VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP II 1960 - 1964

BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ
TẠI KỲ HỌP THỨ 2, QUỐC HỘI KHOÁ II

(Do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày,
ngày 12-7-1961)

 

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tôi xin nhiệt liệt chào mừng Quốc hội, chào mừng các đồng chí
đại biểu, chúc kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khoá II thành công tốt đẹp.

Kỳ họp này của Quốc hội có ý nghĩa quan trọng: đó là kỳ họp đầu năm 1961, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của nước ta.

Tôi xin trình trước Quốc hội báo cáo của Chính phủ, Báo cáo gồm ba phần:

- Nhà nước dân chủ nhân dân và sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

- Phong trào yêu nước của đồng bào ta ở miền Nam và sự nghiệp hoà bình thống nhất Tổ quốc.

- Tình hình quốc tế và hoạt động đối ngoại của nước ta.

NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ NHÂN DÂN VÀ
SỰ NGHIỆP XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC

 

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Hoàn thành thắng lợi kế hoạch 1958 - 1960

Nhìn lại ba năm qua, chúng ta vô cùng phấn khởi nhận thấy đó là thời gian thắng lợi về mọi mặt của nhân dân ta ở miền Bắc, đưa đến những biến chuyển mới của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trong vòng ba năm, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định. Chúng ta đặc biệt nêu cao thành tích to lớn của cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp, chứng tỏ đường lối đúng đắn của Đảng và nhiệt tình cách mạng của nông dân lao động miền Bắc nước ta. Nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch 1958 - 1960  nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đã được hoàn thành tốt đẹp, tạo ra quan hệ sản xuất mới, làm sức mạnh thúc đẩy sức sản xuất phát triển, mở đường cho xã hội tiến lên.

Đó là thành tựu cách mạng, có tính chất lịch sử của nhân dân ta; đó là thắng lợi to lớn nhất ba năm qua, là nhân tố mới mẻ nhất xuất hiện đầu năm 1961. Kinh tế quốc doanh trong ba năm qua đã không ngừng mở rộng một cách nhanh chóng. Cuối năm 1960, trong nông nghiệp, các nông trường quốc doanh đang có đà phát triển mạnh mẽ, còn trong các ngành kinh tế khác, kinh tế quốc doanh đã chiếm từ 80 đến 100%. Nền kinh tế quốc dân gồm nhiều thành phần phức tạp trước đây, nay đã trở thành một nền kinh tế căn bản thuần nhất, xã hội chủ nghĩa và nửa xã hội chủ nghĩa, trong đó lực lượng kinh tế quốc doanh lớn mạnh đã nắm chắc vai trò lãnh đạo. Các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát huy đầy đủ tác dụng trên cơ sở thuận lợi ấy.

Đi đôi với đà cải tạo xã hội chủ nghĩa, và sự lớn mạnh của kinh tế quốc doanh, nền nông nghiệp và công nghiệp đã phát triển với tốc độ nhanh, theo phương hướng đúng, với tỷ trọng nói chung là cân đối. Trong ba năm, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 5,6%, giá trị sản lượng công nghiệp tăng hàng năm 21,7%, trong đó giá trị sản lượng công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất tăng hàng năm 35%. Thoát dần tình trạng độc canh, nông nghiệp đã vươn lên theo phương châm toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Những cơ sở bước đầu của nhiều ngành công nghiệp nặng dần dần xuất hiện. Những ngành trọng yếu của công nghiệp nhẹ đã phát triển mau chóng. Tỷ trọng của công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công nông nghiệp từ chỗ chưa được 1/5 năm 1957, đã tiến lên trên 2/5 năm 1960. Đó là những biến chuyển rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế miền Bắc. Tất cả các ngành kinh tế quốc dân; giao thông vận tải, nội thương, ngoại thương, tài chính, ngân hàng, đều phát triển song song với nông nghiệp và công nghiệp.

Cuộc cách mạng văn hoá đã được đẩy mạnh, đưa lại nhiều thành tích quan trọng về mọi mặt: giáo dục, đào tạo cán bộ, bước đầu nghiên cứu khoa học và kỹ thuật; văn hoá, văn học nghệ thuật; phòng bệnh, chữa bệnh; thể dục, thể thao.

Nhà nước dân chủ nhân dân trong ba năm qua không ngừng được tăng cường; vai trò làm chủ Nhà nước của nhân dân tiếp tục được nâng cao, sinh hoạt dân chủ trong nhân dân tiếp tục mở rộng; trật tự trị an xã hội được giữ vững, những phần tử xấu bước đầu được cải tạo, bọn phản cách mạng dần dần bị quét sạch. Công tác củng cố quốc phòng thu được thành tích tốt trong việc xây dựng quân đội thường trực tiến dần lên chính quy và hiện đại; trong việc củng cố, phát triển và huấn luyện dân quân tự vệ; trong việc thi hành nghĩa vụ quân sự, và bước đầu tổ chức, huấn luyện quân dự bị.

Những thắng lợi về kinh tế và văn hoá đã thay đổi bộ mặt xã hội và chính trị miền Bắc: chế độ người bóc lột người về căn bản đã bị xoá bỏ: phần rất lớn nhân dân ta đã trở thành những người lao động được giải phóng, mức sống vật chất và văn hoá của nhân dân được cải thiện một bước so với trước, khối liên minh công nông được củng cố, sự đoàn kết nhất trí của các tầng lớp nhân dân và các dân tộc được tăng cường; lòng yêu nước và nhiệt tình lao động xã hội chủ nghĩa của nhân dân miền Bắc tăng lên rõ rệt.

Trong quá trình cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá ba năm qua, lực lượng về mọi mặt của Đảng, của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân lớn mạnh hơn nhiều, năng lực lãnh đạo của Đảng và Nhà nước được nâng cao, uy tín của Đảng và Nhà nước trong nhân dân ngày càng sâu rộng.

Nguyên nhân chủ yếu đã đưa lại những thắng lợi to lớn trên đây là đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng. Nhìn lại suốt quá trình từ Cách mạng tháng Tám, qua kháng chiến, đến thời kỳ khôi phục kinh tế và hoàn thành cải cách ruộng đất, rồi chuyển sang ba năm cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá vừa qua, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đã phát triển không ngừng, theo đường lối đúng đắn, với những bước đi ăn khớp, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đúng đắn đó là kết quả của việc vận dụng có sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm của các nước anh em vào điều kiện cụ thể nước ta.

Đường lối đúng của Đảng là nguồn phấn khởi và nguồn sức mạnh của quần chúng nhân dân. Thành tích to lớn thu được về mọi mặt là sự nghiệp của quần chúng, là kết quả của sức đấu tranh cách mạng và lao động, sáng tạo của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ đứng đầu là Hồ Chủ tịch. Ba năm phấn đấu vừa qua càng tỏ rõ quần chúng nhân dân nước ta, công nhân, nông dân, quân đội, lao động trí óc, các tầng lớp lao động khác, đều giầu lòng yêu nước và tinh thần cách mạng, tha thiết gắn bó với chế độ, không sợ khó khăn, gian khổ, hăng hái phấn đấu dưới ngọn cờ của Đảng để hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng, tiến tới giành những thắng lợi mới, to lớn hơn.

Đồng thời, chúng ta nhận thấy rõ rệt rằng mỗi bước tiến của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều không thể tách khỏi sự lớn mạnh của cả phe xã hội chủ nghĩa, không thể tách khỏi sự giúp đỡ to lớn và vô cùng quý báu của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác.

Nhìn lại ba năm qua, chúng ta vui mừng nhận thấy thắng lợi và thành tích là chủ yếu, nhưng chúng ta cũng nhìn thấy những khó khăn trước mắt cần khắc phục: hợp tác xã sản xuất nông nghiệp chưa được củng cố và phần lớn còn ở bậc thấp, quy mô còn nhỏ; sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu và lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên; cơ sở công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng, còn yếu, năng lực quản lý công nghiệp còn kém, lực lượng kỹ thuật rất thiếu; trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của nhân dân mới ở bước đầu, trình độ văn hoá và kỹ thuật còn thấp.

Một mặt khác, chúng ta phải nhìn thấy sâu sắc những khuyết điểm và nhược điểm của chúng ta, nhìn thấy những nguyên nhân, và nhìn thấy phương hướng và những biện pháp nhằm khắc phục những khuyết điểm và nhược điểm ấy.

