp trực tiếp chỉ đạo các tổ chức kinh tế của Nhà nước ở huyện, phân phối một cách hợp lý nhất các phương tiện vật tư kỹ thuật, hàng hóa của Nhà nước để chỉ đạo và phục vụ đắc lực sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp, phục vụ đời sống nhân dân trong huyện. Nhận thức rõ vị trí của huyện trong nền sản xuất lớn, chúng ta cần xác định cơ cấu tổ chức cấp huyện và phải ra sức kiện toàn cấp huyện.
Trong việc tăng cường hệ thống bộ máy quản lý kinh tế, cải tiến và kiện toàn tổ chức quản lý các đơn vị cơ sở là khâu cực kỳ quan trọng. Các ngành, các cấp phải hướng mọi hoạt động của mình vào việc chỉ đạo, kiểm tra, giúp đỡ và phục vụ các đơn vị cơ sở, nhằm tăng cường quyền chủ động sản xuất và kinh doanh của cơ sở dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp trên, của Nhà nước. Cơ sở phải được coi là tiền tuyến trên mặt trận sản xuất, và mọi ngành, mọi cấp, mọi người đều phải hết lòng phục vụ cho cơ sở tiến hành sản xuất - kinh doanh có hiệu quả cao.
Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp là đơn vị cơ sở quyết định thắng lợi của kế hoạch sản xuất nông nghiệp. Hợp tác xã được quản lý tốt phải là hợp tác xã có ngành trồng trọt thâm canh, ngành chăn nuôi phát triển, các nghề thủ công được mở rộng, năng suất lao động cao, có nhiều nông sản hàng hóa, từ đó tăng thu nhập cho hợp tác xã và cho xã viên, tăng tích lũy cho hợp tác xã và đóng góp ngày càng nhiều cho Nhà nước. Phải không ngừng mở rộng sản xuất tập thể, đồng thời khuyến khích thích đáng kinh doanh phụ của nông dân xã viên theo đúng hướng của Nhà nước, bảo đảm phần thu nhập của xã viên do kinh tế tập thể đem lại là chủ yếu và không ngừng tăng lên; phần làm nghĩa vụ đối với Nhà nước và tích lũy cho hợp tác xã cũng phải tăng lên hợp lý. Muốn vậy, phải thông qua việc đưa điều lệ mới vào hợp tác xã, tổng kết kinh nghiệm của các hợp tác xã tiên tiến, xây dựng chế độ làm chủ của nông dân xã viên, mà chấn chỉnh công tác quản lý các mặt.
Trước mắt, cần nhanh chóng chấm dứt tệ lấn chiếm ruộng đất của hợp tác xã, tăng cường quản lý ruộng đất của hợp tác xã, coi đây là một biện pháp rất quan trọng để củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cần tổng kết công tác quản lý hợp tác xã, nêu lên và phổ biến những kinh nghiệm tốt về "ba quản", "ba khoán" của hợp tác xã tiên tiến, từng bước nâng cao trình độ quản lý của hợp tác xã. Phải quản lý chặt chẽ và phát huy tốt hơn nữa khả năng lao động của xã viên, coi đây là một nhiệm vụ rất cấp bách, vì hiện nay, năng suất lao động trong nông nghiệp còn quá thấp, mà việc sử dụng sức lao động, ngày công, giờ công của nhiều hợp tác xã còn lãng phí. Trên cơ sở xây dựng và thực hiện tốt các định mức lao động và tiêu chuẩn tính công hợp lý, phải tổ chức, động viên mọi nguồn lao động vào sản xuất, xây dựng, phát huy truyền thống lao động cần cù của nhân dân ta, vừa lợi nhà, vừa ích nước.
