BÁO CÁO VỀ TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ ĐẤU TRANH
THI HÀNH HIỆP ĐỊNH PARI VỀ VIỆT NAM
(Do ông Nguyễn Duy Trinh, Phó Thủ tướng kiêm
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trình bày tại kỳ họp thứ 4,
Quốc hội khóa IV, ngày 05-02-1974)
Kính thưa Chủ tịch Tôn Đức Thắng và các đồng chí trong Đoàn Chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Ngày 27-01-1973, “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” đã được ký kết tại Pari. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi to lớn.
Trong Lời kêu gọi lịch sử ngày 28-01-1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nêu rõ: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi mở ra một bước ngoặt mới của cách mạng Việt Nam. Hiệp định đã được ký kết là cơ sở chính trị và pháp lý bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, bảo đảm quyền tự quyết thiêng liêng của đồng bào ta ở miền Nam. Thắng lợi này là cơ sở để nhân dân ta tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước”.
Tại kỳ họp thứ 3 của Quốc hội khóa IV vào những ngày 20 và 21-02-1973, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong báo cáo của Chính phủ về hoạt động của Nhà nước ta dẫn đến việc ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam, đã long trọng tuyên bố:
“Đối với Hiệp định Pari, chính sách của chúng ta là triệt để tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định, đồng thời đòi hỏi Chính phủ Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn cũng phải làm như vậy. Đây là một cuộc đấu tranh rất lớn, có tầm quan trọng về nhiều mặt nhằm giữ vững và phát huy thắng lợi đã giành được”.
Cũng tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội ta đã thông qua nghị quyết nhất trí tán hành Hiệp định Pari về Việt Nam và chính sách của Chính phủ đối với việc thi hành Hiệp định đó.
Đến nay, Hiệp định Pari về Việt Nam có hiệu lực đã được một năm.
Thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo trước Quốc hội về tình hình đấu tranh thi hành Hiệp định trong năm qua; những thắng lợi nhân dân ta đã giành được và những vấn đề còn phải tiếp tục đấu tranh; âm mưu, thủ đoạn của địch; phương hướng và nhiệm vụ sắp tới của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh để giữ gìn hòa bình và thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam.
I- BỐI CẢNH CUỘC ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA
NHÂN DÂN TA SAU KHI HIỆP ĐỊNH PARI ĐƯỢC KÝ KẾT
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Thắng lợi mà nhân dân ta giành được trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có ý nghĩa lịch sử đồng thời có tính chất thời đại rất sâu sắc đối với cách mạng nước ta cũng như đối với phong trào cách mạng thế giới.
Ở Việt Nam, trải qua 18 năm chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, nhân dân ta đã lần lượt làm thất bại bốn chiến lược của bốn đời Tổng thống Mỹ liên tiếp xâm lược nước ta, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Với thắng lợi đó, cách mạng nước ta đã bước sang một giai đoạn mới trong tình hình so sánh lực lượng có lợi cho ta hơn bao giờ hết, song nhiệm vụ của nhân dân ta còn rất nặng nề. Trong cả nước, nhân dân ta phải đồng thời làm hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.
Ở miền Bắc, với nền hòa bình vừa giành được, nhân dân ta có những điều kiện thuận lợi mới để thực hiện việc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh việc xây dựng chủ nghĩa xã hội về mọi mặt. Nhưng chúng ta phải xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta từ một nền sản xuất nhỏ tiến lên một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, lại vừa trải qua những hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh phá hoại tàn bạo của Mỹ và hai năm có thiên tai lớn; cả nước ta phải làm cùng một lúc hai nhiệm vụ chiến lược đồng thời làm nhiệm vụ quốc tế của mình.
Ở miền Nam, cách mạng dân tộc dân chủ đã giành được thắng lợi rất to lớn nhưng chưa hoàn thành. Thực tế hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị thể hiện thắng lợi to lớn của cách mạng miền Nam, đồng thời cũng nói lên nhiệm vụ nặng nề, phức tạp của nhân dân ta để hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Ở Đông Dương, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia tiếp tục cuộc đấu tranh anh dũng đã giành được những thắng lợi rất to lớn. Thắng lợi của việc ký kết Hiệp định Pari cũng đã góp phần thuận lợi cho các bạn Lào và Campuchia giành thắng lợi mới.
Đế quốc Mỹ đã phải chấm dứt “chiến tranh đặc biệt” xâm lược nước Lào. Hiệp định Viêng Chăn và Nghị định thư của Hiệp định đó đã được ký kết đánh dấu một thắng lợi rất to lớn của nhân dân Lào trên con đường hoàn thành cách mạng dân tộc và dân chủ trong cả nước Lào, mở ra triển vọng tốt đẹp cho hòa bình và hòa hợp dân tộc ở Lào, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào tiến lên giành thắng lợi mới. Nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục ủng hộ các thế lực phản động cực đoan ở Lào ngăn cản việc thực hiện Hiệp định và Nghị định thư đó.
Đế quốc Mỹ cũng đã phải chấm dứt việc ném bom ở Campuchia từ ngày 15-8-1973. Các lực lượng kháng chiến Campuchia đã giành được những thắng lợi rất to lớn trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, dồn tập đoàn bán nước Lon Non vào tình thế ngày càng rất nguy khốn. Nhưng Mỹ vẫn ra sức viện trợ cho tập đoàn này tiếp tục cuộc chiến tranh chống lại nhân dân Campuchia.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia đã tạo nên một cục diện mới tốt đẹp cho cách mạng ba nước Đông Dương. Thế và lực của cách mạng ở ba nước Đông Dương mạnh hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, tình hình chung trong khu vực này vẫn còn diễn biến phức tạp. Đế quốc Mỹ vẫn chưa từ bỏ ý đồ thực dân mới của chúng ở Đông Dương; chúng đang tìm mọi cách để hòng phá vỡ khối đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương và làm suy yếu lực lượng cách mạng của mỗi nước.
Tình hình trên thế giới, sau Hiệp định Pari về Việt Nam, cũng đã có những chuyển biến quan trọng.
Thắng lợi có ý nghĩa thời đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, tiêu điểm của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới, đã góp phần thúc đẩy ba trào lưu cách mạng trên thế giới, phát huy thế tiến công về chiến lược, tiến lên mạnh mẽ, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, tiếp tục lớn mạnh và không ngừng phát huy ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Mặc dù mâu thuẫn Xô - Trung còn gay gắt, hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người.
