THUYẾT TRÌNH CỦA UỶ BAN KẾ HOẠCH VÀ NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI VỀ
DỰ ÁN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC VÀ DỰ ÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1972
((Do ông Đoàn Trọng Truyến, Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội
trình bày tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá IV, ngày 23-3-1972)
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội đã nghiên cứu dự án kế hoạch nhà nước và dự án ngân sách nhà nước năm 1972 do Chính phủ trình ra Quốc hội. Uỷ ban chúng tôi cũng đã nghe báo cáo của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính về các vấn đề trên và tiến hành thảo luận trong Uỷ ban. Uỷ ban chúng tôi xin trình bày với Quốc hội những ý kiến của mình như sau:
I- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1971
Uỷ ban chúng tôi nhất trí với nhận định của Chính phủ là "tình hình kinh tế năm 1971 có chiều hướng tốt, có những nhân tố mới và nhiều mặt hoạt động kinh tế đi dần vào thế ổn định. Nhìn chung việc thực hiện kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước năm 1971 có những tiến bộ rõ rệt so với năm 1970.
Về thực hiện kế hoạch nhà nước
1. Về nông nghiệp: sản xuất lúa vụ đông - xuân đạt cao hơn các năm bình thường khoảng 50 vạn tấn. Việc mở rộng cấy lúa xuân với các giống mới có năng suất cao trên hơn một nửa diện tích lúa vụ đông - xuân là một chuyển biến bước đầu, nhưng có ý nghĩa lớn góp phần chủ yếu tăng sản lượng lương thực, mở ra nhiều triển vọng mới và tạo ra những khả năng tiềm tàng để thực hiện từng bước sự biến đổi có tính chất cách mạng về cơ cấu trồng trọt theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Vụ mùa bị lũ lụt lớn nên sản lượng hụt nhiều, do đó sản xuất lương thực cả năm đạt thấp. Nhưng nhờ kết quả vụ đông - xuân nhất là nhờ các chính sách và biện pháp tích cực, khẩn trương của Đảng và Nhà nước nhằm hạn chế thiệt hại và mau chóng khắc phục hậu quả của lũ lụt, nên đời sống của nhân dân vùng lụt được mau chóng ổn định, nông dân vẫn tin tưởng và tích cực khắc phục mọi khó khăn để đẩy mạnh sản xuất.
Lũ lụt năm 1971 là lũ lụt lớn nhất chưa từng có trong gần một thế kỷ nay, nó không những chỉ gây thiệt hại cho nông nghiệp, mà còn gây thiệt hại cho nhiều ngành hoạt động khác và cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hậu quả của nó còn nhiều mặt phải tiếp tục giải quyết trong một thời gian nữa. Nhưng cuộc chiến đấu anh dũng để chiến thắng lũ lụt càng làm sáng tỏ tính ưu việt và sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, sức sáng tạo và lòng dũng cảm vô hạn của quần chúng; mặt khác cũng cho ta rút ra được những bài học và những kinh nghiệm quý báu về việc hiểu đúng các điều kiện và quy luật thiên nhiên của đất nước, và lợi dụng nó vào việc chế ngự thiên tai.
2. Về công nghiệp và thủ công nghiệp: giá trị tổng sản lượng đạt kế hoạch và tăng 14,7% so với năm 1970, trong đó công nghiệp Trung ương tăng 19,2%, công nghiệp địa phương tăng 11,2%. Các sản phẩm quan trọng như điện, than, xi măng, phân lân, vải, giấy đều vượt kế hoạch nhiều. Công nghiệp quốc doanh địa phương và thủ công nghiệp đáp ứng tốt hơn các yêu cầu về đời sống.
Kết quả bước đầu của việc ổn định tình hình sản xuất và cải tiến quản lý xí nghiệp, việc đăng ký kế hoạch cao và quyết tâm phấn đấu đạt kế hoạch lợi nhuận cao đã thành phong trào khá phổ biến trong các xí nghiệp, là những biểu hiện của khí thế mới, cách làm ăn mới trong công nghiệp, mở ra những triển vọng tốt đẹp trong những năm tới.
3. Về xây dựng cơ bản: một số công trình đạt kế hoạch tốt, nhất là công trình thủy điện Thác Bà đã đưa tuốc bin thứ nhất vào sản xuất đúng thời hạn, ba mỏ than lộ thiên ở Quảng Ninh đã bốc được khối lượng đất đá tăng gấp rưỡi năm 1970. Các công trình khác tuy không đạt kế hoạch nhưng so với năm 1970 đều có tiến bộ. Khả năng tiềm tàng trong xây dựng cơ bản còn nhiều, hứa hẹn có thể tăng nhanh tốc độ xây dựng cơ bản trong những năm tới.
4. Về giao thông vận tải: đã có nhiều cố gắng hoàn thành kế hoạch vận chuyển phục vụ tiền tuyến, vận chuyển hàng nhập khẩu tăng gấp rưỡi năm 1970, vận chuyển phục vụ hàn khẩu đê, khắc phục hậu quả của lũ lụt và vận chuyển vật liệu xây dựng cho một số công trình trọng điểm tương đối tốt.
5. Về đời sống: mặc dù bị lũ lụt, nhưng mức bán lẻ và cung cấp hàng hóa vẫn tăng và bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Giá thị trường tự do giảm 15% so với năm 1970. Do mở rộng diện bán bình thường một số loại hàng tiêu dùng, thi hành chính sách bán hai giá và điều chỉnh giá một số hàng, nên đã nắm được sức mua và nhu cầu hàng hóa của nhân dân, đấu tranh với thị trường tự do và góp phần ngăn chặn tệ đầu cơ tích trữ, phục vụ khá hơn một số yêu cầu về đời sống của nhân dân (như đậu phụ, vải, xà phòng, giấy viết, đồ dùng gia đình, chất đốt), làm cho tình hình thị trường đi dần vào thế ổn định hơn trước.
6. Sự nghiệp giáo dục phổ thông, y tế, văn hóa đều phát
triển tốt.
7. Về ngân sách nhà nước: cân đối được thu chi:
- Tổng số thu đạt 98,5% dự toán, tăng 1,9% so với năm 1970, trong đó thu trong nước đạt 98,7%, dự toán, tăng 8,3% so với năm 1970, thu từ kinh tế quốc doanh đạt 97,2% dự toán, tăng 12,6% so với năm 1970. Đặc biệt do năng suất lao động tăng và giá thành có tiến bộ nên tích lũy đạt 106,2% dự toán, tăng 13,1% so với năm 1970.
- Tổng số chi đạt 97,9% dự toán, tăng 2,9% so với năm 1970.
Trong hoàn cảnh lũ lụt lớn chưa từng có mà chúng ta đạt được những thành tích như trên là rất lớn và rất đáng tự hào. Những thành tích đó thể hiện rõ sức sáng tạo và lòng dũng cảm vô hạn của nhân dân ta, tính ưu việt của chế độ tốt đẹp của chúng ta, sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng càng làm cho chúng ta thêm tin tưởng và quyết tâm vươn lên đạt nhiều thành tích lớn hơn nữa.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế năm qua phát triển vẫn chưa vững chắc, nhiều mục tiêu quan trọng về sản xuất và xây dựng đạt kế hoạch thấp, tình hình mất cân đối vẫn còn nghiêm trọng, thiết bị, vật tư, sức lao động lãng phí còn nhiều. Điều đó thể hiện rõ ở các điểm sau:
1. Về nông nghiệp: sản lượng lương thực cả năm hụt kế hoạch, chỉ bảo đảm 84% mức tiêu dùng lương thực xã hội, nên cân đối lương thực xã hội và cân đối lương thực nhà nước càng thêm khẩn trương.
2. Về công nghiệp: tính chung trong sản xuất xã hội thì giá trị tư liệu sản xuất trong nước làm ra chưa đủ để bù lại số tư liệu sản xuất đã dùng trong năm. Tư liệu tiêu dùng sản xuất trong nước cũng chưa bảo đảm yêu cầu.
3. Về xây dựng cơ bản: các mục tiêu quan trọng về xây dựng nông nghiệp, công nghiệp, giao thông cần thực hiện thì phần nhiều đạt kế hoạch thấp. Tình hình thiếu vật liệu xây dựng (nhất là gỗ, gạch) thiếu lực lượng thi công, thiếu công nhân kỹ thuật xây dựng đã không bảo đảm được yêu cầu tăng nhanh xây dựng cơ bản, nhiều công trình dở dang chuyển qua năm 1972.