Đường lối cách mạng, đường lối chính trị của Đảng là đúng, nhưng trong việc thực hiện đường lối đó, chúng ta chưa giải quyết tốt và kịp thời mọi vấn đề về chính sách cụ thể, về tổ chức và chỉ đạo thực hiện, về công tác tư tưởng. Ở đây, chúng ta cần nhấn mạnh những thiếu sót của chúng ta trong việc tổ chức và chỉ đạo thực hiện, trong việc quy định và chấp hành nghiêm chỉnh chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật theo đúng nguyên tắc tổ chức của Nhà nước là tập trung dân chủ, trong việc tổ chức kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề.

Chúng ta nhận rõ rằng từ một nước trước đây là thuộc địa và nửa phong kiến, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta gặp phải nhiều khó khăn và trở ngại rất to lớn. Sự vĩ đại của sự nghiệp chúng ta chính là ở chỗ chúng phải vươn lên vượt qua những khó khăn trở ngại to lớn ấy; và đó là quá trình cố gắng, quá trình khắc phục những khuyết điểm và nhược điểm của chúng ta, quá trình tăng cường năng lực tổ chức và quản lý của Nhà nước đối với mọi mặt hoạt động của nhân dân ta.

Đại hội lần thứ III của Đảng

Cuối năm 1960, một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng đã diễn ra trong đời sống của nhân dân nước ta: đó là Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội đã quyết định nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, vạch ra đường lối cách mạng ở miền Bắc, đường lối cách mạng ở miền Nam và đường lối hoà bình thống nhất nước nhà.

Về đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, nghị quyết của Đại hội chỉ rõ :

Phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ, và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến”.

Đại hội xác định nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm hai mặt liên quan khăng khít với nhau, thúc đẩy nhau phát triển, là cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội nhấn mạnh rằng cải tạo xã hội chủ nghĩa, mà khâu chính là cải tạo nông nghiệp, phải được xem như một nhiệm vụ cơ bản trong suốt thời kỳ quá độ, và trong những năm đầu, đó là nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải tiến hành theo phương châm, chính sách đúng đắn, nhằm xoá bỏ bóc lột, giải phóng sức sản xuất, tổ chức lại lao động trên cơ sở mới, không ngừng cải tiến quan hệ sản xuất mới và phát triển sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến triển mạnh mẽ.

Đại hội vạch rõ rằng công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở nước ta, và điểm mấu chốt trong công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Có ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mới có thể cung cấp những tư liệu sản xuất cho công nghiệp và nông nghiệp, bảo đảm thực hiện không ngừng tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa, phát triển đến cao độ nền kinh tế quốc dân, cải thiện không ngừng đời sống của nhân dân lao động.

Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa không phải chỉ là đơn thuần xây dựng công nghiệp hiện đại, mà còn phải làm cho nông nghiệp và các ngành kinh tế khác đều trở thành hiện đại. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc chính là nhằm xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng. Công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng, phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp, nông nghiệp phải cung cấp lương thực, nguyên liệu và tạo ra thị trường rộng lớn để thúc đẩy công nghiệp phát triển một cách mạnh mẽ và nhanh chóng. Vì vậy, phải kết hợp chặt chẽ kinh tế công nghiệp với kinh tế nông nghiệp, giải quyết đúng đắn quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

Đi đôi với cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật. Cuộc cách mạng tư tưởng nhằm làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nước ta và trở thành hệ tư tưởng của toàn dân, làm cơ sở cho nền đạo đức mới của nhân dân ta. Cuộc cách mạng văn hoá và kỹ thuật một mặt nhằm nâng cao không ngừng trình độ văn hoá và kỹ thuật của nhân dân lao động, một mặt nhằm xây dựng và phát triển những tổ chức chuyên nghiên cứu những vấn đề khoa học và kỹ thuật của nước ta; đó là hai mặt của sự nghiệp xây dựng một nền văn hoá, khoa học và kỹ thuật hiện đại.

Căn cứ vào đường lối chung của Đảng, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) là ra sức phấn đấu để thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho kinh tế miền Bắc nước ta thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất mở ra một thời kỳ mới trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, và là một bước rất quan trọng trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta quyết thực hiện tốt, thực hiện vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất để mở đầu thuận lợi cho những kế hoạch dài hạn tiếp sau, do đó mà đưa nhân dân miền Bắc nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên một đời sống no ấm, hạnh phúc, tăng cường lực lượng miền Bắc, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh để hoà bình thống nhất nước nhà.

Kế hoạch nhà nước năm 1961

1961, năm bắt đầu kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, có ý nghĩa và vị trí quan trọng. Những biến chuyển cách mạng trong quan hệ sản xuất và cơ cấu kinh tế, trong xã hội và tư tưởng đương tiếp diễn và phát huy tác dụng thuận lợi về mọi mặt. Chúng ta bắt tay vào việc thực hiện nghị quyết của Đại hội của Đảng và những nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm. Tất cả những điều đó được thể hiện trong kế hoạch nhà nước 1961. Như vậy, rõ ràng 1961 không phải là một năm bình thường, 1961 đòi hỏi chúng ta phải có những cố gắng và những tiến bộ phi thường để đáp ứng những yêu cầu mới và những nhiệm vụ mới của sự nghiệp cách mạng. Và chúng ta quyết thoả mãn được những yêu cầu đó, làm tròn được những nhiệm vụ đó, bởi vì chúng ta có những lực lượng mới và những khả năng mới. Từ đầu năm lại đây, mọi người chúng ta đều có suy nghĩ, có thảo luận về những vấn đề rất quan trọng và rất thiết thực của năm 1961, và mọi người chúng ta đều nhất trí nhận định rằng sự nghiệp cách mạng của chúng ta đã lớn lên và đòi hỏi mọi ngành, mọi người chúng ta cũng phải lớn lên ngang với sự nghiệp cách mạng ấy. Tóm lại, 1961 đúng là năm làm cơ sở và làm đà cho những cố gắng và tiến bộ mới, to lớn hơn trước, nhằm thực hiện vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Về toàn bộ kế hoạch nhà nước năm 1961, Chính phủ có báo cáo riêng trình Quốc hội. Ở đây, chỉ nêu lên mấy điểm về nhiệm vụ của kế hoạch.

Trong năm 1961, phương hướng hợp tác hoá nông nghiệp là tích cực củng cố và phát triển hợp tác xã để đẩy mạnh sản xuất; điều đó có nghĩa là phải lấy việc củng cố hợp tác xã, tăng cường quan hệ sản xuất mới bằng cách tăng cường lực lượng hợp tác xã về mọi mặt, và việc mở rộng quy mô hợp tác xã đi đôi với việc phát triển sản xuất làm nhiệm vụ trọng tâm, đồng thời đưa những nông dân còn làm ăn riêng lẻ vào hợp tác xã, ra sức đào tạo cán bộ lãnh đạo và quản lý hợp tác xã.

Đi đôi với phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, phải ra sức đẩy mạnh hơn nữa nông nghiệp phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, trước hết ra sức đẩy mạnh sản xuất lương thực, đồng thời đẩy mạnh sự phát triển của các ngành nông nghiệp khác: cây công nghiệp, chăn nuôi, nghề cá, nghề rừng, nghề phụ.

Nhiệm vụ sản xuất công nghiệp là thực hiện một bước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Phải đặc biệt quan tâm tận dụng mọi lực lượng cơ khí để sản xuất các loại thiết bị, máy móc và công cụ cải tiến mà ta tự làm được, nhằm cung cấp một phần tư liệu sản xuất cho các ngành kinh tế quốc dân. Phải ra sức làm tốt hơn nữa công tác quản lý công nghiệp, chú trọng cải tiến quản lý kỹ thuật, tận dụng khả năng của thiết bị sẵn có, tích cực giải quyết vấn đề nguyên liệu, để nâng cao năng suất, hạ giá thành, tăng chất lượng, thực hiện khẩu hiệu sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ.

Nhiệm vụ về xây dựng cơ bản là đẩy mạnh hơn nữa tốc độ xây dựng, tập trung lực lượng vào các công trình trọng điểm, tăng cường công tác quản lý xây dựng cơ bản để nâng cao chất lượng và hạ giá thành của các công trình, bảo đảm hoàn thành xây dựng đúng thời hạn, sớm đưa vào sản xuất, đưa vào hoạt động những xí nghiệp mới, những cơ sở kinh tế và văn hoá mới.