Phong trào giải phóng dân tộc, giữ gìn và củng cố độc lập dân tộc chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, nhất là chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, đã có những bước phát triển mới. Phong trào các nước không liên kết lớn mạnh hơn trước, xu thế chống đế quốc, nhất là chống đế quốc Mỹ can thiệp về chính trị và bóc lột về kinh tế tiếp tục phát triển.
Phong trào đấu tranh giành dân chủ và tiến bộ xã hội ở các nước tư bản cũng không ngừng lớn mạnh. Việc áp dụng những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật mới tuy đã tạo điều kiện cho nền sản xuất tư bản chủ nghĩa có những bước phát triển mới, nhưng mặt khác sự áp bức bóc lột công nhân và những người lao động khác ngày càng nặng nề, đã làm cho mâu thuẫn xã hội trong các nước đế quốc ngày càng gay gắt, thúc đẩy hơn nữa phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động phát triển rộng rãi.
Ba trào lưu cách mạng nói trên và phong trào hòa bình trên thế giới đang cùng tiến công vào chủ nghĩa đế quốc từ nhiều phía.
Trong khi đó, các thế lực đế quốc chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện. Thất bại của Mỹ ở Việt Nam là một đòn nặng giáng vào vai trò sen đầm quốc tế của Mỹ và học thuyết Níchxơn, góp phần làm suy yếu vị trí quốc tế của Mỹ. Chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ bị đả kích mạnh mẽ ở Trung Đông và ở Mỹ latinh. Mâu thuẫn giữa Mỹ với các nước đồng minh của Mỹ, nhất là với Tây Âu và Nhật Bản, ngày càng sâu sắc, các nước Tây Âu ngày càng có xu hướng chính trị độc lập hơn đối với Mỹ. Hàng ngũ các nước đế quốc cạnh tranh với nhau về tiền tệ, thị trường, nguyên liệu và ngày càng phân hóa; cuộc đấu tranh của các nước Ảrập về vấn đề dầu lửa làm cho mâu thuẫn đó gay gắt thêm.
Trong thế thất bại và suy yếu, đế quốc Mỹ đã phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu, thực hiện “hòa hoãn” giữa các nước lớn và dàn xếp mâu thuẫn với đồng minh, kết hợp với nhiều âm mưu và thủ đoạn thâm độc khác nhằm chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa, chia rẽ phong trào giải phóng dân tộc, phá hoại phong trào cách mạng thế giới, tìm cách phản kích lại cách mạng ở một số nơi.
Mặc dù vậy, xu thế hiện nay vẫn là cách mạng đang ở thế tiến công. Âm mưu thâm độc và thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ không ngăn nổi các cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra lúc âm ỉ, lúc bột phát nhưng hết sức quyết liệt, trên phạm vi toàn thế giới.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được các lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội coi như là thắng lợi của chính mình. Nhân dân thế giới đã nhiệt liệt chào mừng thắng lợi đó, tiếp tục ủng hộ nhân dân ta đấu tranh để thi hành Hiệp định, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước. Tuy nhiên, trong một bộ phận dư luận có những nhận thức không đúng như cho vấn đề Việt Nam đã được giải quyết sau khi Hiệp định Pari được ký kết và quân Mỹ đã rút khỏi miền Nam Việt Nam, coi vấn đề Việt Nam hiện nay chỉ là vấn đề nội bộ của người Việt Nam, v.v..
Tóm lại, tình hình trong nước và trên thế giới, sau Hiệp định Pari về Việt Nam, về cơ bản thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, nhưng cũng có mặt khó khăn và phức tạp mới mà chúng ta cần nhận rõ trong bước đường tiến lên để giành thắng lợi mới.
II- TÌNH HÌNH THI HÀNH HIỆP ĐỊNH TRONG NĂM QUA
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Trong bối cảnh tình hình như trên, cuộc đấu tranh giữa ta và địch để thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam trong một năm qua đã diễn ra rất gay go và phức tạp.
Về phần mình, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã thi hành nghiêm chỉnh mọi điều khoản của Hiệp định Pari về Việt Nam, đồng thời kiên quyết đấu tranh đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng phải làm như vậy.
Mỹ đã phải chấm dứt các hành động vũ trang xâm lược trực tiếp của họ ở hai miền nước ta, phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, phải làm mất hiệu lực và phá hủy mìn ở các cửa sông và vùng biển miền Bắc. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã phải trao trả cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam hơn 26.000 nhân viên quân sự và hơn 1.500 nhân viên dân sự.
Với việc buộc Mỹ rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam nước ta, nhân dân ta đã giành được thắng lợi to lớn, chấm dứt sự chiếm đóng của quân đội nước ngoài trên đất nước ta, làm thay đổi một bước rất quan trọng so sánh lực lượng theo hướng có lợi cho nhân dân ta, tạo điều kiện thuận lợi đưa cách mạng miền Nam tiến lên.
Tuy nhiên, trong khi thi hành một số điều khoản như trên, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã vi phạm và phá hoại một cách có hệ thống nhiều điều khoản trọng yếu của Hiệp định.
Mỹ vẫn tiếp tục dính líu quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam. Chúng đã ào ạt đưa vũ khí và phương tiện chiến tranh vào miền Nam Việt Nam, tăng cường viện trợ quân sự cho chính quyền Sài Gòn, để lại và đưa thêm hàng vạn nhân viên quân sự đội lốt dân sự, cải tổ Sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, lập Cơ quan tùy viên quốc phòng (DAO) và các lãnh sự quán ở các cấp quân khu và tỉnh, thực chất là duy trì những bộ chỉ huy quân sự trá hình để chỉ huy chính quyền Sài Gòn tiếp tục chiến tranh chống lại nhân dân ta ở miền Nam.
Được Mỹ khuyến khích và ủng hộ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã ráo riết thi hành chính sách chống lại Hiệp định, chống lại hòa bình, độc lập, dân chủ và hòa hợp dân tộc ở miền Nam. Chúng huy động những lực lượng quân sự lớn, liên tiếp mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng do Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam kiểm soát, đồng thời, dùng máy bay đánh phá dã man các vùng giải phóng. Bằng các cuộc hành quân lấn chiếm kết hợp với bao vây kinh tế, hoạt động gián điệp và chiến tranh tâm lý, chúng mưu toan đẩy lùi các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng, chiếm đất giành dân, thu hẹp hòng tiến tới thủ tiêu vùng giải phóng, phủ nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cả về pháp lý và thực tế.