4. Về giao thông vận tải: việc vận chuyển trực tiếp phục vụ cho các xí nghiệp, hợp tác xã, công trường thực hiện không tốt, ảnh hưởng lớn đến việc cung cấp vật tư, phát huy năng lực sản xuất của cơ sở.
5. Về lưu thông hàng hóa: công tác thu mua lương thực, thực phẩm và các nông sản khác đều không đạt kế hoạch đã ảnh hưởng đến nhiều mặt cân đối của nền kinh tế quốc dân. Doanh số bán ra tuy có tăng hơn năm 1970 nhưng cũng không đạt kế hoạch, trong khi đó lượng tồn kho tăng thêm và có một số mặt hàng ứ đọng vì kém phẩm chất, không hợp nhu cầu.
6. Do những thiếu sót trên nên đã hạn chế tốc độ tăng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, tốc độ tăng thu của ngân sách, làm cho tốc độ tăng thu còn chậm so với yêu cầu phát triển kinh tế và văn hóa.
Tóm lại, tình hình kinh tế hiện nay là tình hình không bình thường, có những chỗ yếu nghiêm trọng. Chúng ta phải cố gắng vượt bậc để nhanh chóng ra khỏi tình hình không bình thường, có tính chất nghiêm trọng đó.
Tình hình như trên có nhiều nguyên nhân. Ngoài nguyên nhân khách quan do lũ lụt lớn, do hậu quả chiến tranh, do nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu và mất cân đối gây ra, thì nguyên nhân chủ quan của chúng ta là chủ yếu. Chúng ta đã có những thiếu sót về nhiều mặt như tổ chức chỉ đạo, chính sách chế độ, pháp chế, v.v. và thể hiện tập trung nhất là quản lý theo lối hành chính cung cấp, buông lỏng quản lý và chưa phát động được sâu rộng phong trào quần chúng tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý kinh tế. Chính vì chúng ta quản lý kém, nên đã không tận dụng và phát huy được những khả năng tiềm tàng to lớn trong các ngành, các đơn vị, trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, không tận dụng và phát huy được tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp và sức sáng tạo, khả năng vô tận của quần chúng.
II- VỀ DỰ ÁN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
VÀ DỰ ÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1972
Năm 1972 có vị trí cực kỳ quan trọng trong việc chuyển biến nền kinh tế quốc dân. Năm 1972 là năm bản lề của thời kỳ ba năm 1971 - 1973 khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc sau chiến tranh. Năm 1972 cũng là năm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta rất gay go, quyết liệt. Miền Bắc có nghĩa vụ thiêng liêng là phải chi viện cao nhất cho tiền tuyến để góp phần cùng đồng bào miền Nam đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai của chúng.
Cho nên trong năm 1972 chúng ta phải phát động một phong trào cách mạng sâu rộng trong quần chúng để động viên quần chúng ra sức lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm và sẵn sàng chiến đấu, gắn liền việc khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc với nhiệm vụ hàng đầu của nhân dân ta hiện nay là đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Chúng ta phải hết sức sử dụng tốt và phát huy các khả năng tiềm tàng, các nhân tố thuận lợi để tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, tăng nhanh tích lũy để tái sản xuất mở rộng và cải thiện đời sống nhân dân, đưa nền kinh tế quốc dân tiến dần lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Uỷ ban chúng tôi nhất trí với phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước mà Chính phủ đã đề ra cho năm 1972. Uỷ ban chúng tôi xin đề nghị lưu ý một số vấn đề sau :
1. Chúng tôi nhất trí với chủ trương xem việc phấn đấu năm 1972 đạt mức thu nhập quốc dân sản xuất trong nước đủ cho tiêu dùng xã hội và năm 1973 bắt đầu có tích lũy nội bộ nền kinh tế quốc dân là mục tiêu cách mạng cấp bách nhất của toàn dân trên mặt trận kinh tế. Điều đó gắn liền với nhiệm vụ bảo đảm đầy đủ và kịp thời các yêu cầu của tiền tuyến, với nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cũng như với nhiệm vụ cải thiện từng bước đời sống của nhân dân. Nhiệm vụ chống Mỹ, nhiệm vụ hàng đầu của toàn dân, cũng như nhiệm vụ tích lũy của bước đi ban đầu để chuyển từ nền kinh tế sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi người phải lao động gian khổ và có năng suất, và phải thực hành tiết kiệm triệt để về mọi mặt.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, mục đích của sản xuất là để từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Cho nên, trong từng thời kỳ kế hoạch mục tiêu về đời sống cần được nêu lên một cách rõ ràng, cụ thể. Cần làm cho nhân dân thấy rõ phấn đấu sử dụng hết sức lao động xã hội, mỗi người sử dụng hết thời gian lao động và lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước. Đó không những là nguồn gốc làm cho nền kinh tế quốc dân phát triển, góp phần ngày càng nhiều cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, mà còn là nguồn gốc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mình đến một mức độ nhất định theo dự kiến kế hoạch đã đề ra, theo đà phát triển của sản xuất. Không thể có nguồn nào khác ngoài kết quả lao động của mình. Như vậy, cũng là sẽ biến các nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch thành hành động cách mạng hàng ngày của quần chúng, làm cho quần chúng càng phấn khởi, hăng say lao động sản xuất đó không những đem lại lợi ích chung cho nền kinh tế quốc dân, mà còn đem lại lợi ích cụ thể cho cá nhân mình, gắn liền lợi ích của người lao động với lợi ích của Nhà nước, của tập thể trong từng thời kỳ kế hoạch.
Như vậy, kế hoạch nhà nước đặt cho các ngành, các cấp, các đơn vị và mọi người lao động hướng hoạt động sản xuất - kinh doanh và công tác của mình vào mục tiêu đó, phấn đấu tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, gắn liền với nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến, tăng nhanh tích lũy để tái sản xuất mở rộng, và cải thiện đời sống nhân dân. Đó là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy phong trào quần chúng phấn đấu thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1972.
2. Dự án kế hoạch nhà nước năm 1972 được xây dựng với tinh thần tích cực để đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện đặc điểm của nền kinh tế đi thẳng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, và tốc độ tăng dân số rất cao. Cho nên các chỉ tiêu về tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân đều tăng lên nhiều:
+ Tổng sản phẩm xã hội tăng 21,2% so với năm 1971.
+ Thu nhập quốc dân tăng 25,9% so với năm 1971.
Đây là những chỉ tiêu đòi hỏi phải phấn đấu rất lớn, nhưng có khả năng hiện thực để đạt được. Đồng thời, đây cũng là những đòi hỏi cấp bách để chuyển biến nền kinh tế không bình thường, có tính chất nghiêm trọng hiện nay. Đạt và vượt các chỉ tiêu này mới bảo đảm cho thu nhập quốc dân sản xuất trong nước đủ cho tiêu dùng xã hội và sang năm 1973 bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
Hướng tích cực của chúng ta là phải ra sức tận dụng năng lực sản xuất hiện có cũng như sẽ được tăng thêm, ra sức tìm mọi biện pháp khai thác triệt để khả năng tiềm tàng về các mặt lao động, thiết bị, máy móc, vật tư, kỹ thuật, tiền vốn trong tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở để tăng năng suất lao động xã hội, cũng như tăng năng suất lao động trong từng ngành, từng đơn vị. Đồng thời, phải triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, phấn đấu giảm định mức tiêu hao vật tư trong đơn vị sản phẩm và giảm tỷ lệ tiêu hao vật chất trong toàn bộ sản phẩm xã hội để tăng thu nhập quốc dân.
Chất lượng của kế hoạch nhà nước và tính hiện thực của nó phải được bảo đảm bằng tính cân đối của kế hoạch, xem như hạt nhân của kế hoạch hóa. Vấn đề không những chỉ ở chỗ kế hoạch đề ra được chỉ tiêu tốc độ cao, mà còn phải là ở chỗ kế hoạch định ra được những tỷ lệ cân đối hợp lý và vững chắc, mà quan trọng nhất là cân đối giữa một bên là công nghiệp nặng, một bên là nông nghiệp và công nghiệp nhẹ trong bước đi ban đầu của nền kinh tế ta tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng, cân đối thu chi tiền tệ của dân cư, cân đối sức lao động xã hội, cân đối các tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng chủ yếu, v.v. và các cân đối cụ thể về từng mặt một cách tích cực để tạo cơ sở vững chắc cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chúng tôi đề nghị phải lưu ý hơn nữa đến vấn đề này trong dự án kế hoạch nhà nước năm 1972, không những phương hướng nhiệm vụ kế hoạch và biện pháp chung, từng ngành, từng mặt được rõ ràng mà còn phải làm sáng tỏ những căn cứ vững chắc bảo đảm cân đối kế hoạch đến mức nhất định. Đây cũng là những vấn đề mà trong quá trình chỉ đạo thực hiện kế hoạch cần đặc biệt chú ý giải quyết để nâng cao tính hiện thực, tính pháp lệnh và hiệu lực của kế hoạch nhà nước.