Đi đôi với đà phát triển nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng cơ bản, phải đẩy mạnh hoạt động cân đối, nhịp nhàng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đẩy mạnh hoạt động giao thông vận tải, nội thương, ngoại thương, tài chính ngân hàng, nhằm tích cực phục vụ sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân.

Trong năm 1961, phải ra sức phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, tích cực đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, chú trọng phát triển công tác nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, đẩy mạnh điều tra cơ bản có trọng điểm.

Phải tiếp tục tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân, không ngừng nâng cao cảnh giác, tiếp tục giáo dục và cải tạo những phần tử xấu, tiếp tục trấn áp bọn phản cách mạng, giữ vững trật tự trị an, ra sức củng cố quốc phòng.

Trong khi thực hiện những nhiệm vụ trên đây, phải coi trọng công tác ở miền núi, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp ở miền núi trên cơ sở củng cố và phát triển hợp tác xã, phát triển công nghiệp quốc doanh địa phương và thủ công nghiệp, mở rộng giao thông vận tải, phát triển văn hoá, ra sức đào tạo cán bộ miền núi, tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc và cải thiện đời sống của nhân dân miền núi.

Tốc độ phát triển cao hơn những năm trước một cách rõ rệt về nông nghiệp, công nghiệp cũng như các ngành khác, ghi trong chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước năm 1961, là sự biểu hiện tập trung của ý chí cách mạng của nhân dân ta, quyết tâm tiến tới nhanh chóng, mạnh mẽ và vững chắc. Việc thực hiện những chỉ tiêu ấy sẽ tạo ra khả năng để thiết thực cải thiện hơn nữa đời sống của nhân dân lao động miền Bắc, tăng cường lực lượng của miền Bắc về mọi mặt, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh để hoà bình thống nhất Tổ quốc.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Cải thiện đời sống của nhân dân

Mục đích của toàn bộ hoạt động của chúng ta là đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế và văn hoá, để cải thiện đời sống của nhân dân.

Từ khi hoà bình lập lại, trong vòng 6 năm, đời sống của nhân dân lao động miền Bắc đã được nâng cao một bước. Bình quân thu hoạch về lương thực năm 1955 là 287kg, đến năm 1959 là 367kg, và năm 1960, mặc dù bị thiên tai nặng, con số là 304kg; ở đây nên chú ý một điều: nhân khẩu ở miền Bắc mỗi năm tăng quãng nửa triệu người. Ở thành thị, trong vòng ba năm, từ 1957 đến cuối năm 1960, tiền lương thực tế của công nhân viên chức tăng 28,1%. Bình quân số người có việc làm thường xuyên trong mỗi gia đình năm 1957 là hơn 1 người, đến năm 1960 là gần 2 người. Ở nông thôn, đời sống của nông dân lao động đã được nâng cao một bước so với trước: Năm 1959, thu nhập thực tế của một nhân khẩu bần nông ở đồng bằng Bắc bộ là 134 đồng, nghĩa là gấp hơn hai lần hồi Pháp thuộc, và bằng 90% thu nhập của trung nông1. Đi đôi với đà phát triển của cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp, tất cả nông dân miền Bắc sẽ trở thành những người nông dân tập thể, có đời sống ngày càng nâng cao, dần dần đuổi kịp và vượt mức sống của trung nông khá.

Việc cải thiện đời sống nhân dân về mặt văn hoá, xã hội cũng rất rõ rệt. Hãy nêu lên mấy con số tiêu biểu: dưới chế độ cũ, trong 100 người dân, chỉ có 3 người được đi học; cuối năm 1960, ở miền Bắc, trong 100 người dân, đã có 25 người đi học, trong đó 18 người học ở các trường và 8 người theo các lớp bổ túc văn hoá. Dưới chế độ cũ, cứ trong 100 trẻ em mới đẻ, thì có từ 45 đến 48 em bị chết. Hiện nay, trong 100 trẻ em mới đẻ, chúng ta đã nuôi được 94 em, và chúng ta còn cố gắng để có thể nuôi được nhiều hơn nữa2. Dưới chế độ cũ, tỷ lệ tăng dân số hàng năm là 1,34%, ngày nay, tỷ lệ ấy đã lên đến trên 3%.

Đời sống của nhân dân lao động miền Bắc ở nông thôn và thành thị, ở miền xuôi và miền núi được nâng cao rõ rệt, đó là thành tích vĩ đại của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, chứng tỏ tính hơn hẳn của chế độ ta, chứng tỏ khả năng của nhân dân ta từ tay mình tạo ra đời sống no ấm, hạnh phúc cho mình. Tất nhiên, chúng ta chưa thoả mãn với thành tích ấy. Chúng ta không quên rằng hiện nay, đời sống của nhân dân vẫn còn thiếu thốn, khó khăn, và chúng ta có nhiệt tình rất lớn, quyết tâm rất cao để không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân ta.

Nguyên nhân sâu xa của tình trạng đời sống còn khó khăn là di sản khốc hại của chế độ cũ, đã đầy đoạ nhân dân ta hàng thế kỷ trong một đời sống cùng cực, và đã để lại cho chúng ta một cơ sở kinh tế rất lạc hậu. Hiện nay, chúng ta mới đang dần dần thoát khỏi sự lệ thuộc vào nước ngoài về hàng tiêu dùng. Trong nông nghiệp, chúng ta chưa khắc phục được thiên tai một cách căn bản, mùa màng còn bấp bênh, và hễ mất mùa nặng như trong năm 1960, thì không tránh khỏi những ảnh hưởng mà ai nấy đều trông thấy.

Cách đặt và giải quyết vấn đề đời sống của chúng ta là đứng trên quan điểm cách mạng, chúng ta phấn đấu để nâng cao không ngừng đời sống của tất cả mọi người trong xã hội, trước nhất là nâng cao đời sống của nhân dân lao động, chứ không phải chỉ lo riêng cho một lớp người nào, như trong chế độ cũ, chế độ người bóc lột người.

Đường lối đúng đắn nhất và bảo đảm nhất để cải thiệt đời sống của nhân dân là ra sức đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế và văn hoá. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình không ngừng nâng cao đời sống của người lao động. Trong quá trình ấy, tất cả các cơ quan có trách nhiệm phải chăm lo hơn nữa khắc phục những nhược điểm và thiếu sót của mình để góp phần cải thiện hơn nữa đời sống nhân dân.

Cũng theo quan điểm ấy, toàn thể nhân dân lao động miền Bắc nước ta hãy nêu cao ý thức làm chủ, nêu cao tinh thần cần kiệm xây dựng nước nhà, mọi người ra sức lao động sản xuất, góp phần lớn nhất vào việc cải thiện đời sống chung của nhân dân, trong đó có đời sống của bản thân mình. Nhân dân ta hãy nêu cao tinh thần cách mạng, phấn đấu gian khổ, vượt mọi khó khăn trong sản xuất và trong đời sống, vững bước tiến tới xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, xây dựng đời sống ngày càng tươi đẹp, xây dựng lực lượng của miền Bắc về mọi mặt làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh để hoà bình thống nhất Tổ quốc.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Nhà nước và sự nghiệp xã hội chủ nghĩa

Bước vào năm 1961, sau khi hoàn thành thắng lợi kế hoạch ba năm cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, chúng ta đứng trước những biến chuyển cách mạng to lớn trong nền kinh tế quốc dân, nhất là về mặt quan hệ sản xuất, và trong tình hình xã hội, trong cấu tạo giai cấp, mà Nhà nước dân chủ nhân dân chúng ta phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc để quán triệt nhận thức đó trong mọi hoạt động của mình.

Hãy nói trước về biến chuyển cách mạng trong quan hệ sản xuất.

Hiện nay, ở miền Bắc quan hệ sản xuất đương trở nên hoàn toàn xã hội chủ nghĩa trong thời gian rất ngắn; nền kinh tế quốc dân trước đây có nhiều thành phần đương trở nên một nền kinh tế thuần nhất, xã hội chủ nghĩa, dựa trên sở hữu của toàn dân (kinh tế quốc doanh) và sở hữu tập thể (kinh tế hợp tác xã), hai hình thức sở hữu này tuy có khác nhau về trình độ xã hội hoá nhưng rất gần nhau và sẽ ngày càng gần nhau, vì cả hai đều là sở hữu công cộng đối với tư liệu sản xuất.