Trong các vùng do chúng kiểm soát, nhằm áp đặt bộ máy kìm kẹp của chúng và ngăn chặn khả năng nổi dậy của nhân dân, chúng ráo riết “bình định”, liên tiếp mở các cuộc hành quân cảnh sát, “thanh lọc”, chà đạp lên mọi quyền tự do dân chủ, đàn áp và khủng bố nhân dân, giết hại những người yêu nước, khống chế các lực lượng đối lập, bắt lính, đôn quân, vơ vét và cướp bóc của cải của đồng bào. Chúng trắng trợn phủ nhận vai trò của lực lượng thứ ba.
Chúng tiếp tục giam giữ hàng chục vạn tù chính trị và thẳng tay đàn áp, tra tấn, ám hại nhiều người.
Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tìm mọi cách để ngăn trở hoạt động của các Ban liên hợp quân sự cũng như của Uỷ ban quốc tế kiểm soát và giám sát.
Tại Hội nghị hiệp thương giữa hai bên miền Nam Việt Nam, Chính quyền Sài Gòn không chịu thương lượng nghiêm chỉnh để giải quyết đúng đắn các vấn đề nội bộ miền Nam Việt Nam, chúng lẩn tránh các vấn đề cấp bách, mưu toan hạ thấp vai trò của Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc, gồm ba thành phần và đòi tổng tuyển cử trong khuôn khổ chế độ Sài Gòn hiện nay.
Những hành động của Mỹ và chính quyền Sài Gòn vi phạm và phá hoại Hiệp định Pari về Việt Nam đã làm cho ở miền Nam tình hình ngày càng căng thẳng, xung đột vũ trang tiếp diễn gay gắt ở nhiều nơi; nguyện vọng hòa bình, độc lập, dân chủ và hòa hợp dân tộc của đồng bào ta không thực hiện được; đời sống của các tầng lớp nhân dân ta trong vùng địch kiểm soát vô cùng khốn khổ.
Nguyên nhân sâu xa và trực tiếp của tình hình đó là: sau Hiệp định Pari về Việt Nam, đế quốc Mỹ vẫn ra sức thực hiện học thuyết Níchxơn, mưu toan áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, chia cắt lâu dài nước ta. Với âm mưu đó, trong năm qua, Mỹ đã tập trung mọi cố gắng để một mặt tăng cường lực lượng mọi mặt cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, mặt khác làm suy yếu lực lượng của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, hòng từng bước xóa bỏ thực tế hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị ở miền Nam.
Để làm thất bại âm mưu đó của Mỹ, củng cố và phát huy thắng lợi đã giành được, trong năm qua, nhân dân ta ở hai miền đã tiến hành một cuộc đấu tranh rộng lớn để bảo vệ và thi hành Hiệp định. Cuộc đấu tranh đó đã diễn ra trên tất cả các mặt chính trị, quân sự và ngoại giao.
Trên mặt trận quân sự, dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam đã nắm vững tay súng, kiên trì và dũng cảm chiến đấu chống lại những hành động chiến tranh, phá hoại hòa bình, phá hoại Hiệp định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Chỉ có đánh trả chúng một cách kiên quyết và có hiệu quả thì mới bảo vệ được thành quả của cách mạng, buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn thi hành Hiệp định, mới có thể đưa sự nghiệp dân tộc, dân chủ tiến lên giành thắng lợi mới. Mệnh lệnh ngày 15-10-1973 của Bộ chỉ huy Các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam thể hiện tinh thần tích cực, chủ động và quyết tâm của đồng bào và các chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam đánh trả địch để bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ tính mạng và tài sản của mình, bảo vệ hòa bình, bảo vệ Hiệp định. Quân và dân miền Nam đã đánh trả địch không chỉ ở những nơi chúng lấn chiếm mà cả ở những nơi khác và đã giáng cho chúng những đòn trừng trị đích đáng, làm thất bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của chúng, làm cho các cuộc hành quân lấn chiếm của chúng bị chựng lại, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục vạn quân Sài Gòn, từng bước thu hồi các vùng bị lấn chiếm, cơ bản giữ vững vùng giải phóng, làm hậu thuẫn cho phong trào đấu tranh chính trị trong vùng địch kiểm soát.
Trên mặt trận chính trị, mặc dù bị o ép và kìm kẹp, các tầng lớp nhân dân miền Nam không ngừng đấu tranh kiên quyết chống lại chế độ độc tài, phát xít của bè lũ tay sai Mỹ. Hàng triệu lượt quần chúng nhân dân ở nông thôn và thành thị đã đứng lên đấu tranh dưới nhiều hình thức, đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, đòi tôn trọng ngừng bắn, thả tù chính trị, thực hiện hòa hợp dân tộc và bảo đảm các quyền tự do dân chủ, phải chấm dứt những hành động đàn áp, khủng bố và “thanh lọc”, cướp bóc và bao vây kinh tế, phải cải thiện đời sống nhân dân, v.v.. Lực lượng chính trị thứ ba cũng tích cực đấu tranh để đóng vai trò của mình trong đời sống chính trị ở miền Nam. Do tác động của cuộc đấu tranh chính trị ngoan cường của đồng bào miền Nam, xu hướng hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc ngày một phát triển trong hàng ngũ binh sĩ và nhân viên chính quyền Sài Gòn, nhất là ở các cấp dưới.
Trên mặt trận ngoại giao và dư luận, giương cao ngọn cờ độc lập, hòa bình và lập trường chính nghĩa, chúng ta đã tiến hành một cuộc đấu tranh quyết liệt nhằm trợ lực cho đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự của nhân dân ta.
Tại diễn đàn Ban liên hiệp quân sự và Hội nghị hiệp thương giữa hai bên miền Nam Việt Nam, các Đoàn đại biểu của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã mạnh mẽ tố cáo và lên án các âm mưu và hành động của Mỹ và chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định, bóc trần các thủ đoạn lừa bịp của chúng; đồng thời làm sáng tỏ lập trường đúng đắn của mình, đã đưa ra những đề nghị hợp tình hợp lý nhằm giải quyết các vấn đề quân sự và chính trị đang được đặt ra. Đề nghị 6 điểm ngày 25-4-1973 được nói rõ thêm ngày 28-6-1973, cũng như đề nghị về “Những quy định cơ bản để bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân” ngày 18-7-1973 mà Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời đưa ra tại Hội nghị hiệp thương giữa hai bên miền Nam Việt Nam đặt cơ sở đúng đắn để giải quyết các vấn đề nội bộ miền Nam theo con đường hòa bình, dân chủ và hòa hợp dân tộc. Những đề nghị đó được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi ở Việt Nam và trên thế giới.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn ủng hộ
lập trường đúng đắn, thái độ thiện chí và những đề nghị hợp tình hợp lý của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam nhằm giải quyết thỏa đáng các vấn đề nội bộ miền Nam Việt Nam.