Trong hoàn cảnh chúng ta vừa phải ra sức xây dựng miền Bắc vững mạnh để làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, vừa phải từng bước nâng cao đời sống của nhân dân theo đà phát triển của sản xuất, nên quan hệ tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng càng có vị trí cực kỳ quan trọng, cần được cân nhắc đầy đủ đến các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để xác định cho đúng đắn. Trên cơ sở quan hệ tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng mà thể hiện cụ thể mức động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước, mức tích lũy của các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh doanh và mức sống của nhân dân trong các chỉ tiêu về thu nhập bình quân đầu người, tiền lương bình quân, phúc lợi xã hội và các sự nghiệp phục vụ công cộng khác, v.v..
Trong hoàn cảnh của ta, chúng tôi cho rằng vấn đề phân bố sức lao động xã hội theo hướng phân công lao động xã hội mới, tận dụng mọi nguồn sức lao động xã hội và cân đối nó là vấn đề cực kỳ quan trọng, nhưng cũng rất phức tạp, khó khăn, và đó cũng là một mặt yếu của kế hoạch nhà nước, vì với trên 10 triệu người lao động mà Nhà nước chỉ có thể kế hoạch hóa trực tiếp khoảng trên 1,5 triệu trong khu vực Nhà nước, còn tuyệt đại bộ phận là kế hoạch hóa gián tiếp của Nhà nước qua khu vực tập thể, và một bộ phận không nhỏ không có kế hoạch hóa. Cho nên, để động viên được sức lao động rất dồi dào của xã hội, Nhà nước phải có những chính sách, chủ trương, biện pháp thích hợp để phát huy tính chủ động, sáng tạo của các ngành, các địa phương, các xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã, và lôi cuốn mọi người lao động vào hoạt động sản xuất không những trong khuôn khổ kế hoạch nhà nước, mà còn ngoài dự kiến của kế hoạch nhà nước, miễn rằng tuân theo đúng pháp luật và chính sách của Nhà nước.
3. Về chỉ tiêu cụ thể đối với các ngành, Uỷ ban chúng tôi đề nghị lưu ý đối với một vài ngành sau:
a) Về nông nghiệp: giá trị tổng sản lượng dự kiến tăng 26,3% so với năm 1971. Tốc độ này mới xem thì thấy là cao, song vì đó là so với năm 1971 là năm lũ lụt lớn, nông nghiệp đạt kế hoạch thấp. Nhưng đối chiếu với yêu cầu Nghị quyết lần thứ 19 của Trung ương Đảng về phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, đưa nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bảo đảm giải quyết lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp, nông sản cho xuất khẩu, v.v., thì còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa mới đáp ứng được yêu cầu.
Điều rất quan trọng, có tính chất quyết định ở đây là các biện pháp cụ thể, các chính sách thích hợp để từng bước thực hiện phương hướng, mục tiêu đề ra. Kinh nghiệm hơn một năm thực hiện Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ: phương hướng, mục tiêu về nông nghiệp đề ra là đúng đắn, nhưng nếu không có các biện pháp cụ thể, các chính sách thích hợp, nếu không có một sự tiến bộ vượt bậc về năng lực tổ chức và quản lý thì phương hướng đúng đắn đó không thể biến thành hiện thực. Thực tiễn của những năm gần đây cho thấy những yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về biến đổi cách mạng trong cơ cấu nông nghiệp nói chung, cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi nói riêng, về việc đưa chăn nuôi lên thành một ngành sản xuất chính, về xây dựng vùng kinh tế mới, v.v., là đúng đắn, là hiện thực, và đang có những triển vọng tốt. Vì vậy, các chỉ tiêu về cơ cấu cây trồng, cơ cấu chăn nuôi, các chỉ tiêu về sản lượng lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, về xây dựng vùng kinh tế mới, v.v., trong dự án kế hoạch nhà nước năm 1972 đều có khả năng thực hiện được nếu tập trung đúng mức vào các biện pháp kinh tế - kỹ thuật, các chính sách thích hợp và nâng cao năng lực tổ chức và quản lý.
Để thực hiện phương hướng mục tiêu phát triển nông nghiệp, để tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển mạnh trong những năm tới, những biện pháp đề ra trong kế hoạch nhà nước là thích đáng. Chúng tôi xin phát biểu bổ sung một vài vấn đề:
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác phòng lụt và chống lụt ngay từ đầu năm, có kế hoạch tiến hành cụ thể và tổ chức chặt chẽ. Trận lũ lụt lớn năm 1971 đã một mặt làm sáng tỏ tính ưu việt và sức mạnh to lớn của chế độ ta, của nhân dân ta, mặt khác, nó cho chúng ta thấy rõ những mặt yếu khá cơ bản, những thiếu sót kéo dài trong công tác này. Chúng ta cần từ đó rút ra những bài học quý báu để chỉnh đốn lại và tăng cường hơn nữa công tác phòng chống lũ lụt ngay từ đầu năm một cách khẩn trương, có kế hoạch tiến hành cụ thể, tổ chức chặt chẽ và kiểm tra đến nơi đến chốn.
- Công tác thủy lợi vẫn phải được coi là một nhiệm vụ quan trọng, một biện pháp hàng đầu. Cần tiến hành tập trung, dứt điểm việc hoàn chỉnh hệ thống thủy nông, xây dựng đồng ruộng, cải tiến quản lý hệ thống nông giang để từng bước tiến dần lên chủ động tưới tiêu một cách khoa học. Phải kết hợp tốt hơn nữa công tác thủy lợi với việc quy vùng sản xuất và xác định cơ cấu trồng trọt, đi đôi với việc tuyển lựa các loại giống tốt, có năng suất cao, thích hợp với từng vùng, từng vụ để đem lại hiệu quả kinh tế cao.
- Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đưa khoa học - kỹ thuật vào nông nghiệp nhằm tăng năng suất cây trồng, tăng sản lượng chăn nuôi, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, đồng thời để đưa dần công tác quản lý hợp tác xã đi vào nền nếp, kinh doanh sản xuất ngày càng tiến bộ, thực hiện đúng đắn và đầy đủ chế độ quản lý tài chính và phân phối trong hợp tác xã, tăng lòng tin của xã viên, Nhà nước cần lựa chọn cán bộ kỹ thuật và cán bộ kế toán huấn luyện thêm rồi đưa về làm việc ở hợp tác xã và chịu trách nhiệm cụ thể ở từng hợp tác xã. Các cán bộ kỹ thuật và cán bộ kế toán này vẫn nằm trong biên chế của Nhà nước và do Nhà nước đài thọ. Đây là một biện pháp thiết thực, có ý nghĩa quan trọng để củng cố hơn nữa hợp tác xã, đưa hợp tác xã tiến dần lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng góp phần tích cực vào việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, thúc đẩy hơn nữa sản xuất nông nghiệp phát triển phù hợp với phương hướng, mục tiêu mà Nghị quyết lần thứ 19 của Trung ương Đảng đã đề ra.
- Xây dựng vùng kinh tế mới là vấn đề rất lớn có ý nghĩa chiến lược nhằm từng bước mở rộng diện tích canh tác, biến đổi cơ cấu nông nghiệp, phân bố hợp lý sức sản xuất trong toàn quốc, tạo điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa và cải thiện đời sống của các dân tộc miền núi, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi. Cho nên, xây dựng vùng kinh tế mới có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều mặt hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và cần có sự tổ chức, phối hợp rất chặt chẽ mới thực hiện tốt được. Kinh nghiệm bước đầu của khu kinh tế thanh niên cho ta thấy rõ khả năng và sức mạnh của nhân dân lao động nhất là của thanh niên ta không những trong sự nghiệp đánh giặc chống ngoại xâm mà cả trong sản xuất, xây dựng và quản lý kinh tế. Nhưng nó cũng làm nổi bật yêu cầu cấp thiết của các cơ quan nhà nước về một loạt vấn đề: quy hoạch toàn diện, trên cơ sở đó mà xác định cụ thể phương hướng sản xuất và cơ cấu trồng trọt, chăn nuôi phù hợp với từng vùng để bảo đảm hiệu quả kinh tế; tổ chức và quản lý thích hợp với vùng kinh tế mới, không những về mặt sản xuất mà cả về mặt đời sống vật chất và văn hóa; trách nhiệm và hoạt động nhịp nhàng, khẩn trương của các cơ quan nhà nước để viện trợ một cách tích cực nhất cho những cơ sở mới tổ chức ở những vùng kinh tế mới.