Đó là một biến chuyển cách mạng có ý nghĩa lịch sử, ở chỗ chế độ người bóc lột người căn bản bị xoá bỏ, phần rất lớn nhân dân ta là những người lao động đã được giải phóng, và đương trở thành những người lao động xã hội chủ nghĩa: những người công nhân, những người nông dân tập thể và những người trí thức xã hội chủ nghĩa.

Xã hội hoá tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu của toàn dân và sở hữu của tập thể là tạo cơ sở để vận dụng một cách đầy đủ và rộng rãi những quy luật của kinh tế xã hội chủ nghĩa: phát triển kinh tế một cách có kế hoạch, cân đối, nhịp nhàng và với tốc độ nhanh, nhằm không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, phát huy mọi tài năng của con người, thực hiện sự hợp tác tương trợ theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa để cùng nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã hình thành phải có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sức sản xuất phát triển, đó là kết luận quan trọng bậc nhất cần nêu lên hàng đầu trước những biến chuyển cách mạng đương diễn ra trong đời sống kinh tế ở miền Bắc nước ta.

Nhà nước và sự chuyển biến cách mạng về quan hệ sản xuất và cơ cấu kinh tế

Hơn lúc nào hết Nhà nước dân chủ nhân dân của chúng ta phải ra sức phát huy tác dụng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa để phát triển sức sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp, trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện từng bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, từng bước xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Trên đây, đã nhắc nghị quyết của Đại hội Đảng về đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ở đây cần nhấn mạnh ý: muốn đạt mục tiêu ấy, nghĩa là xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa làm cơ sở cho sự nghiệp hoà bình thống nhất Tổ quốc, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản.

Ba năm qua sức sản xuất ở miền Bắc nước ta phát triển mạnh mẽ và đã đưa đến những biến đổi quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, trong cơ cấu của công nghiệp, trong tỷ trọng so sách giữa công nghiệp và nông nghiệp. Nhưng chỉ trong mấy năm, chúng ta chưa xoá bỏ được tình trạng lạc hậu về kinh tế và kỹ thuật của nước ta, di sản của những chế độ cũ. Mặt khác, song song với việc xuất hiện những khả năng mới, những thuận lợi mới rất to lớn và căn bản, thì nhiều yêu cầu mới cũng đang đề ra trong các ngành sản xuất và kinh tế, đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời. Chúng ta càng phải dựa vào quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa để đẩy mạnh sức sản xuất phát triển nhằm biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến.

Đại hội đã nhấn mạnh tầm quan trọng to lớn của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời Đại hội đã vạch phương hướng rất đúng đắn để phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân: “xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”.

Chúng ta phải có ý thức sâu sắc về vai trò chủ đạo của công nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, ra sức phát huy những nhân tố mới trong công nghiệp, khai thác khả năng tiềm tàng to lớn của công nghiệp, đẩy mạnh phong trào thi đua của công nhân, nhằm thúc đẩy công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, chúng ta chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm nhiệm vụ trọng tâm, trong khi công nghiệp nói chung mới chiếm 41% và công nghiệp hiện đại mới chiếm 20% trong tổng giá trị sản lượng công nông nghiệp. Điều đó càng nhắc nhở chúng ta phải hết sức coi trọng công nghiệp. Coi trọng công nghiệp tức là coi trọng việc tạo ra cơ sở vật chất và kỹ thuật cho mọi ngành: sản xuất, xây dựng, vận tải và thương nghiệp, tức là coi trọng tương lai của cả nền kinh tế quốc dân. Coi trọng công nghiệp cũng tức là coi trọng tăng cường kinh tế quốc doanh, tăng cường lực lượng kinh tế của Nhà nước, để có thể giúp đỡ nhiều hơn cho kinh tế hợp tác xã, đẩy mạnh việc hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới.

Nhấn mạnh sự cần thiết phát triển công nghiệp, từng bước thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa có nghĩa là coi nhẹ nông nghiệp không? Không! Chúng ta luôn luôn coi trọng nông nghiệp, mấy năm trước đây như vậy, bây giờ và sau này cũng như vậy. Hơn nữa dần dần chúng ta biết coi trọng nông nghiệp một cách thiết thực, có hiệu quả để bảo đảm sự phát triển của nông nghiệp đúng phương châm toàn diện, mạnh mẽ, và vững chắc. Mấu chốt của vấn đề là quán triệt trong nhận thức và hành động mối quan hệ khăng khít giữa công nghiệp và nông nghiệp. Kinh nghiệm sinh động trước mắt dạy chúng ta rằng để phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng phải góp phần giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của nông nghiệp như vấn đề nước, vấn đề nông cụ, vấn đề phân bón, vấn đề sức kéo, v.v.. Hãy nhìn thấy rõ một sự thật. Trong điều kiện mỗi người nông dân chỉ có vài ba sào đất, một cái cầy chìa vôi và một phần con trâu, thì chúng ta làm được cái gì? Những người nông dân đã tổ chức lại và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp đương tiến tới như gió “Đại phong”? Đúng! và chính vì vậy mà người nông dân tập thể cũng như chúng ta không ai bằng lòng đứng dừng ở ba sao đất, cái cầy chìa vôi, và một phần con trâu! Hiện nay hợp tác xã sản xuất nông nghiệp cần, và Nhà nước phải ra sức thoả mãn yêu cầu chính đáng đó, tăng cường lực lượng vật chất kỹ thuật, để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế hợp tác, cải thiện đời sống. Trong kế hoạch ba năm chúng ta đã nhìn thấy đúng hướng: công nghiệp phải có tác dụng thúc đẩy nông nghiệp phát triển; chúng ta đã chủ trương phải sử dụng một cách tập trung lực lượng cơ khí sẵn có để sản xuất nông cụ cải tiến cho nông nghiệp; chúng ta đã chủ trương mạnh mẽ phát triển thuỷ điện để vừa có điện cho công nghiệp, nông nghiệp và toàn bộ kinh tế quốc dân, vừa giải quyết những vấn đề rất to lớn của thuỷ lợi và thuỷ nông; chúng ta đã chủ trương mạnh dạn xây dựng công nghiệp hoá chất và phân bón. Nhưng chúng ta làm còn chậm và chưa tốt.

Tóm lại, chúng ta đã giải quyết đúng đắn quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp. Đây không chỉ là một vấn đề lý thuyết, đây là vấn đề thực tiễn sinh động, chúng ta luôn luôn theo sát tình hình để đẩy mạnh công nghiệp và nông nghiệp phát triển một cách cân đối với tốc độ nhanh, một tay nắm vững công nghiệp, ra sức phát triển công nghiệp, từng bước thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, vì đó là cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; một tay nắm vững nông nghiệp, ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, quyết tâm phấn đấu bảo đảm sản xuất lương thực và thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ và nông phẩm để xuất khẩu, tạo thị trường ngày càng rộng lớn cho hàng công nghiệp.

Chúng ta hãy đọc lại đoạn trong nghị quyết của Hội nghị lần thứ ba của Trung ương Đảng nói về nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước năm 1961, đặt lên hàng đầu và gắn liền sản xuất nông nghiệp với phong trào hợp tác hoá nông thôn.

“Đi đôi với việc củng cố và phát triển hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, củng cố và tăng cường lực lượng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp về mọi mặt, phải ra sức đẩy mạnh hơn nữa sản xuất nông nghiệp phát triển một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc: trước hết ra sức đẩy mạnh sản xuất lương thực, đồng thời đẩy mạnh sự phát triển các ngành nông nghiệp khác: cây công nghiệp, chăn nuôi, nghề cá, nghề rừng, nghề phụ. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là để xây dựng cơ sở vững chắc cho công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

Nội dung chủ yếu của việc củng cố và phát triển hợp tác xã sản xuất nông nghiệp là việc phát triển sản xuất nông nghiệp một cách mạnh mẽ và toàn diện; hai việc đó tác động lẫn nhau và thúc đẩy nhau tiến tới, hai việc đều phải làm tốt, đó là một nhiệm vụ rất quan trọng trong năm 1961”.

Như vậy là đúng với đường lối của Đại hội và hợp với hoàn cảnh hiện nay của nước ta.