Đồng thời, thông qua con đường liên lạc riêng và những cuộc tiếp xúc tay đôi giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ, Chính phủ ta đã kiên quyết đấu tranh đòi Mỹ phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, phải chấm dứt việc ủng hộ chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định, phải thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ trong việc đóng góp vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh ở miền Bắc Việt Nam. Trong năm qua, đồng chí Lê Đức Thọ, đại diện Chính phủ ta, đã hai lần họp với Henry Kítxingơ, đại diện Chính phủ Mỹ. Phát huy thế thắng và thế thuận lợi của mình, trong lần họp thứ nhất, ta đã kiên quyết đấu tranh với Mỹ và do đó đưa đến việc ký kết bản Thông cáo chung ngày 13-6-1973, củng cố thêm cơ sở chính trị và pháp lý của Hiệp định Pari. Lần họp thứ hai diễn ra trong khi ở miền Nam Việt Nam, các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng đang đánh trả địch một cách mạnh mẽ; Mỹ thì gặp nhiều khó khăn, nhất là khó khăn do cuộc chiến tranh ở Trung Đông gây ra cho chúng; ta chủ trương duy trì con đường tiếp xúc này để phát huy thế chủ động, gây sức ép đòi Mỹ phải cùng ta tiếp tục giải quyết những vấn đề đang được đặt ra trong việc thi hành Hiệp định.
Về mặt quốc tế, chúng ta đã bước đầu vận động bạn bè và dư luận thế giới đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta để giữ gìn hòa bình, thi hành Hiệp định và thực hiện các nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, thực hiện Di chúc của Hồ Chủ tịch, Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta lần lượt đi thăm các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Á và châu Âu, thăm vùng giải phóng Lào để cảm ơn nhân dân các nước anh em, để trình bày tình hình thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam, nhiệm vụ hiện nay của chúng ta đồng thời để tăng cường tình đoàn kết chiến đấu giữa anh em bè bạn với nhân dân ta trong giai đoạn mới. Đảng và Chính phủ nhiều nước xã hội chủ nghĩa anh em cũng như Chính phủ nhiều nước bạn cũng đã cử các đoàn đại biểu đến thăm nước ta. Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời đã cử Đoàn đại biểu cấp cao do Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ dẫn đầu đi thăm một số nước xã hội chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa, thăm vùng giải phóng Lào; đồng thời nhiều đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ các nước bạn cũng đã đến thăm vùng giải phóng miền Nam Việt Nam. Do hoạt động của ta, các nước bạn và dư luận thế giới càng nhận rõ tình hình cuộc đấu tranh thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam, càng đồng tình và ủng hộ lập trường đúng đắn của ta, đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải tôn trọng triệt để và thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định.
Chúng ta đã giành được thắng lợi to lớn trong việc mở rộng quan hệ ngoại giao. Chỉ trong một thời gian ngắn sau khi Hiệp định Pari được ký kết, thêm 20 nước mà phần lớn là các nước tư bản chủ nghĩa đã công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhiều nước bày tỏ sự mong muốn thiết lập mối quan hệ hợp tác kinh tế với ta. Uy tín quốc tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được nâng cao hơn bao giờ hết. Về phần Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, cũng trong thời gian đó, đã có thêm 8 nước đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đại sứ và đại diện các nước xã hội chủ nghĩa và nhiều nước khác đã đến trình quốc thư và ủy nhiệm thư ở vùng giải phóng miền Nam Việt Nam. Hội nghị cấp cao các nước không liên kết tại Angiê, gồm đại diện hơn 70 nước đã ra quyết nghị công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cách mạng lâm thời có uy tín to lớn và ngày càng đóng vai trò xứng đáng trong đời sống chính trị quốc tế.
Chúng ta cũng đã tranh thủ được anh em, bè bạn trên thế giới viện trợ vật chất cho nhân dân ta ở miền Bắc nhằm nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định đời sống. Các nước bạn bè và nhân dân thế giới, thông qua những Hiệp định viện trợ kinh tế ký với đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời hoặc bằng các hình thức khác, đã bước đầu giúp đỡ nhân dân miền Nam xây dựng vùng giải phóng.
Sự ủng hộ quốc tế trên đây nói lên sự công nhận của các chính phủ và nhân dân thế giới đối với thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đối với sự đóng góp tích cực của nhân dân ta vào sự nghiệp độc lập, hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Nó cũng chứng tỏ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng ta.
Trong khi đấu tranh với Mỹ và chính quyền Sài Gòn để Hiệp định Pari được thi hành nghiêm chỉnh, nhân dân ta ở hai miền đã ra sức xây dựng và phát triển lực lượng về mọi mặt.
Ở miền Nam, mặc dù xung đột vũ trang còn diễn ra gay gắt, đồng bào ta đã tranh thủ thời gian, nỗ lực xây dựng vùng giải phóng về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa. Chính quyền cách mạng các cấp đã phát huy được vai trò của mình trong việc giáo dục và động viên quần chúng bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng cuộc sống mới. Tại các vùng giải phóng, đồng bào ta đã từng bước phục hồi sản xuất, tổ chức lề lối làm ăn mới, đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, giáo dục, văn học, nghệ thuật, y tế, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của mình.
Các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng gồm ba thứ quân được củng cố và tăng cường, đứng vững trên các địa bàn trọng yếu, đã chủ động đánh trả địch một cách có hiệu quả, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng và trợ lực tích cực cho đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân. Phong trào đấu tranh chính trị đòi hòa bình, độc lập, dân chủ cải thiện đời sống và hòa hợp dân tộc, kết hợp với đòi thi hành Hiệp định đã phát triển thêm một bước. Cơ sở cách mạng trong vùng địch được củng cố và phát triển thêm.
Ở miền Bắc, tranh thủ những thuận lợi trong điều kiện hòa bình, nhân dân ta đã giành được thắng lợi bước đầu trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặc dù con đường tiến lên còn phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, đồng bào ta đang nêu cao truyền thống anh hùng và tinh thần làm chủ tập thể, hăng hái lao động, từng bước phục hồi và phát triển kinh tế, củng cố lực lượng quốc phòng và trị an, mở rộng sự nghiệp văn hóa, giáo dục và khoa học - kỹ thuật. Miền Bắc đã phát huy vai trò của mình trong đấu tranh thi hành Hiệp định, vững vàng đối phó với mọi hành động đe dọa và gây sức ép của Mỹ, tích cực chi viện cho sự nghiệp cách mạng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em.
Tóm lại, cuộc đấu tranh để thi hành Hiệp định trong năm qua đã đưa lại cho nhân dân ta những thắng lợi bước đầu rất quan trọng.