b) Về công nghiệp và thủ công nghiệp: giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp dự kiến tăng 17,4% so với năm 1971, trong đó công nghiệp Trung ương dự kiến tăng 22%, công nghiệp địa phương dự kiến tăng 13%, thủ công nghiệp dự kiến tăng 11% so với năm 1971. Khai thác triệt để các khả năng tiềm tàng hiện có trong ngành công nghiệp, sử dụng tốt năng lực sản xuất được tăng thêm, giải quyết tốt việc cung cấp vật tư kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra, phát huy kết quả bước đầu của công tác cải tiến quản lý xí nghiệp, thì ngành công nghiệp có nhiều khả năng hiện thực để vượt các chỉ tiêu đã dự kiến. Đặc biệt đối với thủ công nghiệp khả năng tiềm tàng còn rất lớn, nếu chúng ta có nhận thức đúng đắn, phương hướng rõ ràng, chế độ chính sách thích hợp và quản lý tốt, thì thủ công nghiệp còn phát triển nhanh và mạnh hơn nữa để góp phần tích cực vào việc giải quyết các nhu cầu tiêu dùng trong nước và tăng mặt hàng xuất khẩu.
c) Về xây dựng cơ bản: tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản dự kiến tăng 60% so với năm 1971, riêng vốn xây lắp dự kiến tăng 50% so với năm 1971. Đây là những tốc độ tương đối cao so với khả năng cân đối và năng lực tổ chức hiện nay của ta, cần cố gắng vượt bậc mới thực hiện được. Đồng thời, đây cũng có thể xem là yêu cầu tối thiểu của việc tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế thích hợp với yêu cầu khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, đưa dần nền kinh tế lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Trong xây dựng cơ bản, vấn đề quan trọng nhất sau khi đã có kế hoạch và phương án đầu tư, làm sao huy động công trình vào sản xuất đúng thời hạn, và bảo đảm hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư mà chỉ số tổng hợp là thời gian thu hồi vốn đầu tư.
Cũng do số vốn đầu tư lớn và do tình hình lãng phí trong xây dựng cơ bản còn nhiều, nên việc tiết kiệm, chống lãng phí thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu và sức lao động trong xây dựng cơ bản càng cần được quan tâm đúng mức hơn và có biện pháp tích cực bảo đảm tốc độ thi công, chất lượng công trình và dự toán đã duyệt. Nếu trong năm 1972, ngành xây dựng phấn đấu hạ giá thành 5% so với dự toán đã duyệt - mà đó là điều hoàn toàn có khả năng hiện thực - thì Nhà nước cũng đã tiết kiệm được gần 50 triệu đồng.
Ngành xây dựng cơ bản cần cố gắng hết sức mình, tận dụng mọi khả năng tiềm tàng để vươn lên đáp ứng được đòi hỏi đó.
Công tác thiết kế cần phải được xem trọng hơn nữa, vì nhiều lúc nó quyết định một phần lớn công trình và giá thành xây dựng hơn là bản thân việc thi công. Cần lựa chọn qua nhiều phương án để rút ra một phương án có hiệu quả kinh tế nhất. Cần tránh tình trạng chỉ có một phương án thiết kế, thậm chí vừa thiết kế vừa thi công làm chậm tiến độ xây dựng và gây ra nhiều thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân.
- Yêu cầu xây dựng càng lớn càng đòi hỏi phải phát triển mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng. Trong hoàn cảnh vật liệu xây dựng của ta còn thiếu nhiều đã gây trở ngại cho xây dựng cơ bản, làm chậm tiến độ xây dựng, thì một mặt phải đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp vật liệu xây dựng, mặt khác phải triệt để tiết kiệm vật liệu xây dựng, sử dụng vật liệu xây dựng một cách kinh tế nhất, cố gắng tìm tòi các nguyên vật liệu thay thế. Công tác cân đối vật liệu xây dựng càng tích cực và vững chắc bao nhiêu thì càng tạo điều kiện tốt cho việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng và sử dụng vật liệu xây dựng một cách kinh tế bấy nhiêu.
- Cần cố gắng từng bước cơ giới hóa khâu thi công và tổ chức tốt lao động trên các công trường. Khả năng này rất lớn vì số lượng máy móc thi công còn chưa được sử dụng khá nhiều, số được sử dụng thì công suất cũng còn thấp, lực lượng lao động trên các công trường tổ chức chưa chặt chẽ, lãng phí còn nhiều, nên năng suất lao động thấp, tiến độ xây dựng chậm.
- Một khả năng tiềm tàng rất lớn, có tác dụng trực tiếp đến sản xuất, xây dựng và đem lại hiệu quả nhanh là đầu tư theo chiều sâu. Thời gian qua, chúng ta lo nhiều về xây dựng mới là đúng, nhưng chưa chú ý đúng mức đến việc hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật, nên chưa khai thác tốt năng lực tiềm tàng về mặt này. Trong hoàn cảnh từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chỉ cần hợp lý hóa sản xuất một khâu nào đó, hoặc chỉ cần cải tiến một bộ phận nào đó cũng có thể đưa năng suất lên vài chục phần trăm, có khi lên gấp đôi, ba. Những việc đó không đòi hỏi thiết bị, vốn và thời gian nhiều, nhưng đem lại hiệu quả nhanh và cao. Vấn đề là chúng ta có sự quan tâm đúng mức, có hướng cụ thể, phát động phong trào quần chúng và có kèm theo những sự khuyến khích thích đáng về vật chất và tinh thần thì sẽ đẩy mạnh được phong trào hợp lý hóa sản xuất cải tiến kỹ thuật để đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế quốc dân và cho bản thân người lao động.
d) Về giao thông vận tải: tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển dự kiến tăng 20,2% so với năm 1971, tổng khối lượng hàng hóa luân chuyển dự kiến tăng 22% so với năm 1971. Đây cũng là những tốc độ cao do yêu cầu vận chuyển phục vụ tiền tuyến, và phục vụ công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế. Cho nên, cũng như mọi năm, vấn đề giao thông vận tải vẫn là khâu trọng yếu cần tập trung sức giải quyết để bảo đảm mạch máu giao thông điều hòa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp vật tư cho các xí nghiệp, công trường, hợp tác xã, và việc cung cấp hàng hóa được thông suốt, quá trình tái sản xuất tiến hành được bình thường.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, ngành giao thông vận tải cần cố gắng vươn lên hơn nữa và cần chú ý:
- Tổ chức lại màng lưới vận tải thống nhất, kết hợp chặt chẽ và linh hoạt các phương tiện vận tải, tổ chức tốt vận tải liên vận, bố trí lại lực lượng vận tải phục vụ cho các cơ sở sản xuất và xây dựng.
- Tập trung giải quyết tốt khâu bốc dỡ; thống nhất quản lý lực lượng bốc dỡ, tăng thêm và cải tiến thiết bị bốc dỡ, đẩy mạnh cơ giới hóa bốc dỡ.
4. Đối với ngân sách nhà nước
a) Tổng số thu dự kiến tăng 15,5% so với năm 1971, trong đó thu trong nước tăng 18,6%, thu từ khu vực kinh tế quốc doanh tăng 26,2% so với năm 1971. Với các điều trình bày trên và dựa vào khả năng tích lũy của các ngành năm nay có nhiều do:
+ Việc cung cấp than, điện, vật tư sẽ đều đặn hơn,
+ Công tác cải tiến quản lý được xúc tiến mạnh hơn, chế độ phân phối lợi nhuận mới có tác dụng tích cực hơn,
+ Năng lực sản xuất chưa sử dụng hết còn nhiều,
+ Khả năng phấn đấu tăng năng suất lao động và giảm định mức tiêu hao vật tư trong đơn vị sản phẩm, hạ giá thành và phí lưu thông còn nhiều, nên có nhiều khả năng hiện thực để đạt và vượt mức dự kiến.