Chủ trương coi trọng nông nghiệp như vậy là đúng, vấn đề cấp bách và quan trọng là làm sao thực hiện chủ trương đúng đắn đó, sử dụng đầy đủ và hợp lý nhất lực lượng to lớn, nhất là nhân lực dồi dào của hợp tác xã, sử dụng tất cả khả năng to lớn của sản xuất nông nghiệp, sử dụng một cách có hiệu quả lực lượng của mỗi ngành nhằm phục vụ nông nghiệp, thúc đẩy nông nghiệp phát triển.

Nhà nước dân chủ nhân dân có trách nhiệm và tác dụng rất trọng yếu về mặt này.

Hiện nay, cơ sở vật chất và kỹ thuật của hợp tác xã nông nghiệp còn rất yếu. Theo tài liệu điều tra ở gần 200 hợp tác xã bậc cao và gần 700 hợp tác xã bậc thấp thuộc 23 khu, tỉnh khác nhau, bình quân một nhân khẩu trong hợp tác xã chỉ có 3 sào 2 thước đất, một người lao động chính chỉ có 8 sào 2 thước đất; 3 mẫu 3 sào ruộng mới có một con trâu hoặc bò cầy; trung bình mỗi hợp tác xã chỉ mới có một guồng quay nước, 8 hợp tác xã một máy cầy, 10 hợp tác xã một máy tuốt lúa và mỗi hợp tác xã chưa có được tới 2 xe vận chuyển thô sơ. Năm 1960, hợp tác xã mới sử dụng bình quân 2,3kg phân hoá học cho một sào Bắc bộ, còn thuốc trừ sâu thì dùng rất ít. Về vốn, trung bình 1 hécta ruộng đất canh tác chỉ có 178 đồng, nếu trừ phần hợp tác xã nợ Nhà nước và nợ lại xã viên thì chỉ còn 147 đồng, kể cả vốn cố định và vốn lưu động. Số vốn này chỉ bằng 1/20 số vốn bình quân cho một 1 hécta ruộng đất trong nông trường quốc doanh. Tính theo đầu người lao động, sự thiếu thốn về tiền vốn của hợp tác xã lại càng rõ rệt: bình quân một người lao động chính chỉ có 25 đồng vốn cố định và 27 đồng vốn lưu động. Với trình độ trang thiết bị kỹ thuật và vốn liếng như trên, năng xuất lao động khó nâng cao một cách nhanh chóng. Thu nhập của hợp tác xã cũng chưa tăng lên được nhiều, và do đó, tỷ lệ tích luỹ ở hợp tác xã năm 1960 mới chiếm khoảng 5,5% tổng thu nhập thực tế.

Tình hình trên đây soi sáng sự cần thiết tăng cường giúp đỡ về mọi mặt của Nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp.

Nhà nước cần tăng thêm vốn đầu tư vào nông nghiệp để làm những công trình lớn, mà hợp tác xã không đủ sức làm nổi, nhằm giải quyết những vấn đề rất cơ bản trong nông nghiệp, tạo ra cơ sở vật chất và kỹ thuật mới cho nông nghiệp. Trước hết, việc đầu tư vào nông nghiệp phải nhằm xây dựng những hệ thống đại và trung thuỷ nông để bảo đảm nước tưới, chống hạn, chống úng, chống lụt cho những vùng rộng lớn, mau chóng nâng cao tỷ lệ diện tích canh tác được bảo đảm nước tưới, từ con số còn thấp là 59% hiện nay lên dần đến 80%, 90% rồi 100%.

Một vấn đề hết sức quan trọng nữa là giúp đỡ hợp tác xã đổi mới công cụ lao động trong nông nghiệp và giải quyết vấn đề sức kéo, trước mắt là cải tiến một cách tương đối toàn diện những thứ nông cụ chủ yếu (chứ không chỉ tập trung vào cải tiến cái cầy), ra sức khắc phục tình trạng thiếu trâu, bò khá nghiêm trọng tại một số vùng, tăng thêm số lượng và chất lượng công tác của các đội máy kéo. Trên cơ sở đó, chúng ta sẽ tiến dần dần trên con đường cơ giới hoá nông nghiệp.

Nắm vững hai hướng đầu tư chủ yếu trước mắt trên đây, Nhà nước đồng thời cần chú trọng giúp đỡ hợp tác xã giải quyết những vấn đề cơ bản khác của nông nghiệp, như vấn đề phân bón và thuốc trừ sâu, vấn đề tăng vụ và khai hoang nhỏ để tăng diện tích, vấn đề cải lương và cải tạo chất đất, vấn đề phát triển chăn nuôi, v.v..

Một mặt khác, Nhà nước cần tích cực giúp đỡ hợp tác xã tăng cường lực lượng của mình về mọi mặt, để hợp tác xã ngày càng có sức tự làm được nhiều việc hơn, nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Trong quá trình củng cố và phát triển hợp tác xã, một vấn đề quan trọng là nâng cao trình độ quản lý và trình độ kỹ thuật, phát triển kinh doanh nhiều ngành, nhiều nghề, sử dụng hợp lý lực lượng lao động rất rồi dào của hợp tác xã, đưa số ngày công bình quân hàng năm của một người lao động trong hợp tác xã từ 92 ngày hiện nay, lên 180 ngày, 200 ngày, 250 ngày, và hơn nữa. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã đào tạo trong thời gian ngắn số rất lớn cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý cần thiết.

Theo tinh thần trên đây, Chính phủ và các cơ quan nhà nước sẽ tích cực nghiên cứu và thi hành mọi chính sách và biện pháp về các mặt nhằm giúp đỡ hợp tác xã, góp phần thúc đẩy phong trào hợp tác xã hoá trong bước biến chuyển hiện nay, đồng thời có tính toán để phù hợp với tình hình hợp tác xã sẽ lên cao và mở rộng. Đặc biệt, trong chính sách thu mua và cung cấp của ngành thương nghiệp, trong chính sách cho vay vốn của Ngân hàng, cần quán triệt tinh thần phục vụ sản xuất, phục vụ đời sống và cần thể hiện rõ rệt chủ trương của Nhà nước tích cực giúp đỡ hợp tác xã.

Đối với việc xây dựng các công trình văn hoá và phúc lợi xã hội trong hợp tác xã, như: trường học, nhà đọc sách, nhà giữ trẻ, nhà mẫu giáo, v.v.. Nhà nước cũng cần quan tâm và có sự giúp đỡ thiết thực và đúng mức.

Sự giúp đỡ của Nhà nước chẳng những có ý nghĩa kinh tế to lớn trong việc củng cố và phát triển hợp tác xã, tăng cường lực lượng hợp tác xã để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp; nó còn có ý nghĩa chính trị và xã hội to lớn, biểu hiện sự lãnh đạo của giai cấp, công nhân đối với nông dân lao động, củng cố liên minh công nông, thắt chặt quan hệ giữa Nhà nước và hợp tác xã, góp phần nâng cao tư tưởng cho xã viên, gắn bó chặt chẽ xã viên với quyền lợi của hợp tác xã và lợi ích chung của Nhà nước. Quan hệ giữa Nhà nước và hợp tác xã bao gồm hai mặt: một mặt Nhà nước phải hết lòng, hết sức giúp đỡ hợp tác xã, mặt khác hợp tác xã và xã viên phải tích cực làm tròn mọi nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước.

Bên cạnh hợp tác xã nông nghiệp, các hợp tác xã thủ công nghiệp cũng cần được coi trọng đúng mức. Hiện nay, trang bị kỹ thuật của hợp tác xã thủ công nghiệp còn kém: trung bình 15 người thợ thủ công có một máy động lực, 68 người mới có một máy chạy điện và 6 người mới có một máy quay tay (kể đủ các loại máy quay). Sau khi tổ chức lại, năng suất lao động có tăng nhưng chưa được nhanh, sức sản xuất phát triển chưa mạnh, thu nhập của xã viên có nâng cao nhưng chưa được nhiều, khả năng tích luỹ vốn còn bị hạn chế. Một số hợp tác xã thủ công nghiệp lại đang gặp khó khăn trước mắt trong sản xuất và tiêu thụ. Sự giúp đỡ của Nhà nước ở đây chủ yếu nhằm phát huy tác dụng của quan hệ sản xuất mới trong việc hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý, để đẩy mạnh sản xuất. Một vấn đề mấu chốt cần giải quyết là bảo đảm cung cấp đều đặn nguyên liệu, vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Muốn như vậy, cần đặt kế hoạch toàn diện về sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, phân công hợp lý giữa công nghiệp quốc doanh trung ương, công nghiệp quốc doanh địa phương với thủ công nghiệp, trong đó có chiếu cố đầy đủ đến thủ công nghiệp.