Chúng ta đã buộc Mỹ phải chấm dứt hoạt động vũ trang xâm lược trực tiếp ở hai miền nước ta và rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Chúng ta đã làm thất bại một bước quan trọng âm mưu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn xóa bỏ thực tế hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị ở miền Nam Việt Nam, đã bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, tăng cường lực lượng vũ trang cách mạng, cơ bản giữ vững và từng bước xây dựng vùng giải phóng, đưa sự nghiệp độc lập, dân chủ ở miền Nam tiến lên.
Chúng ta đã tranh thủ một năm hòa bình để khôi phục và phát triển kinh tế, củng cố và tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời ra sức chi viện cho cách mạng miền Nam trong tình hình mới.
Với thắng lợi đã giành được ở cả hai miền, thế và lực của cách mạng Việt Nam không ngừng lớn mạnh và đang trên đà tiến lên vững chắc, không một lực lượng nào có thể ngăn cản nổi.
Trong khi đó, thế và lực của địch ngày càng suy yếu và đang trên đà đi xuống.
Đế quốc Mỹ thua đã phải rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Sau khi ký Hiệp định Pari và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, chúng tạm thời giảm được một số khó khăn. Nhưng hậu quả của những thất bại nặng nề trong chiến tranh xâm lược Việt Nam và Đông Dương đang tác động mạnh mẽ vào tình hình nước Mỹ. Chính quyền Níchxơn lại đang vấp phải những khó khăn mới về nhiều mặt ở trong nước và trên thế giới. Vụ Oatơghết, nạn lạm phát cao, đồng đô la bị phá giá, chiến tranh ở Trung Đông và cuộc khủng hoảng về năng lượng... lại làm tăng thêm những mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ, giữa Mỹ và đồng minh của Mỹ, làm cho chính quyền Níchxơn lúng túng, bị động và vị trí của Mỹ trên quốc tế suy yếu chưa từng thấy. Việc Mỹ tiếp tục dính líu về quân sự và can thiệp vào Việt Nam và Đông Dương càng làm cho Mỹ bị lên án mạnh mẽ cả ở Việt Nam, trên thế giới và trong nước Mỹ.
Tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu, qua một năm vi phạm và phá hoại Hiệp định, có lấn chiếm một vài nơi thuộc vùng giải phóng đồng thời tăng thêm lực lượng vũ trang về số lượng và trang bị, củng cố bộ máy chính quyền và hệ thống kìm kẹp của chúng. Nhưng chúng là sản phẩm của chiến lược đã thất bại của Mỹ. Trong thế thua, chúng mất chỗ dựa trực tiếp là đội quân viễn chinh Mỹ đang ở thế bị động về quân sự, ngày càng bị cô lập về chính trị, nội bộ mâu thuẫn và phân hóa, lại gặp nhiều khó khăn to lớn về kinh tế, tài chính. Chính sách hiếu chiến và phát xít của tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu bị các từng lớp nhân dân ta ở miền Nam kiên quyết chống lại và bị dư luận thế giới lên án.
Thắng lợi của nhân dân ta trong năm qua đã làm cho cục diện chung ở miền Nam tiếp tục phát triển theo chiều hướng có lợi hơn nữa cho cách mạng nước ta. Thắng lợi đó củng cố và phát huy những thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tạo điều kiện thuận lợi mới cho nhân dân ta tiếp tục kiên trì và đẩy mạnh cuộc đấu tranh để giữ gìn hòa bình, thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam.
III- ÂM MƯU CỦA ĐỊCH, TRIỂN VỌNG TÌNH HÌNH, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TIẾN LÊN CỦA
CHÚNG TA
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Sau một năm đấu tranh thi hành Hiệp định, với thắng lợi mới đã giành được, cách mạng nước ta đang ở thế tiến lên vững chắc.
Nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục thực hiện học thuyết Níchxơn đối với Việt Nam và Đông Dương.
Cần nhắc lại rằng học thuyết Níchxơn ra đời là nhằm cứu vãn chủ nghĩa đế quốc Mỹ đang suy yếu trước cơn bão táp cách mạng đang dâng lên mạnh mẽ, nhằm chống đỡ, ngăn chặn thế tiến công của cách mạng thế giới, nhằm phản kích để giành giật lại những trận địa đã mất, tiếp tục mưu đồ tên sen đầm quốc tế một cách phù hợp với khả năng có hạn của chúng.
Học thuyết đó đề ra ba nguyên tắc “chia xẻ trách nhiệm”, “thực lực” và “thương lượng trên thế mạnh”, tức là Mỹ vừa thúc ép các nước đồng minh và chư hầu của Mỹ tăng cường thêm sự đóng góp vào việc thực hiện chính sách can thiệp và xâm lược của Mỹ, vừa dùng lực lượng quân sự và lực lượng kinh tế của Mỹ để buộc các nước khác phải khuất phục Mỹ, vừa dùng các thủ đoạn ngoại giao thâm độc và lừa bịp hòng chia rẽ và làm suy yếu lực lượng cách mạng của nhân dân thế giới, ép buộc các nước nhỏ phải chấp nhận kiểu “hòa bình” của Mỹ.
Vận dụng học thuyết Níchxơn vào tình hình ở Việt Nam sau khi Hiệp định Pari được ký kết, đế quốc Mỹ tiếp tục dùng chính quyền Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, biến miền Nam Việt Nam thành một quốc gia riêng lệ thuộc vào Mỹ, chia cắt lâu dài nước ta. Chính Tổng thống Mỹ Níchxơn, ngày 30-4-1971 đã từng tuyên bố “rút khỏi Việt Nam không có nghĩa là lợi ích của Mỹ đã thay đổi mà là phương pháp thực hiện lợi ích đó thay đổi”. Cũng chính Níchxơn, ngay sau khi Hiệp định Pari được ký tắt, đã trắng trợn nói rằng Mỹ tiếp tục công nhận chính quyền Sài Gòn là “chính phủ hợp pháp duy nhất của Nam Việt Nam”. Mới đây, trong thông điệp về tình hình liên bang, ngày 30-01-1974, Níchxơn lại một lần nữa khẳng định rằng Mỹ “vẫn còn trách nhiệm” ở Việt Nam và Đông Dương, Mỹ sẽ “viện trợ kinh tế và tiếp tục cung cấp sự viện trợ quân sự cần thiết” cho chính quyền Sài Gòn. Mỹ vẫn tiếp tục dính líu quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam, vẫn tạo điều kiện bám lấy miền Nam một cách lâu dài, có điều khác là chúng không trực tiếp dùng quân viễn chinh Mỹ để đánh lại nhân dân ta mà là sử dụng ngụy quân, ngụy quyền với sự giúp đỡ và chỉ huy của Mỹ.