Vì vậy, Uỷ ban chúng tôi đồng ý với dự án ngân sách nhà nước của Chính phủ xem mức thu đã ghi đối với các ngành là mức tối thiểu, các ngành cần phấn đấu tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
b) Tổng số chi dự kiến tăng 16,3% so với năm 1971, trong đó, chi cho các yêu cầu chủ yếu của chiến đấu, sản xuất, xây dựng, đời sống, v.v., đều tăng hơn năm 1971. Đặc biệt chi về đầu tư xây dựng cơ bản tăng 54,7% (trong đó vốn xây lắp tăng 50,8%) để đáp ứng các yêu cầu về xây dựng cơ bản như đã phân tích ở trên. Uỷ ban chúng tôi xin đề nghị Quốc hội lưu ý:
- Cấp phát tài chính cần chú ý hơn nữa đến hiệu quả của đồng vốn bỏ ra, nhất là hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Cần hạch toán chặt chẽ hơn nữa các chi phí, tiến dần lên hạch toán theo định mức, và chuyển mạnh sang chế độ hạch toán kinh tế; phần hoạt động nào có điều kiện hạch toán kinh tế thì thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hạch toán kinh tế, phần hoạt động nào chưa có điều kiện hạch toán kinh tế thì cũng phải tính toán cụ thể hiệu quả việc làm sao với hao phí bỏ ra để nhằm đạt được mục đích là mỗi đồng vốn bỏ ra đều phải đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần thúc đẩy nền kinh tế quốc dân ngày càng phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế và tài chính ta hiện nay, phân bố ngân sách bảo đảm tốc độ tích lũy và xây dựng cơ bản cao, đồng thời bảo đảm những chi phí tiêu dùng chung cho các sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, hành chính, quốc phòng, v.v., như dự án ngân sách nhà nước là hợp lý. Vấn đề là phải nâng cao chất lượng công tác, để với số kinh phí ấy, phải chi một cách tiết kiệm và có hiệu quả tốt.
Để thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1972 và phát triển kinh tế mạnh mẽ trong những năm sau, Uỷ ban chúng tôi đề nghị Quốc hội lưu ý Chính phủ đặc biệt tăng cường và cải tiến quản lý kinh tế.
Tăng cường và cải tiến quản lý kinh tế không chỉ là một biện pháp thực hiện, mà đã trở thành một trong những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1972 một nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng và cấp bách về nhiều mặt, chẳng những về kinh tế, mà cả về chính trị, quốc phòng và văn hóa, xã hội.
Đó là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay của mọi ngành, mọi cấp, cho đến cơ sở, và của toàn thể nhân dân lao động miền Bắc nước ta, đúng như lời của Hồ Chủ tịch: "Muốn có chủ nghĩa xã hội, thì phải tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Muốn tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, thì phải biết quản lý".
Biết quản lý kinh tế, tức là biết nắm vững đường lối của Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy chức năng của Nhà nước, thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân, tính toán và huy động một cách tốt nhất mọi năng lực sản xuất (sức lao động, thiết bị, vật tư, kỹ thuật, tiền vốn, tài nguyên của đất nước, khả năng hợp tác quốc tế), đạt năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để không ngừng đẩy mạnh tái sản xuất mở rộng và cải thiện đời sống của nhân dân.
Những cố gắng và tiến bộ bước đầu trong công tác cải tiến quản lý kinh tế mấy năm qua, nhất là trong năm 1971, đã giúp làm sáng tỏ hai nhận thức lớn:
1. Chúng ta hoàn toàn có khả năng quản lý tốt nền kinh tế, những phương hướng cơ bản và những chủ trương về cải tiến quản lý kinh tế của Đảng và Chính phủ là đúng đắn. Phương hướng cơ bản đó nói tóm tắt là: kiên quyết chuyển từ lối tổ chức và quản lý sản xuất nhỏ sang lối tổ chức và quản lý sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ lối quản lý hành chính cung cấp, thực hiện phương thức quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo kế hoạch và chế độ hạch toán kinh tế, để nhanh chóng khắc phục những chỗ không bình thường hiện nay trong nền kinh tế và thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
2. Từ những công tác cải tiến quản lý kinh tế thiết thực và cụ thể trước mắt, phải tiến đến xây dựng một hệ thống quản lý kinh tế thích hợp với điều kiện của nước ta.
Nền kinh tế quốc dân là một cơ thể sống rất phức tạp và luôn luôn biến động. Quản lý nền kinh tế ấy phải có một hệ thống công cụ, biện pháp và hình thức tổ chức quản lý, được tiến hành đồng bộ, nhằm toàn diện các khâu, trong toàn thể bộ máy nhà nước, ở mọi ngành mọi cấp, cho đến những đơn vị cơ sở, xem như là những tế bào của nền kinh tế quốc dân, trên dưới cùng nhau làm, chứ không thể làm lỗ mỗ từng mặt, từng khâu trong từng bộ phận rời rạc.
Đi đôi với việc tích cực xây dựng kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế và văn hóa, đã đến lúc phải đề ra và ráo riết thực hiện nhiệm vụ xây dựng trong vòng vài, ba năm tới hệ thống quản lý kinh tế của nước ta, bước đầu còn thô sơ nhưng phải đủ những nhân tố của một hệ thống, rồi trên cơ sở đó mà nâng cao và hoàn thiện dần.
Theo tinh thần ấy, Uỷ ban chúng tôi nhất trí với những phương hướng và biện pháp cải tiến quản lý kinh tế nêu trong báo cáo của Chính phủ. Chúng tôi đề nghị đặc biệt lưu ý một số vấn đề sau đây:
1. Ra sức cải tiến công tác kế hoạch hóa, xem kế hoạch nhà nước là công cụ quản lý chủ yếu
Kế hoạch nhà nước phải thực sự xứng đáng là "Cương lĩnh thứ hai" của Đảng, nghĩa là phải thể hiện trung thành và bảo đảm thực hiện với kết quả cao đường lối kinh tế của Đảng, thông qua kế hoạch dài hạn (5 năm) mà hiện nay đời sống kinh tế đang đòi hỏi cấp bách, cũng như thông qua kế hoạch hàng năm.
Với nhận thức mới về nguyên tắc quản lý kinh tế quốc dân theo ngành, kết hợp với quản lý theo lãnh thổ, Uỷ ban chúng tôi đề nghị Chính phủ nên sớm ban hành những quy định mới về kế hoạch hóa theo ngành, tạo điều kiện cho nền sản xuất cũng như quản lý ngày càng đi vào chuyên môn hóa, thống nhất quản lý kinh tế - kỹ thuật theo ngành trên phạm vi toàn xã hội, thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển các ngành theo quy hoạch thống nhất, tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng, thực hiện tái sản xuất mở rộng toàn ngành và thúc đẩy bước tiến mạnh mẽ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Kế hoạch nhà nước phải có giá trị pháp lệnh cao, và muốn như vậy, điều cơ bản là kế hoạch phải được cân đối một cách tích cực, vững chắc và toàn diện, phải được xây dựng trên cơ sở điều tra, nghiên cứu, nắm vững yêu cầu và khả năng, dựa theo những tiêu chuẩn, định mức có căn cứ kỹ thuật và không ngừng tiến bộ.
Kế hoạch nhà nước phải thống nhất cả hai mặt hiện vật và tài chính, xét toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như về từng ngành, từng đơn vị, từng công việc đều có chỉ tiêu, biện pháp và tính toán hiệu quả kinh tế. Do đó mà bản thân kế hoạch nhà nước là một bản tổng hạch toán kinh tế quốc dân, đòi hỏi và thúc đẩy mọi tổ chức, mọi người đi vào quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Phải sớm khắc phục lối làm kế hoạch chỉ về mặt hiện vật, không tính toán tài chính, giá thành, lỗ lãi, thậm chí không tính toán kế hoạch sản xuất gắn với kế hoạch tiêu thụ, sản xuất bất chấp nhu cầu và thị trường, sản xuất với bất cứ giá nào.
Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch, phương pháp, trình tự và thời gian xây dựng, bảo vệ, thông qua và công bố kế hoạch, các chế độ về kiểm tra thực hiện và xét duyệt hoàn thành kế hoạch phải được soát xét và cải tiến theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Nhà nước, đồng thời mở rộng quyền chủ động của đơn vị cơ sở, của các ngành, các cấp, vừa chống tập trung quan liêu, vừa chống phân tán tản mạn.
Trên đây là những vấn đề rất lớn đang đặt ra cho công tác kế hoạch hóa từ Trung ương cho đến từng xí nghiệp, từng hợp tác xã. Đó là những việc mới mẻ và phức tạp, phải nghiên cứu, tìm tòi để giải quyết một cách vững chắc, với tinh thần rất khẩn trương, đáp ứng yêu cầu nóng hổi của tình hình thực tế. Theo hướng trên đây, sự cải tiến công tác kế hoạch hóa phải được thể hiện rõ rệt trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1972, xây dựng kế hoạch nhà nước năm 1973 và kế hoạch dài hạn sắp tới.
2. Thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán kinh tế và vận dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế
Hạch toán kinh tế là một phương pháp rất quan trọng của phương thức quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nó đòi hỏi mỗi đơn vị sản xuất, kinh doanh đều phải tính toán để xây dựng và hoàn thành kế hoạch nhà nước với hao phí lao động, vật tư và tiền vốn ít nhất, làm ra sản phẩm hợp nhu cầu, với số lượng cao, chất lượng tốt nhất, và giá thành hạ, từ đó mà mỗi đơn vị sản xuất, kinh doanh tự trang trải các chi phí sản xuất và có doanh lợi xã hội chủ nghĩa, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, đồng thời mang lại lợi ích thiết thực cho tập thể đơn vị và cho mỗi người lao động.
Hạch toán kinh tế là tính toán và tiết kiệm, đạt được năng suất lao động cao, giá thành hạ, hiệu quả kinh tế lớn, tích lũy được nhiều, đời sống cải thiện tốt. Hạch toán kinh tế là phát huy những năng lực hiện có dồi dào của đất nước (sức lao động, thiết bị, vật tư, vốn…), là đòi hỏi nghiêm ngặt nhất đi đôi với bồi dưỡng thích đáng nhất đối với mỗi người lao động. Hạch toán kinh tế là một trong những phương hướng và biện pháp quản lý chủ yếu hiện nay để khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, làm cho quần chúng hăng hái, phấn khởi hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước.
Hạch toán kinh tế chống lại lối quản lý hành chính cung cấp. Hạch toán kinh tế là xóa bỏ hẳn lối làm ăn bất chấp các quy luật kinh tế và bỏ qua cả những tính toán sơ đẳng nhất, yêu cầu được "bao" mọi chi phí không theo một đạo lý, một chế độ nào, tiêu xài bao nhiêu sức lao động, vật tư, tiền vốn là bắt Nhà nước thanh toán chừng đó, thua thiệt ngân sách phải chịu, làm được bao nhiêu thì làm, tốt xấu ra sao không kể, người làm giỏi không được thưởng, người làm hỏng không bị phạt.
Uỷ ban chúng tôi nhận định rằng thực hiện thực sự chế độ hạch toán kinh tế là điều vô cùng cần thiết và cấp bách hiện nay đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như đối với từng ngành, từng cấp, từng cơ sở. Có thể nói thực hiện thực sự chế độ hạch toán kinh tế theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa trở thành một thước đo nhiệt tình cách mạng, ý chí chiến đấu và năng lực quản lý của mỗi người cán bộ, mỗi tập thể đang sản xuất và xây dựng.
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý rằng tất cả mọi đơn vị kinh tế đều phải nghiêm chỉnh khôi phục ngay chế độ hạch toán kinh tế, rồi từng bước cải tiến và thực hiện ngày càng đầy đủ chế độ ấy, chứ không ngồi chờ tạo mọi điều kiện và tiền đề cần thiết, rồi mới bắt tay thực hiện hạch toán kinh tế. Những hoạt động nào chưa có điều kiện hạch toán kinh tế vẫn phải tính toán cụ thể kết quả so với chi phí.
Để thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán kinh tế, phải kiên trì đi sâu nghiên cứu giải quyết hàng loạt vấn đề rất phức tạp và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, từ các vấn đề giá, tài chính, ngân hàng, tiền lương và thưởng, đến những vấn đề phương hướng sản xuất, cung cấp vật tư, tiêu thụ sản phẩm, hợp đồng kinh tế, và cả những vấn đề về định mức kinh tế - kỹ thuật, về nghiệp vụ kế toán, thống kê. Tuy nhiên, cần phải hết sức tránh không được biến công tác hạch toán kinh tế thành việc làm thuần túy chuyên môn của một bộ máy tính toán. Điều bảo đảm thành công là tính chất quần chúng rộng rãi của nó, làm sao cho mỗi người công nhân, mỗi người nông dân xã viên vừa là một người sản xuất, vừa là một người biết hạch toán và làm hạch toán.
Trên cơ sở kế hoạch nhà nước là công cụ chủ yếu và gắn liền với việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, phải coi trọng vận dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế: lợi nhuận, tín dụng, giá, tiền lương, hợp đồng kinh tế, v.v.. Vận dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế chủ yếu là để tính toán chính xác lao động xã hội cần thiết trong việc làm ra các sản phẩm, đánh giá chính xác phần cống hiến của mỗi đơn vị kinh tế và mỗi người lao động đối với nền kinh tế quốc dân, thưởng phạt nghiêm minh và thích đáng, khuyến khích tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy tác dụng của sự thống nhất quyền lợi giữa toàn xã hội với từng tập thể và mỗi người lao động, thực hiện sự phân phối đúng đắn thu nhập quốc dân cho tái sản xuất mở rộng và cho việc cải thiện đời sống của nhân dân. Các đòn bẩy kinh tế chủ yếu nhằm thúc đẩy việc hoàn thành kế hoạch nhà nước, và ngoài ra, hướng dẫn những hoạt động kinh tế mà kế hoạch nhà nước không thể và không cần dự kiến hết.
Đòn bẩy kinh tế là một hệ thống công cụ và biện pháp quản lý có sức thúc đẩy mạnh mẽ, nhưng lâu nay ta vận dụng chưa tốt, không ăn khớp và thiếu đồng bộ, nên kết quả bị hạn chế, thậm chí có khi còn có phần ngược lại ý muốn. Kinh nghiệm đó chỉ cho ta thấy muốn phát huy được tác dụng của các đòn bẩy kinh tế, cần phải nghiên cứu, xác định những chính sách đúng đắn (trong đó có những chính sách rất lớn như chính sách giá, chính sách tiền lương và thu nhập, chính sách lợi nhuận, v.v..), xác định những chế độ thích hợp và những phương thức, phương pháp hoạt động cụ thể đối với từng đòn bẩy. Phải vận dụng nó trên cơ sở kế hoạch hóa và luôn luôn nắm vững giáo dục lòng yêu nước và nâng cao sự giác ngộ xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên, ở đây cũng như đối với việc thực hiện hạch toán kinh tế, chúng ta phải tiến từng bước, vừa làm vừa rút kinh nghiệm và cải tiến dần. Điều quan trọng là nhận thức rõ, quyết tâm làm.
3. Tăng cường quản lý khoa học - kỹ thuật
Khoa học và kỹ thuật xét cho cùng là nhân tố cơ bản để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, hai mục tiêu rất trọng yếu để bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch nhà nước. Quản lý khoa học và kỹ thuật, cùng với kế hoạch hóa, hạch toán kinh tế và đòn bẩy kinh tế là ba bộ phận hợp thành chủ yếu của hệ thống quản lý kinh tế của chúng ta.
Uỷ ban chúng tôi nhận định rằng kỹ thuật và khoa học hiện nay đang bị xem nhẹ hẳn trong quản lý kinh tế và đó là một thiếu sót cần được nhanh chóng khắc phục.
Tăng cường quản lý kỹ thuật trong điều kiện trước mắt là tập trung vào việc xây dựng chế độ và nền nếp quản lý kỹ thuật và tổ chức thực hiện chế độ ấy trong mọi ngành kinh tế quốc dân. Nội dung chủ yếu của nó là xây dựng và thực hiện đúng quy trình, quy phạm kỹ thuật, tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật, quản lý và kiểm tra chất lượng sản phẩm, cải tiến công tác thiết kế là một khâu cực kỳ trọng yếu, áp dụng kịp thời kỹ thuật mới vào sản xuất và phổ biến nhanh chóng sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất.
Việc tăng cường quản lý kỹ thuật như vậy diễn ra trên một diện rất rộng lớn trong tất cả các đơn vị kinh tế cơ sở, động viên không phải chỉ những cán bộ kỹ thuật, mà toàn thể đội ngũ người lao động, đòi hỏi sự chỉ đạo chặt chẽ của những người lãnh đạo, những người thủ trưởng. Đây là việc chủ yếu hiện nay về mặt vận dụng khoa học, kỹ thuật vào phát triển kinh tế. Nó chưa đòi hỏi những phát minh ở trình độ khoa học cao và nhiều vốn đầu tư, nhiều thiết bị, phương tiện nhưng đưa đến những thành quả rất lớn, và mở đường cho những bước tiến mạnh mẽ về khoa học và kỹ thuật.