Nói chung, kinh tế hợp tác xã là một thành phần kinh tế mới, con đẻ của cách mạng xã hội chủ nghĩa, hiện giữ địa vị lớn trong nền kinh tế quốc dân. Năm 1960, tỷ trọng của kinh tế hợp tác xã trong thu nhập quốc dân là 33,7% trong công nghiệp là 21,4%, trong nông nghiệp là 54,4%3.

Trong năm 1960, hợp tác xã nông nghiệp đã bán cho Nhà nước trên 60% tổng số thóc thu mua, và hợp tác xã thủ công nghiệp đã bán hoặc gia công cho mậu dịch quốc doanh 60% tổng giá trị hàng công nghiệp thu mua và gia công. Ở đây, chúng ta biểu dương lòng yêu nước và ý thức làm tròn nghĩa vụ bán lương thực thừa cho Nhà nước trong vụ mùa vừa qua của hợp tác xã, của nông dân lao động miền Bắc nước ta; chúng ta biểu dương tinh thần làm tròn nhiệm vụ, tinh thần cố gắng, tận tụy của anh chị em cán bộ trong công tác thu mua lương thực.

Tóm lại, ra sức giúp đỡ hợp tác xã là một nhiệm vụ rất quan trọng của Nhà nước dân chủ nhân dân, đúng như lời Lênin: Hình thái kinh tế xã hội mới chỉ có thể ra đời với sự giúp đỡ về mọi mặt, cả về mặt tài chính, của nền chuyên chính vô sản.

Đối với các xí nghiệp công tư hợp doanh, các cơ quan nhà nước cần quan tâm giúp đỡ nhiều hơn nữa, để phát huy mạnh mẽ tác dụng của quan hệ sản xuất mới trong việc đẩy mạnh sản xuất và cải thiện đời sống của công nhân, đồng thời giúp đỡ người tư sản tiếp tục cải tạo trong lao động.

Sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân ta ở miền Bắc chuyển sang một thời kỳ mới: song song với đà chuyển biến của cách mạng xã hội chủ nghĩa về mặt kinh tế, phải có một sự chuyển biến thích ứng của cách mạng xã hội chủ nghĩa về văn hoá và kỹ thuật.

Các ngành giáo dục, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, văn học nghệ thuật, y tế, thể dục thể thao đều phải có nhận thức đầy đủ về điều đó để có quyết tâm và kế hoạch đẩy mạnh hoạt động của ngành mình, khắc phục tình trạng thường chậm trễ của văn hoá so với kinh tế. Phải xuất phát từ sự chuyển biến cách mạng, quán triệt nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ, để nhìn thấy và xác định nội dung mới, những biện pháp mới, những hình thức hoạt động mới của ngành mình cho đúng đắn.

Nhiệm vụ cơ bản và bức thiết nhất là ra sức bồi dưỡng, đào tạo trong một thời gian không lâu một đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, số lượng đủ, chất lượng tốt, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa và có hiểu biết về kỹ thuật, về nghiệp vụ. Trong việc này, cần chú trọng cán bộ cho công nghiệp và cho hợp tác xã. Đồng thời, phải ra sức làm tốt hơn, nhanh hơn việc nâng cao trình độ văn hoá cho cán bộ, cho nhân dân lao động, và phổ biến rộng rãi những điều hiểu biết cần thiết về kỹ thuật sản xuất và xây dựng.

Công tác nghiên cứu khoa học, kỹ thuật phải đi sát đời sống hơn nữa, phục vụ sản xuất kịp thời và đắc lực hơn nữa, đồng thời phải chăm lo xây dựng những cơ sở cần thiết để phát triển khoa học, kỹ thuật. Cần đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng to lớn của việc xúc tiến công tác điều tra tổng hợp để hiểu biết đầy đủ về tình hình nước ta, về tài nguyên phong phú của đất nước. Đó là cơ sở rất cần thiết trong việc làm kế hoạch, trong việc quyết định chủ trương và tiến hành mọi hành động có liên quan đến quốc kế dân sinh.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Nhà nước và sự chuyển biến cách mạng về xã hội

Quan hệ sản xuất đổi mới ảnh hưởng trực tiếp đến cấu tạo giai cấp, đến xã hội, đến con người và tư tưởng của con người. Ở đây cũng có những biến chuyển cách mạng quan trọng.

Với sự phát triển của công nghiệp, của kinh tế quốc doanh, giai cấp công nhân ở miền Bắc nước ta lớn lên nhanh chóng về mọi mặt, về số lượng và trình độ, chính trị, trình độ văn hoá và kỹ thuật. Tổ chức của giai cấp công nhân là công đoàn cũng lớn lên nhanh chóng và ngày càng gánh vác những công việc trọng yếu trong đời sống của công nhân, và sinh hoạt kinh tế và chính trị của Nhà nước. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là một quá trình phấn đấu gian khổ và lao động sáng tạo vĩ đại của nhân dân lao động nước ta, chủ yếu là của giai cấp công nhân. Đó là một vinh dự rất lớn của người công nhân nước ta. Từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta ngày càng thấy rõ vai trò lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước của giai cấp công nhân và Đảng tiên phong của nó. Giai cấp công nhân bằng sức chiến đấu của mình và bàn tay của mình chứng tỏ là lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân: đánh đổ cái cũ, cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới.

Bên cạnh giai cấp công nhân là những người nông dân lao động, người bạn chiến đấu gần gũi nhất của giai cấp công nhân suốt trong các giai đoạn cách mạng. Hiện nay, trong hàng ngũ nông dân ở miền Bắc nước ta, đương diễn ra những biến đổi rõ rệt và mau chóng. Rồi đây tất cả mọi người nông dân đều tự nguyện tham gia hợp tác xã, và không bao lâu nữa hợp tác xã bậc thấp sẽ trở thành hợp tác xã bậc cao, không bao lâu nữa mọi người nông dân miền Bắc nước ta đều là nông dân tập thể, những người lao động xã hội chủ nghĩa, quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau. Từ khi hoàn thành cải cách ruộng đất đến khi hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp, trong thời gian lịch sử ngắn, nông dân nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã và đương làm những việc vĩ đại: cải tạo nông nghiệp, cải tạo nông thôn và cải tạo bản thân mình, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta.

Giới trí thức xã hội chủ nghĩa nước ta đương hình thành. Quá trình hình thành của giới trí thức là quá trình phát triển sự nghiệp văn hoá, khoa học và kỹ thuật của nước ta. Chúng ta coi trọng sự nghiệp này bao nhiêu thì chúng ta quý trọng giới trí thức xã hội chủ nghĩa của nước ta bấy nhiêu. Đó là những người lao động trí óc hoặc rất gần công nông, hoặc xuất thân từ công nông, nguyện cống hiến tài năng của mình cho Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.

Xã hội của chúng ta là xã hội của những người lao động đã được giải phóng, nhưng người lao động xã hội chủ nghĩa rất gắn bó với nhau vì những mục tiêu phấn đấu chung, quyền lợi ngang nhau, nghĩa vụ như nhau: đó là nguồn gốc của sự đoàn kết nhất trí của các tầng lớp nhân dân, của các dân tộc ở miền Bắc nước ta. Cột trụ của sự đoàn kết nhất trí này là khối liên minh công nông, nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản, cơ sở của Nhà nước dân chủ nhân dân và của mặt trận dân tộc thống nhất.

Xã hội miền Bắc nước ta ngày càng tiến lên chủ nghĩa xã hội thì khối đoàn kết nhất trí này càng chặt chẽ, càng vững mạnh. Và chúng ta càng tăng cường khối đoàn kết nhất trí này, thì chúng ta càng có sức mạnh để xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng của nhân dân cả nước.

Sự đoàn kết nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân ta ở miền Bắc ngày càng được tăng cường vì cơ sở của nó là tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chiếm địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân, thì hệ thống tư tưởng xã hội chủ nghĩa có địa vị thống trị trong xã hội.

Trong quá trình xây dựng xã hội mới, đời sống mới cho đến chủ nghĩa cộng sản, chúng ta phải thấy rõ ba mặt đều rất quan trọng của việc xây dựng, một là phát triển sức sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của xã hội mới, hai là cải tiến, hoàn thiện không ngừng quan hệ sản xuất, ba là giáo dục tư tưởng mới, tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, giáo dục con người mới. Ba mặt này liên quan mật thiết với nhau và ảnh hưởng qua lại mạnh mẽ lẫn nhau. Về mặt tư tưởng, chúng ta đều biết rằng thâm nhập vào quần chúng nhân dân, thì tư tưởng trở nên lực lượng vật chất rất mạnh.