Chính sách mới của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam chính là sự vá víu lại chính sách “Việt Nam hóa” nhằm thực hiện âm mưu của Mỹ bằng phương pháp mới, thủ đoạn mới, trong điều kiện mới.
Đối với miền Bắc Việt Nam, Mỹ tiếp tục duy trì sự đe dọa bằng vũ lực, tìm cách kìm hãm sự phát triển về mọi mặt của ta, chia rẽ ta với các nước xã hội chủ nghĩa, với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia. Trong thế thất bại, buộc phải cam kết đóng góp vào việc hàn gắn những vết thương chiến tranh và xây dựng lại sau chiến tranh ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mỹ mưu toan dùng các thủ đoạn đóng góp kinh tế và bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và ta, nhằm kìm hãm ta, hạn chế vai trò của miền Bắc đối với cách mạng miền Nam cũng như đối với cách mạng Đông Dương nói chung.
Đồng thời, Mỹ tiếp tục duy trì sức mạnh với một lực lượng “ngăn đe thực tế” ở Đông Nam Á; mặt khác, dùng những thủ đoạn ngoại giao, kinh tế và “chính sách cân bằng lực lượng giữa các nước lớn” ở khu vực này nhằm kiềm chế phong trào cách mạng ở Việt Nam và Đông Dương.
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta để giữ gìn hòa bình và thi hành Hiệp định Pari chính là cuộc đấu tranh để chống lại học thuyết Níchxơn và chính sách của Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở Việt Nam. Đối tượng của cuộc đấu tranh đó là cả đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai phản động của chúng ở miền Nam Việt Nam. Đế quốc Mỹ là kẻ chủ mưu và là chỗ dựa của các thế lực tay sai của chúng. Tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu đại biểu cho giai cấp tư sản mại bản quan liêu, quân phiệt và tàn dư phong kiến phản động nhất ở miền Nam, là công cụ của Mỹ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Tập đoàn đó là sản phẩm của chiến tranh xâm lược và chính sách thực dân mới của Mỹ, có đặc quyền đặc lợi và ý thức phản động rất sâu sắc; quyền lợi và vận mệnh của nó gắn liền với chế độ thực dân mới thối nát của Mỹ, cho nên nó hết sức ngoan cố bám lấy đế quốc Mỹ và chống lại nhân dân ta.
Như vậy, cuộc đấu tranh mà nhân dân ta đang tiến hành ở miền Nam vừa là cuộc đấu tranh để hoàn thành độc lập dân tộc, vừa là cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh đó là một bộ phận của cuộc đấu tranh cách mạng nói chung của nhân dân ta trong giai đoạn mới. Cuộc đấu tranh đó tất yếu phải là một cuộc đấu tranh gay gắt và quyết liệt. Tính chất gay gắt và quyết liệt đó đã bộc lộ một cách rõ rệt trong năm qua, nó sẽ tiếp tục bộc lộ rõ rệt hơn nữa trong thời gian tới. Để đưa cuộc đấu tranh cách mạng của mình đến thắng lợi hoàn toàn, nhân dân ta còn phải trải qua một quá trình đấu tranh gian khổ và nhiều chặng đường quanh co khúc khuỷu. Đó là quá trình đẩy mạnh và kết hợp ba mặt đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, nhằm đánh bại từng chính sách, từng âm mưu và hành động cụ thể của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, buộc chúng phải lùi từng bước, đồng thời củng cố và tăng cường lực lượng cách mạng, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng theo hướng có lợi cho ta.
Hiện nay, ta đang ở thế thắng và thế đi lên, địch đang ở thế thua và thế đi xuống. Chúng ta có điều kiện và khả năng giữ vững và củng cố hòa bình, buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải thi hành Hiệp định, từng bước phát triển thực lực cách mạng, đưa sự nghiệp độc lập, dân chủ tiến lên giành những thắng lợi mới to lớn hơn.
Tuy nhiên, do âm mưu và bản chất ngoan cố của chúng, đế quốc Mỹ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu vẫn tiếp tục các hành động leo thang chiến tranh; tình hình đang còn diễn biến phức tạp. Nhân dân ta quyết nâng cao cảnh giác, sẵn sàng giáng trả và đập tan mọi hành động phiêu lưu quân sự mới của địch nếu chúng liều lĩnh gây ra.
Dù tình hình phát triển như thế nào, ta cũng phải củng cố và tăng cường lực lượng cách mạng về mọi mặt để thắng địch từng bước và chủ động trong mọi tình huống, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Lập trường nhất quán của Chính phủ ta là các bên ký kết đều phải tôn trọng triệt để và thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari về Việt Nam.
Chúng ta đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải tôn trọng lời cam kết của họ, thi hành nghiêm chỉnh tất cả các điều khoản của Hiệp định Pari về Việt Nam. Trước mắt, Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn sự dính líu quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam, chấm dứt việc đưa trái phép vũ khí và phương tiện chiến tranh vào miền Nam và rút hết cố vấn và nhân viên quân sự đội lốt dân sự ra khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt sử dụng chính quyền Sài Gòn phá hoại hòa bình, phá hoại Hiệp định. Đồng thời, họ phải chấm dứt việc dùng máy bay trinh sát miền Bắc, phải thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của họ trong việc đóng góp vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng lại sau chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính quyền Sài Gòn phải thực hiện ngay ba vấn đề cấp bách là triệt để ngừng bắn, trao trả hết nhân viên dân sự bị bắt và giam giữ, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân; đồng thời họ phải đáp ứng tích cực những đề nghị đúng đắn, hợp tình hợp lý mà Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra tại Hội nghị hiệp thương giữa hai bên miền Nam Việt Nam để giải quyết các vấn đề nội bộ miền Nam Việt Nam theo con đường Hiệp định đã vạch ra.
Phát huy thắng lợi đã giành được trong năm qua, trong thời gian tới, nhân dân ta ở hai miền quyết tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập và lập trường chính nghĩa, kiên quyết đấu tranh để Hiệp định Pari về Việt Nam được thi hành nghiêm chỉnh, giữ vững hòa bình lâu dài, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Ở miền Nam, như Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã nêu rõ, nhiệm vụ hiện nay của nhân dân ta là ra sức tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, tiếp tục đấu tranh trên ba mặt chính trị, quân sự và ngoại giao, tiến hành ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược nhằm chống lại mọi âm mưu và hành động của Mỹ và chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định, phá hoại hòa bình buộc chúng phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định nhằm thực hiện một miền Nam Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, phồn vinh, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Hiệp định Pari về Việt Nam là cơ sở chính trị và pháp lý rất quan trọng bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Muốn biến thắng lợi đã ghi trong Hiệp định thành hiện thực thì phải thông qua đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.