Một vấn đề đặc biệt quan trọng và đã chín muồi trong công tác quản lý kỹ thuật là sắp xếp đúng chỗ, bồi dưỡng, ủng hộ mạnh mẽ, sử dụng tốt, đãi ngộ đúng mức để phát huy tác dụng của hàng chục vạn cán bộ khoa học, kỹ thuật, hàng chục vạn công nhân thạo nghề hiện có, đồng thời ra sức đẩy mạnh và nâng cao chất lượng bồi dưỡng, đào tạo lực lượng kỹ thuật mới. Uỷ ban chúng tôi nhận thấy rằng những Nghị quyết và Chỉ thị của Chính phủ ban hành gần đây về vấn đề này đã gây một ảnh hưởng bước đầu tốt trong đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân lành nghề. Nhưng việc thực hiện một cách có hiệu quả những chủ trương này phải là một sự phấn đấu mạnh mẽ, đặc biệt khắc phục những tư tưởng bảo thủ và những cách nhìn lệch lạc phổ biến hiện nay.
Đội ngũ cán bộ kỹ thuật trẻ của chúng ta hiện nay giàu nhiệt tình cách mạng, có năng lực và đang khao khát được cống hiến. Những người thủ trưởng quản lý kinh tế, chỉ huy sản xuất và kinh doanh cần phải dám dùng và biết dùng cán bộ kỹ thuật, giúp cho họ trưởng thành nhanh chóng, đồng thời giao cho họ những trách nhiệm kỹ thuật ngày càng cao. Hai điều này liên quan với nhau. Có trưởng thành nhanh mới đảm đương được trách nhiệm lớn, và có đảm đương trách nhiệm ngày càng cao thì mới có điều kiện để trưởng thành nhanh.
Đi đôi với việc tăng cường quản lý kỹ thuật, phải coi trọng và chú ý đầy đủ việc nghiên cứu và phát triển khoa học và kỹ thuật. Nội dung của công việc này là vạch ra và thực hiện chương trình tiến bộ kỹ thuật, đưa kỹ thuật mới vào sản xuất; tổ chức tốt việc nghiên cứu khoa học và áp dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất; chăm lo xây dựng tiềm lực khoa học nhằm đáp ứng những nhu cầu của phát triển kinh tế và tiến bộ kỹ thuật trong những năm sau. Điều đặc biệt quan trọng là phải xây dựng và tổ chức thực hiện tốt kế hoạch của Nhà nước về khoa học và kỹ thuật, bảo đảm đó là một chỗ dựa vững chắc cho các kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân.
4. Tăng cường và cải tiến tổ chức quản lý kinh tế theo nguyên tắc cơ bản tập trung dân chủ và theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa
Hệ thống quản lý kinh tế mới đòi hỏi một bộ máy nhà nước và bộ máy quản lý kinh tế thích hợp, được tổ chức rất hợp lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có hiệu lực lớn và có sức cơ động cao.
Đó là một bộ máy tổ chức kết hợp đúng đắn quản lý theo ngành và quản lý theo cấp, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế hiện nay của chúng ta.
Tổ chức quản lý kinh tế hiện nay không theo nguyên tắc ngành là một cách quản lý và tổ chức phân tán nặng, theo lối sản xuất nhỏ. Phải kiên quyết chuyển sang cách tổ chức quản lý theo ngành, là sự thể hiện hướng phát triển tất yếu của nền sản xuất lớn hiện đại là: tập trung, chuyên môn hóa và hiệp tác sản xuất. Quản lý theo ngành kinh tế - kỹ thuật, kế hoạch hóa và cân đối theo ngành (trước hết là đối với những ngành kinh tế chủ yếu: nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, vận tải). Đó là một biện pháp rất cơ bản để khắc phục tình trạng phân tán, cục bộ, bản vị, xóa bỏ sự cắt rời từng đoạn quá trình tái sản xuất liên tục, tạo điều kiện đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của mỗi ngành, thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành với nhau và sự kết hợp giữa ngành với cấp.
Nhưng quản lý theo ngành hoàn toàn không mâu thuẫn, mà là phải kết hợp với tổ chức quản lý theo cấp, tức là sự thể hiện yêu cầu phân công lao động và phân bố sản xuất theo lãnh thổ. Quản lý theo cấp, kế hoạch hóa và cân đối toàn diện trong từng tỉnh, thành phố là bảo đảm phát huy chức năng quản lý nhà nước của cấp chính quyền địa phương, khai thác được mọi tài nguyên và khả năng trong từng vùng lãnh thổ một cách hợp lý nhất, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của mỗi địa phương trong việc làm tròn nghĩa vụ đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân thống nhất, đối với các cơ sở kinh tế của Trung ương đóng tại địa phương, cũng như trong việc phát triển kinh tế địa phương theo đúng đường lối kinh tế của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Quản lý theo ngành kết hợp chặt chẽ với quản lý theo cấp dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Nhà nước ở Trung ương đòi hỏi một loạt biện pháp cải tiến chế độ quản lý và hệ thống tổ chức, tăng cường trách nhiệm và quyền hạn của các ngành Trung ương, đồng thời cải tiến và tiếp tục phân cấp quản lý cho địa phương.
Bộ máy quản lý kinh tế của ta hiện còn mang nặng dấu vết của lối sản xuất nhỏ và lối quản lý hành chính - cung cấp: cồng kềnh, ít hiệu lực, dung dưỡng sự trì trệ hành chính và sự bao cấp phí kinh tế. Cho nên, phải nhanh chóng cải tiến bộ máy tổ chức quản lý kinh tế theo hướng sản xuất lớn và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Tất cả các ngành, các cấp trong bộ máy quản lý đều phải hướng về cơ sở, hướng dẫn, giúp đỡ và phục vụ cơ sở, với nhận thức rằng cơ sở là tiền tuyến trên mặt trận kinh tế. Uỷ ban chúng tôi nhận định rằng hiện nay tư tưởng rất cơ bản trên đây chưa được quán triệt trong thực tiễn của công tác quản lý kinh tế. Các cơ sở chưa được chỉ đạo chặt chẽ, chưa được giúp đỡ đầy đủ, mà trái lại trong nhiều trường hợp còn bị gây khó khăn, trở ngại một cách rất vô lý. Tình hình này phải được thay đổi hẳn. Chúng tôi cho rằng một yêu cầu rất quan trọng hiện nay là mở rộng quyền chủ động sản xuất và kinh doanh cho đơn vị cơ sở, tạo mọi điều kiện và phương tiện cho cơ sở hoàn thành tốt kế hoạch, dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Nhà nước. Kiên quyết khắc phục chủ nghĩa quan liêu, sự trì trệ của các cấp quản lý bên trên.
*
* *
Để thực hiện tốt kế hoạch nhà nước 1972, và qua thực tiễn phong phú ấy mà tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa và xây dựng từng bước hệ thống quản lý thích hợp, Uỷ ban chúng tôi muốn đề cập và nhấn mạnh hai vấn đề nữa:
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
1. Quản lý tốt nền kinh tế quốc dân là phải kết hợp chặt chẽ ba loại biện pháp: kinh tế, tư tưởng và pháp chế
Trong việc vận dụng tổng hợp ba loại biện pháp trên đây, lâu nay ta thiếu những biện pháp kinh tế chính xác và cụ thể để làm nội dung cho biện pháp pháp chế và biện pháp tư tưởng, đồng thời ta lại buông lỏng pháp chế, cho nên công tác tư tưởng cũng chưa phát huy được hết sức mạnh động viên và giáo dục của nó.
Trong các phần trên, chúng tôi đã nói về các biện pháp kinh tế. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh sự cần thiết tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thể hiện quyền lực của Nhà nước và ý chí của nhân dân, pháp chế xã hội chủ nghĩa là một công cụ, một biện pháp trọng yếu không thể thiếu để phát huy mạnh mẽ chức năng của Nhà nước quản lý xã hội, nhất là quản lý kinh tế; để sớm chấm dứt sự buông lỏng quản lý, nhanh chóng ổn định tình hình, và từng bước xây dựng một hệ thống quản lý kinh tế thích hợp lấy kế hoạch làm công cụ chủ yếu và theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, bảo đảm năng suất lao động và hiệu quả kinh tế không ngừng được nâng cao. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng chính là phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, định rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi người, đòi hỏi và động viên mỗi người lao động làm tròn nghĩa vụ, mỗi người cán bộ làm đúng chức trách, đồng thời bảo đảm cho mọi công dân đều được hưởng các quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng vi phạm luật pháp và kỷ luật nhà nước, vi phạm quyền dân chủ của công dân.