Đảng ta và Chính phủ ta luôn luôn coi trọng công tác tư tưởng, công tác giáo dục chính trị, giáo dục chủ nghĩa xã hội. Lúc này, lúc quan hệ sản xuất và xã hội có những biến chuyển cách mạng sâu sắc như trên đã trình bày thì công tác tư tưởng, việc giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề cực kỳ quan trọng và cấp bách. Phải đứng về quan điểm đó mà quán triệt tầm quan trọng của đợt chỉnh huấn đã bắt đầu.

Những điều mới trong mục đích, yêu cầu và nội dung của đợt chỉnh huấn này phản ánh cái mới trong đời sống, trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, đồng thời là kết quả việc rút kinh nghiệm về công tác tư tưởng qua những năm trước. Mục đích của chỉnh huấn là xây dựng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động những tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với chế độ chính trị và quan hệ sản xuất ở miền Bắc, phù hợp với yêu cầu phát triển của cách mạng. Yêu cầu bức thiết về tư tưởng mà sự nghiệp cách mạng đang đề ra là ra sức nâng cao ý thức làm chủ và tinh thần tập thể trong toàn thể cán bộ và nhân dân, thấm nhuần quan điểm tất cả phục vụ sản xuất, quan điểm cần kiệm xây dựng nước nhà, quan điểm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Điều cần đặc biệt nhấn mạnh là đợt chỉnh huấn này chủ yếu nhằm bồi dưỡng tư tưởng mới, và bồi dưỡng tư tưởng mới chủ yếu là trong việc thi hành đường lối và chính sách của Đảng và Chính phủ đối với từng ngành hoạt động, từng đơn vị, từng cá nhân. Đồng thời, quá trình biện chứng của việc bồi dưỡng tư tưởng mới, theo quy luật tự phê bình và phê bình, nhất định phải thông qua việc phát huy ưu điểm, và phê phán, khắc phục những tư tưởng sai lầm: chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu mệnh lệnh, lãng phí, tham ô, tư tưởng bảo thủ, rụt rè, ngại khó, những tư tưởng sai lầm ấy đang gây tác dụng xấu trong công tác của chúng ta.

Như vậy là đợt chỉnh huấn này có tầm sâu rộng hơn, có yêu cầu cao hơn, có nội dung rất cơ bản đồng thời rất thiết thực. Trong kháng chiến cũng như từ ngày hòa bình lập lại, mỗi đợt chỉnh huấn đều đánh dấu một bước tiến rõ rệt của cán bộ và nhân dân ta. Đợt chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961 nhất định sẽ đưa đến sự chuyển biến cách mạng trong tư tưởng và công tác, nâng cao hơn nữa giác ngộ xã hội chủ nghĩa, trình độ chính trị, tinh thần phấn khởi và nhiệt tình lao động của cán bộ và nhân dân ta, góp phần quan trọng vào việc gây một khí thế mới để đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước nhằm thực hiện vượt mức kế hoạch nhà nước năm 1961.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân

Chúng ta đang đứng trước những nhiệm vụ mới trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và trong việc hòa bình thống nhất Tổ quốc. Nhà nước dân chủ nhân dân của chúng ta phải có nhận thức đầy đủ và sâu sắc đối với tình hình và nhiệm vụ để có ý thức đúng đắn và mạnh mẽ làm trọn sứ mạng lịch sử của mình.

Chúng ta đòi hỏi mọi người trong bộ máy Nhà nước, chúng ta đòi hỏi mọi người trong nhân dân ta phải nhìn thấy rõ rệt sự quan trọng to lớn của nhà nước, của bộ máy nhà nước và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là tổ chức của nhân dân, công cụ của nhân dân để quản lý mọi mặt đời sống của nhân dân: quản lý về kinh tế và văn hoá, quản lý về nội chính, quốc phòng, động viên mọi mặt lực lượng của nước ta và dân ta: nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực, để phát triển kinh tế và văn hoá, cải thiện đời sống theo kế hoạch nhà nước, nhằm tăng cường lực lượng của miền Bắc, phát huy tác dụng to lớn của miền Bắc đối với sự nghiệp hòa bình thống nhất Tổ quốc. Nhà nước dân chủ nhân dân không chỉ có trách nhiệm và tác dụng về mặt đối nội, mà còn có tác dụng và hoạt động ngày càng mở rộng càng có hiệu quả về mặt đối ngoại, mặt đối nội và mặt đối ngoại này liên quan mật thiết với nhau, lực lượng trong nước lớn lên thì tiếng nói của ta ở ngoài càng có giá trị, ngược lại, hoạt động đối ngoại càng mở rộng, thì càng tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, đồng thời tăng thêm phần cống hiến của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.

Trong tình hình công việc của chúng ta hiện nay, nói tăng cường bộ máy Nhà nước là nhấn mạnh những điểm sau đây:

Trước nhất, phải ra sức phát huy tác dụng của Nhà nước, của các tổ chức của Nhà nước. Trong lúc chúng ta giáo dục mọi người dân đều phải biết làm tròn trách nhiệm làm chủ của mình, chúng ta cũng đòi hỏi Nhà nước dân chủ nhân dân làm tròn trách nhiệm thể hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.

Quốc hội thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với cả nước ta. Hội đồng nhân dân mỗi cấp thể hiện quyền làm chủ nhân dân ở địa phương đó. Quốc hội thông qua kế hoạch nhà nước, đó là một đạo luật mà mọi người phải tuân theo. Quốc hội giao cho Hội đồng Chính phủ trách nhiệm tổ chức việc thực hiện và thực hiện vượt mức kế hoạch nhà nước. Quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp đều theo nguyên tắc ấy. Như vậy, các tổ chức của Nhà nước đều có trách nhiệm thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, có trách nhiệm quản lý những công việc của nước, của dân, lớn, nhỏ, nặng, nhẹ tùy cương vị của mỗi tổ chức và tính chất công việc. Hiến pháp quy định Hội đồng Chính phủ và mỗi người Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm về công việc của mình trước Quốc hội, nghĩa là trước nhân dân. Ví dụ, nếu kế hoạch sản xuất nông nghiệp hoặc kế hoạch sản xuất công nghiệp không được thực hiện đầy đủ, thì đồng chí Thủ tướng thay mặt Hội đồng Chính phủ, hoặc đồng chí Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, đồng chí Bộ trưởng Bộ Công nghiệp (nặng hay nhẹ) phải trình trước Quốc hội vì sao kế hoạch không được thực hiện đầy đủ, trách nhiệm tại ai và bây giờ phải làm gì để vượt qua khó khăn, đẩy công việc tiến tới và hoàn thành tốt kế hoạch. Như vậy mới đúng là dân chủ, dân chủ nhân dân, chớ không phải dân chủ tư sản, là cái thứ dân chủ hình thức và giả hiệu che đậy nền chuyên chính của giai cấp tư sản đối với nhân dân lao động, trong đó người dân thường thật sự chỉ được hưởng một thứ quyền, là bị bóc lột, thất nghiệp và đói khổ.

Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, điều đó có nghĩa là Nhà nước, các cơ quan nhà nước phải hết lòng, hết sức phát huy tác dụng làm chủ của mọi người lao động, của người công nhân trong xí nghiệp, trên công trường, của người nông dân trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, v.v.. Hiện nay, và nhất là sau đợt chỉnh huấn đương làm, người lao động miền Bắc nước ta, sẽ nâng cao ý thức làm chủ lên hơn nữa, và sẽ có những cố gắng phi thường trong lao động và sản xuất, sẽ đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yêu nước sôi nổi khắp nơi, do đó sẽ đặt thêm cho chúng ta, cho Nhà nước rất nhiều vấn đề phải giải quyết kịp thời để giữ vững và đẩy mạnh phong trào. Ở xí nghiệp và công trường, người công nhân nói: chúng tôi hiểu rồi, chúng tôi làm chủ, đó là quyền lợi và nghĩa vụ của chúng tôi, chúng tôi nguyện làm tròn quyền lợi và nghĩa vụ của mình, chúng tôi quyết tâm làm việc với tất cả nhiệt tình và sức lực của chúng tôi, nhưng các cơ quan nhà nước phải để ý cho chúng tôi điều này: có khi làm càng hăng thì càng mau gặp một số khó khăn mà xí nghiệp chúng tôi không giải quyết được, như thiếu nguyên liệu, bị ràng buộc bởi nhiều quy chế, thể lệ không hợp lý, lỗi thời, quan hệ với các xí nghiệp và công trường bạn chưa tốt, chưa thể hiện được đầy đủ tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa theo tình đồng chí với nhau. Cho nên chúng tôi quyết làm chủ về phần chúng tôi, nhưng chúng tôi đòi hỏi mọi cơ quan của Nhà nước, mọi người có trách nhiệm phải làm chủ về phần của mình.