Thực tế một năm qua đã chứng minh rằng đẩy mạnh và kết hợp đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao là đúng đắn. Đẩy mạnh và kết hợp đấu tranh trên ba mặt trận đó, nhân dân ta ở miền Nam đã và đang phát huy sức mạnh tổng hợp của mình để thắng địch, để đẩy lùi và làm thất bại các thủ đoạn quân sự, chính trị, ngoại giao của chúng.
Trong khi đấu tranh đòi thi hành Hiệp định, nhân dân ta ở miền Nam ra sức giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt: tăng cường các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng, củng cố chính quyền cách mạng, tổ chức và phát triển các lực lượng chính trị của quần chúng, mở rộng Mặt trận đoàn kết toàn dân, củng cố và xây dựng vùng giải phóng. Vùng giải phóng phải được xây dựng vững mạnh cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa để làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam ta trong giai đoạn mới, đồng thời là ngọn cờ cổ vũ và hiệu triệu quần chúng trong vùng địch kiểm soát.
Tăng cường sức mạnh về mọi mặt của cách mạng miền Nam là điều có ý nghĩa quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam, trước mắt cũng như về lâu dài.
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa là căn cứ địa cách mạng rộng lớn của nhân dân cả nước ta. Xây dựng miền Bắc vững mạnh có tác dụng quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp hòa bình thống nhất nước nhà, có ảnh hưởng trực tiếp đối với cuộc đấu tranh để thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam. Mặt khác, đấu tranh để giữ gìn hòa bình, thi hành Hiệp định Pari đạt kết quả cũng tạo thuận lợi cho việc xây dựng miền Bắc.
Nhiệm vụ chung của miền Bắc trong giai đoạn mới là đoàn kết toàn dân, đấu tranh giữ vững hòa bình, ra sức tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, xây dựng miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, ra sức làm tròn nghĩa vụ của mình trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.
Trước mắt, nhân dân ta ở miền Bắc ra sức phấn đấu để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa về mọi mặt, ổn định tình hình kinh tế và đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng, ra sức chi viện cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng vùng giải phóng của đồng bào miền Nam.
Chúng ta thực hiện tốt những nhiệm vụ đó là nhằm tạo những điều kiện cần thiết để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với quy mô lớn và tốc độ nhanh, đồng thời tăng cường thực lực cách mạng trong cả nước, hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam.
Khi còn sống, Hồ Chủ tịch đã nói với đồng bào cả nước: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên” [1]; “một ngày nào miền Nam chưa được giải phóng, Tổ quốc ta chưa được thống nhất, nhân dân ta chưa được sung sướng, yên vui thì tất cả chúng ta vẫn phải đem hết tinh thần và nghị lực mà phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp cách mạng hoàn toàn thắng lợi”[2].
Chúng ta quyết tâm thực hiện lời dạy đó của Bác Hồ. Tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của đồng bào miền Bắc phải biến thành hành động cụ thể xây dựng miền Bắc vững mạnh về mọi mặt và làm trọn nghĩa vụ đối với cách mạng miền Nam. Chúng ta quyết xứng đáng với sự tin cậy và hy sinh của đồng bào miền Nam anh hùng.
Trong giai đoạn mới của cuộc đấu tranh của nhân dân ta, mặt trận ngoại giao có nhiệm vụ vừa phục vụ tốt công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa phục vụ tốt cuộc đấu tranh để thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế của nhân dân ta đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Chúng ta cần thực hiện tốt sự phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để làm tốt các nhiệm vụ này.
Đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, ngoại giao của Nhà nước và nhân dân đều phải phát huy tinh thần chủ động tích cực, ra sức tranh thủ mọi điều kiện quốc tế thuận lợi, góp phần tranh thủ viện trợ và quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài có lợi cho ta, đồng thời động viên phong trào sôi nổi của nhân dân thế giới giúp đỡ nhân dân ta hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng lại đất nước. Mặt khác, dựa vào Hiệp định Pari, ta tiếp tục đấu tranh buộc Mỹ thực hiện trách nhiệm đóng góp vào việc hằn gắn vết thương chiến tranh ở miền Bắc nước ta.
Đối với cuộc đấu tranh để thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, đấu tranh ngoại giao của ta cần nắm vững và vận dụng tốt cơ sở chính trị và pháp lý của Hiệp định, tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập và lập trường chính nghĩa, kiên quyết và kịp thời tố cáo mọi âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và tay sai vi phạm và phá hoại Hiệp định, đập tan mọi luận điệu vu cáo và đe dọa của chúng, làm rõ trách nhiệm của chúng đối với tình hình nghiêm trọng hiện nay ở miền Nam Việt Nam, cô lập chúng trên thế giới, đồng thời lợi dụng thế yếu và khó khăn của Mỹ, mâu thuẫn trong nội bộ tập đoàn thống trị Mỹ và mâu thuẫn giữa Mỹ và chính quyền Sài Gòn để gây sức ép buộc chúng thi hành Hiệp định; mặt khác ra sức tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ quốc tế đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta, đối với việc đề cao Chính phủ Cách mạng lâm thời và xây dựng vùng giải phóng, tạo điều kiện cho Cách mạng miền Nam phát triển thuận lợi trong mọi tình huống.
Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở hai miền thể hiện một cách phong phú và sinh động các mục tiêu đấu tranh của các lực lượng cách mạng trên phạm vi toàn thế giới. Đó vừa là cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, vừa là cuộc đấu tranh cho hòa bình dân chủ, vừa là cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội. Cho nên, nó hòa chung với ba trào lưu cách mạng trên thế giới và vẫn là một mũi tiến công mạnh mẽ vào chủ nghĩa đế quốc Mỹ và chính sách thực dân mới của chúng. Nhân dân ta đấu tranh để thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam và hoàn thành nhiệm vụ cách mạng của mình là vì lợi ích của dân tộc ta, cũng vì lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta là ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của một dân tộc anh hùng đã đánh thắng tên đế quốc đầu sỏ, kẻ thù chung của nhân dân thế giới, cũng là vì sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của bản thân họ.