Để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần ban hành sớm các luật pháp, các quy chế nhà nước về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân, các quy định về chức trách, nhiệm vụ của các ngành, các cấp, cho đến từng cán bộ, công nhân, viên chức, các điều lệ và chế độ quản lý kinh tế về các mặt; cần soát xét lại để bổ sung hoặc ban hành mới những chế độ định rõ những quyền dân chủ của công dân mà các cơ quan, các cán bộ nhà nước phải tôn trọng.
Luật lệ, chế độ ban hành ra là để được triệt để chấp hành. Cho nên, Uỷ ban chúng tôi thấy cần nhấn mạnh một lần nữa sự bức thiết đề cao kỷ luật nhà nước, khen thưởng kịp thời và đích đáng những người làm tốt, nghiêm khắc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cũng như những vụ vi phạm kỷ luật. Chế độ kinh tế xã hội của ta vô cùng ưu việt và có sức sống mãnh liệt; nó đang phát triển bản chất tốt đẹp của nó và phát huy hiệu lực của nó tạo nên những chiến thắng vĩ đại trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính để phát huy mạnh mẽ hơn nữa bản chất và hiệu lực đó mà Nhà nước ta phải xem trọng thực sự pháp chế xã hội chủ nghĩa, sử dụng nó để đấu tranh với những cái xa lạ với chế độ, để kiên quyết bài trừ tệ nạn tham ô, lãng phí, quan liêu, lười biếng vô trách nhiệm, những tệ nạn cửa quyền, móc ngoặc, những hành vi phá rối trật tự trị an.
Phải tăng cường công tác thanh tra nhà nước, kết hợp kiểm tra của Nhà nước với kiểm tra của quần chúng, bảo đảm cho quần chúng có điều kiện và có quyền phát hiện, tố cáo, khiếu nại mà không bị trù, không bị trả thù hoặc bức hại.
2. Thực hiện quyền làm chủ tập thể của quần chúng trong công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, phát động phong trào quần chúng sâu rộng
Cũng như mọi công tác cách mạng khác, quản lý kinh tế phải là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải chỉ đơn thuần là hoạt động của những cơ quan chuyên môn.
Nhân dân với tư cách là người chủ tập thể của Nhà nước, của nền kinh tế quốc dân, phải thể hiện quyền làm chủ của mình thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước các cấp, cũng như thông qua phong trào quần chúng thi đua thực hiện kế hoạch nhà nước. Phải phát động cho được một phong trào lao động sản xuất có tính chất quần chúng và cách mạng, động viên cho được hàng triệu, hàng triệu người lao động vươn lên với tinh thần phấn khởi và khí thế tiến công, hăng hái thi đua hoàn thành kế hoạch nhà nước, phát triển và quản lý tốt nền kinh tế quốc dân.
Để động viên được một phong trào cách mạng của quần chúng như vậy, để duy trì được phong trào bền bỉ và không ngừng đưa phong trào tiến lên, thì cần có sự đổi mới mạnh mẽ trong cách thức tổ chức và chỉ đạo phong trào.
Chúng tôi cho rằng hiện nay chúng ta đã có những tiền đề cần thiết để thực hiện sự đổi mới trên đây.
Điều quyết định thành công của phong trào quần chúng là xác định rõ nội dung kinh tế của phong trào, đề ra những mục tiêu kinh tế cụ thể cho phong trào, và kết hợp chặt chẽ ba loại biện pháp kinh tế, hành chính, tư tưởng để đẩy mạnh phong trào.
Trong từng thời gian, nội dung và mục tiêu kinh tế của phong trào quần chúng là nhiệm vụ và chỉ tiêu kế hoạch nhà nước phải hoàn thành, là những chủ trương, chế độ và biện pháp cải tiến quản lý cần thực hiện. Vì vậy, điều trước hết để phát động phong trào quần chúng là có kế hoạch đúng, có biện pháp quản lý tốt và biết nắm lấy những điều đó làm nội dung của phong trào quần chúng.
Biện pháp kinh tế để phát động và đẩy mạnh phong trào quần chúng chính là vận dụng các đòn bẩy kinh tế để vừa bảo đảm quyền lợi của người lao động, vừa đòi hỏi người lao động vươn lên góp phần lớn nhất của mình cho Nhà nước, đồng thời khuyến khích lợi ích vật chất cho người lao động một cách đích đáng.
Biện pháp hành chính là đề cao pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật lao động, thực hiện thưởng phạt nghiêm minh, nghiêm khắc yêu cầu mọi người lao động làm đúng mọi luật lệ, chế độ, quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn định mức, đồng thời bảo đảm dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng các quyền lợi chính trị và kinh tế của người lao động.
Kết hợp với hai loại biện pháp kinh tế và hành chính, công tác giáo dục tư tưởng sẽ phát huy được vị trí đi đầu để động viên khí thế cách mạng của quần chúng trong phong trào lao động sản xuất.
Để nuôi dưỡng phong trào quần chúng được liên tục, để động viên mọi khả năng của mọi người lao động, phải có nhiều hình thức tổ chức thích hợp, nhiều phương pháp công tác phong phú, nhiều cách động viên thi đua có hiệu quả thiết thực.
Trong việc thực hiện từng biện pháp cải tiến quản lý kinh tế cụ thể cũng nằm trong việc xây dựng và vận dụng hệ thống quản lý kinh tế, cần chú ý rằng nền kinh tế quốc dân của chúng ta, bên cạnh thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân, còn bao gồm thành phần kinh tế hợp tác rất rộng lớn, thuộc sở hữu tập thể. Đặc biệt trong nông nghiệp, khu vực quốc doanh còn nhỏ, khu vực tập thể hiện chiếm tuyệt đại bộ phận.
Đối với kinh tế nông nghiệp, công tác quản lý cần nhằm củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng cường hơn nữa sự giúp đỡ về mọi mặt của Nhà nước đối với hợp tác xã, phát huy sức mạnh và tính hơn hẳn của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, cải tiến quản lý hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, thực hiện quyền làm chủ của nông dân xã viên trong các mặt quản lý: quản lý ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác, quản lý sản xuất, quản lý phân phối. Nhà nước cần sớm ban hành và thực hiện luật về quản lý ruộng đất, các chính sách về nghĩa vụ của nông dân bán nông sản cho Nhà nước, chế độ hợp đồng hai chiều giữa Nhà nước và hợp tác xã, chính sách đầu tư và chính sách tín dụng cho nông nghiệp… Trên cơ sở tiến hành phân vùng và quy hoạch sản xuất, cần đẩy mạnh nghiên cứu và cải tiến kế hoạch hóa phát triển nông nghiệp, nắm vững kế hoạch là công cụ quản lý chủ yếu, đồng thời đẩy mạnh việc vận dụng các đòn bẩy kinh tế. Cần sớm tổng kết kinh nghiệm của các hợp tác xã tiên tiến, thể hiện trong bản điều lệ chi tiết của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.
Trong khi đẩy mạnh cải tiến quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, cần đặc biệt chú ý đến miền núi, với những sức mạnh riêng và những vấn đề riêng của miền núi. Công tác quản lý kinh tế phải nhằm đưa miền núi tiến lên mạnh mẽ và vững chắc, khai thác tài nguyên phong phú nhiều mặt của miền núi, kết hợp chặt chẽ và cân đối toàn diện sự phát triển của miền núi với trung du và đồng bằng. Công tác quản lý kinh tế phải quán triệt đường lối dân tộc của Đảng, vận dụng các chủ trương và chế độ quản lý chung thích hợp với điều kiện miền núi, nghiên cứu và quyết định những chế độ cần thiết thích hợp đối với miền núi, phát huy sự cống hiến quý báu của đồng bào các dân tộc và cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc.
*
* *
Với đường lối đúng đắn của Đảng, với những khả năng và triển vọng mới tăng cường quản lý của Nhà nước, với phong trào cách mạng sâu rộng của quần chúng đi vào lao động sản xuất và quản lý kinh tế, thi đua thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, Uỷ ban chúng tôi tin tưởng là dự án kế hoạch nhà nước và dự án ngân sách nhà nước năm 1972 sẽ được hoàn thành tốt. Trên tinh thần đó, Uỷ ban chúng tôi xin đề nghị Quốc hội:
- Thông qua dự án kế hoạch nhà nước năm 1972 với phương hướng, nhiệm vụ và chỉ tiêu chủ yếu mà Chính phủ đã trình ra Quốc hội.
- Thông qua dự án ngân sách nhà nước năm 1972 với:
+ Tổng số thu là: 5.142 triệu.
+ Tổng số chi là: 5.142 triệu.
Kèm theo đây, Uỷ ban chúng tôi xin trình dự thảo Quyết nghị của Quốc hội về dự án kế hoạch nhà nước và dự án ngân sách nhà nước năm 1972.