Trong công tác phân phối, phải khắc phục những lệch lạc như không công bằng, tham ô, lãng phí, báo cáo sai sự thật… Phải thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đi đôi với phát huy tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong nội bộ hợp tác xã, quan tâm đúng mức đến thương binh, bệnh binh và các gia đình liệt sĩ, gia đình có người đi chiến đấu và phục vụ chiến đấu, các gia đình neo đơn, già cả, đông con. Phải giữ vững nguyên tắc thống nhất quản lý phân phối vào hợp tác xã, trên cơ sở thực hiện đúng đắn công tác ba khoán, có thưởng phạt phân minh cho các đội sản xuất, nhằm khuyến khích xã viên thi đua lao động sản xuất.
Trong các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, năm 1971, công tác quản lý đã có một số tiến bộ, song nhìn chung, vẫn còn mang nặng tính chất hành chính cung cấp, chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc, chưa tận dụng tốt năng lực sản xuất hiện có; năng suất lao động còn thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành sản phẩm còn cao, lãng phí còn nhiều, và hiệu quả kinh tế nói chung vẫn còn rất hạn chế. Do đó, năm 1972, các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh cần nhanh chóng chuyển sang cải tiến công tác quản lý một cách mạnh mẽ hơn. Các xí nghiệp có nhiệm vụ nắm lại năng lực sản xuất, ổn định nhiệm vụ sản xuất, trên cơ sở đó, cân đối lại dây chuyền sản xuất, cân đối lại các điều kiện sản xuất thuộc phạm vi nội bộ xí nghiệp và giải quyết cụ thể các mối quan hệ cung cấp và tiêu thụ bằng những hợp đồng kinh tế của năm kế hoạch và dài hạn. Cần chấn chỉnh hệ thống chỉ huy sản xuất có hiệu lực. Trong quản lý sản xuất, phải thực hiện chế độ quản lý có định mức kinh tế - kỹ thuật, trước hết là các định mức lao động và tiêu hao vật tư, trên cơ sở đó, mở rộng việc trả lương theo sản phẩm, nhưng cần khắc phục những khuyết điểm phổ biến ở một số nơi như: chuẩn bị sản xuất chưa tốt; định mức thiếu cơ sở vững chắc, kiểm tra nghiệm thu chưa chu đáo, có nơi tốc độ tăng tiền lương đã vượt quá tốc độ tăng năng suất lao động…
Ngoài các cơ sở sản xuất quốc doanh, phải chú ý đúng mức công tác quản lý của các cơ sở mậu dịch quốc doanh, ngân hàng, các hợp tác xã thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, v.v., đưa công tác quản lý của các tổ chức này đi vào nền nếp tốt.
Cuối cùng, cải tiến công tác quản lý kinh tế của Nhà nước phải dựa trên cơ sở phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng, trên cơ sở bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân, tạo ra sự nhất trí giữa lợi ích của mỗi người lao động với lợi ích của Nhà nước và lợi ích của tập thể. Chúng ta cần ra sức phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong việc quyết định phương hướng sản xuất, kế hoạch sản xuất, trong việc quản lý sản xuất -kinh doanh, trong việc phân phối thu nhập, nâng cao trách nhiệm của quần chúng lao động đối với hiệu quả sản xuất - kinh doanh của đơn vị mình.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Sự nghiệp khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa ở miền Bắc đã thu được những thành tích to lớn. Kết quả của việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1971 đã tạo cho nền kinh tế những chuyển biến tốt và thế đi lên mạnh mẽ.
Trước mắt, chúng ta đang đứng trước những yêu cầu rất cấp bách, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 và 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã soi sáng phương hướng tiến lên của chúng ta. Khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế rất to lớn. Phong trào quần chúng lao động sản xuất và tiết kiệm đang phát triển. Trong nền kinh tế, nhiều nhân tố tích cực, nhiều thuận lợi mới đang xuất hiện. Kế hoạch nhà nước năm 1972 được Quốc hội thông qua nhất định sẽ là nguồn động viên, cổ vũ nhân dân ta tiến lên thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng trong thời gian tới.