Chúng ta kiên quyết làm thất bại âm mưu của đế quốc Mỹ bao vây và cô lập cách mạng Việt Nam, chia rẽ ta với bạn bè trên thế giới; chúng ta ra sức phấn đấu để mặt trận nhân dân thế giới; đoàn kết với nhân dân ta và ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của ta ngày càng củng cố và phát triển. Chúng ta vận dụng kinh nghiệm về mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược trước đây để phát động phong trào sâu rộng trên thế giới giúp đỡ và ủng hộ nhân dân Việt Nam xây dựng lại đất nước và đấu tranh để thi hành Hiệp định Pari.
Chúng ta ra sức củng cố và không ngừng tăng cường khối đoàn kết không gì lay chuyển nổi giữa nhân dân ba nước Đông Dương.
Ba dân tộc Việt Nam, Lào và Campuchia có mối quan hệ lâu đời; đó là mối quan hệ giữa những người anh em láng giềng gần gũi, giữa những người bạn chiến đấu cùng chung một kẻ thù là bọn thực dân, đế quốc, cùng có một mục tiêu đấu tranh là độc lập, tự do, cùng có một sức mạnh là khối đoàn kết keo sơn giữa ba dân tộc. Mỗi nước Đông Dương không thể bảo vệ độc lập và xây dựng đất nước mình một cách thắng lợi khi một trong ba nước còn bị đế quốc can thiệp và xâm lược.
Ngày nay, thực hiện học thuyết Níchxơn, đế quốc Mỹ đang ra sức dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt và thâm độc hòng chia rẽ khối đoàn kết của nhân dân ba nước. Trong tình hình đó, nhiệm vụ tiếp tục củng cố và tăng cường đoàn kết nhân dân Đông Dương là vô cùng quan trọng. Đó là nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi của nhân dân ba nước trong sự nghiệp cách mạng của mình. Chúng ta ra sức xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa nhân dân ba nước mà nội dung thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, phối hợp và giúp nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ và hợp tác lâu dài với nhau để xây dựng đất nước theo con đường thích hợp với mỗi nước. Chúng ta tăng cường phối hợp cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước nhằm buộc Mỹ phải thi hành nghiêm chỉnh các Hiệp định đã ký kết, chấm dứt chính sách xâm lược và can thiệp ở toàn Đông Dương, để nhân dân mỗi nước Đông Dương tự giải quyết công việc nội bộ của mình và cùng nhau giải quyết các vấn đề liên quan giữa ba nước.
Chúng ta ra sức tăng cường đoàn kết và hợp tác với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đoàn kết với tất cả các lực lượng độc lập, dân tộc và hòa bình dân chủ trên thế giới.
Các nước xã hội chủ nghĩa là đồng minh chiến lược của ta. Đoàn kết và hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh em là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam. Chính sách trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường đoàn kết hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, trước hết là với Liên Xô, Trung Quốc, hết lòng hết sức góp phần vào việc khôi phục và củng cố sự đoàn kết của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình. Hiện nay, trong quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đã và đang nảy ra một số vấn đề phức tạp, kể cả những vấn đề do lịch sử để lại; chúng ta mong muốn và kiên trì chủ trương giải quyết mọi vấn đề tranh chấp bằng phương pháp thương lượng trên tinh thần bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm giữ vững mối quan hệ anh em đoàn kết, hữu nghị và hợp tác.
Chúng ta ra sức tăng cường đoàn kết và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta để giữ vững hòa bình, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
Phong trào giải phóng dân tộc và các nước mới giành được độc lập ở khu vực Á, Phi và Mỹ Latinh là đồng minh của cách mạng Việt Nam, đã trực tiếp hoặc gián tiếp ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta để giữ gìn hòa bình, thi hành Hiệp định Pari. Chúng ta tăng cường đoàn kết và tích cực ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới.
Đông Nam Á là khu vực tiếp giáp với Việt Nam và Đông Dương. Tình hình ở khu vực này có tác động trực tiếp đến cách mạng của nhân dân ba nước Đông Dương. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam và Đông Dương cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nước Đông Nam Á chống chính sách thực dân mới của Mỹ, chống chế độ độc tài, quân phiệt trong nước lệ thuộc Mỹ, đòi độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập. Ngược lại, thắng lợi của phong trào đấu tranh của nhân dân các nước Đông Nam Á góp phần làm thất bại học thuyết Níchxơn ở khu vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Chúng ta hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân các nước Đông Nam Á cho độc lập và tự do, chống lại sự can thiệp và khống chế của đế quốc Mỹ, tiến tới một Đông Nam Á hòa bình, độc lập và trung lập thật sự.
Chúng ta kiên quyết ủng hộ phong trào của giai cấp công nhân và nhân dân các nước tư bản chủ nghĩa đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Chúng ta hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội của nhân dân toàn thế giới.
Chúng ta quyết tâm làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình
để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Để làm tốt những công tác trên đây, chúng ta hết sức chú ý công tác xây dựng ngành ngoại giao. Trên cơ sở quán triệt tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, cán bộ ngoại giao cần phát huy khí thế cách mạng, ra sức nâng cao trình độ của mình, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ trên mặt trận ngoại giao.
*
* *
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Thắng lợi mà nhân dân ta giành được trong năm qua là thắng lợi của cuộc đấu tranh trên ba mặt trận trong giai đoạn mới. Đó cũng là thắng lợi của tình đoàn kết vững bền giữa nhân dân ta với nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, với nhân dân Đông Dương và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Thắng lợi đó chứng tỏ đường lối và chính sách đúng đắn của Đảng và Chính phủ ta. Đảng ta có đường lối đúng đắn trong việc lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong việc kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến đó, cũng có đường lối đúng đắn trong việc lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh để giữ gìn hòa bình, thi hành Hiệp định trong giai đoạn mới. Với đường lối độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, Đảng ta đã kết hợp nhuần nhuyễn lòng yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế vô sản cao cả.
Giữ gìn hòa bình lâu dài, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc là nhiệm vụ nặng nề nhưng vô cùng vinh quang của dân tộc ta. Chúng ta quyết nâng cao tầm vóc của mình ngang với yêu cầu của tình hình mới và nhiệm vụ mới, đem hết tinh thần và nghị lực hoàn thành tốt mọi công tác mà Đảng và Chính phủ đề ra nhằm đưa sự nghiệp của toàn dân tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trên đoạn đường mới của lịch sử nước nhà.
Trong Di chúc của Người, Hồ Chủ tịch có viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Với khí thế cách mạng hào hùng của cả nước, toàn dân ta quyết thực hiện cho kỳ được Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu.
Thế cách mạng của nhân dân ta rất tốt. Chúng ta nhất định thắng lợi, nhất định làm tròn sứ mạng lịch sử vẻ vang của mình: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam và thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.