Đó là những lời nói đầy ý nghĩa cách mạng đáng làm chúng ta suy nghĩ, và đòi hỏi chúng ta phải trả lời một cách thích đáng bằng việc làm thiết thực. Chúng ta càng thấy rõ rệt, càng tin tưởng sâu sắc vào lực lượng vô cùng vô tận của quần chúng nhân dân, và lực lượng ấy ngày càng lớn lên nhanh chóng với đà phát triển của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Vậy làm thế nào phát huy đầy đủ hơn nữa lực lượng vĩ đại ấy? Đó là một vấn đề nhận thức rất cơ bản của mọi người chúng ta, của Nhà nước chúng ta, của những cơ quan phụ trách việc quản lý kinh tế và văn hoá, quản lý đời sống, quản lý mọi mặt hoạt động của nhân dân. Trước hết về mặt tư tưởng, phải nhận thấy rằng Nhà nước chúng ra phải có sự liên hệ chặt chẽ với quần chúng, với sản xuất và đời sống, với thực tiễn sinh động của phong trào cách mạng. Chỉ có như thế mới kịp thời nhìn thấy cái mới trong phong trào, đối chiếu đường lối chính sách thực tiễn, với đời sống, do đó mà phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề; uốn nắn cái sai, phát huy cái đúng, cải tiến công tác, cải tiến lãnh đạo, kịp thời bỏ những chế độ, thể lệ đã lỗi thời để thay thế bằng những chế độ, thể lệ mới, thích hợp với sự phát triển sản xuất.

Để làm được việc này, mọi cơ quan nhà nước cần cải tiến lề lối làm việc, kiên quyết chống quan liêu sự vụ, bớt hội họp, thường xuyên có liên hệ mật thiết với quần chúng, với cơ sở. Cần nhớ rằng phải đi sâu tìm hiểm vấn đề, thì mới nhìn thấy vấn đề và giải quyết vấn đề và chúng ta chỉ có thể làm việc này trong thực tiễn sinh động đời sống.

Đây cũng chính là biện pháp tốt nhất để thường xuyên giáo dục, rèn luyện cho cán bộ tư tưởng và tác phong đi sát quần chúng, đi sát thực tế, tránh chủ quan quan liêu trong phương pháp tư tưởng và phương pháp làm việc, bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng, ý chí phấn đấu vì lợi ích của cách mạng, của quần chúng.

Một biện pháp rất quan trọng để nâng cao trình độ lãnh đạo và cải tiến công tác của chúng ta là kịp thời tổng kết kinh nghiệm phong phú của phong trào quần chúng, tổng kết kinh nghiệm trong mọi ngành hoạt động. Các cơ quan nhà nước, tùy theo phạm vi trách nhiệm và yêu cầu công tác của mình, phải kịp thời tiến hành tổng kết công tác, tổng kết kinh nghiệm một cách có chuẩn bị chu đáo, nhằm giải quyết những vấn đề rất thiết thực, mà thực tiễn của phong trào, của đời sống đòi hỏi giải quyết, và đã tạo ra điều kiện để giải quyết.

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp vĩ đại của quần chúng nhân dân.Về tất cả mọi mặt, về việc lớn cũng như việc nhỏ, chúng ta đều phải sáng tạo ra cái mới. Vậy cái mới này, chúng ta tìm thấy ở đâu? Trong thực tiễn cách mạng phong phú của nhân dân ta. Tin tưởng ở khả năng sáng tạo và lực lượng vô tận của quần chúng trong thực tiễn cách mạng, kịp thời tổng kết kinh nghiệm cách mạng, đó là điều mà chúng ta cần đặc biệt coi trọng.

Trong việc tăng cường lực lượng của Nhà nước dân chủ nhân dân, điểm mấu chốt là tăng cường tổ chức thực hiện. Chúng ta coi đây là biện pháp mấu chốt là ở chỗ sau khi Đảng đã vạch đường lối cách mạng đúng đắn, Chính phủ ta quyết định những chủ trương về các mặt công tác, thì tổ chức phải bảo đảm thực hiện đường lối đó, những chủ trương đó và giành thắng lợi lớn nhất cho cách mạng, cho nhân dân. Hiện nay, tổ chức thực hiện của chúng ta còn yếu, chưa theo kịp yêu cầu của nhiệm vụ. Phải thấy rõ rằng trong nhiều trường hợp, những khuyết điểm về mặt tổ chức thực hiện như thiếu cố gắng của ngành này, ngành nọ, thiếu phối hợp giữa các ngành, thiếu ý thức trách nhiệm và kỷ luật, làm việc quan liêu, giấy tờ, máy móc, rồi khư khư giữ những chế độ lỗi thời, v.v., đã gây những hiệu quả có khi nghiêm trọng đối với sản xuất và công tác, đối với việc thực hiện kế hoạch nhà nước. Trước sự chuyển biến cách mạng hiện nay, phải có một sự chuyển biến về tổ chức và tác phong làm việc. Cho nên, chúng ta cần có quyết tâm to lớn và phấn đấu bền bỉ để tăng cường lực lượng của Nhà nước về mặt tổ chức thực hiện, tăng cường năng lực tổ chức và quản lý của Nhà nước về kinh tế, tài chính

Trong bộ máy Nhà nước, phải thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, chống phân tán, đồng thời cũng tránh tình trạng tập trung quan liêu. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ, giữa các ngành, các cấp, cần có sự phân công rành mạch, sự phối hợp chặt chẽ theo tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa. Chế độ phân cấp quản lý cần được thực hiện từng bước theo kế hoạch cụ thể và vững chắc. Liên quan đến vấn đề phân cấp quản lý, chúng ta phải nhìn thấy ngay từ bây giờ để nghiên cứu và giải quyết trong thời gian sắp tới một vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn đề cải tiến quản lý nhà nước cải tiến quản lý kinh tế.

Trong mọi cơ quan, xí nghiệp, công trường, cần quy định và thi hành đúng chế độ trách nhiệm và chế độ kỷ luật. Khen thưởng phải kịp thời, thi hành kỷ luật phải nghiêm minh.

Trong các công tác để tăng cường năng lực tổ chức và chỉ đạo thực hiện của Nhà nước, điều quan trọng bậc nhất là tăng cường công tác kiểm tra để đôn đốc việc thực hiện kế hoạch, nắm vững tình hình, hiểu rõ cán bộ, sát với quần chúng, kịp thời phát hiện các vấn đề mới, uốn nắn chỗ sai, phát huy chỗ đúng, rút và phổ biến những kinh nghiệm tốt. Để làm tốt công tác kiểm tra, song song với việc đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan chuyên trách, phải kiên quyết thực hiện chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp thường xuyên đi sát cơ sở, đi sâu vào sản xuất, nắm tình hình, nắm phong trào.

Việc tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân theo những phương hướng trên đây phải đi đôi với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, nhằm nâng cao vị trí tác dụng, uy tín, và ảnh hưởng của Nhà nước, tăng cường sức mạnh của Nhà nước, là công cụ sắc bén để đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta tiến tới nhanh chóng, mạnh mẽ và vững chắc, như đã nêu rõ trong nghị quyết của Đại hội lần thứ III của Đảng về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta.

PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CỦA ĐỒNG BÀO TA
Ở MIỀN NAM VÀ SỰ NGHIỆP HOÀ BÌNH THỐNG NHẤT TỔ QUỐC

Thưa các đồng chí đại biểu,

Phong trào yêu nước ở miền Nam

Thời gian qua, trong lúc ở miền Bắc nước ta có những chuyển biến cách mạng to lớn, thì ở miền Nam nước ta cũng có những chuyển biến cách mạng to lớn. Phong trào yêu nước của đồng bào ta ở miền Nam đương phát triển mạnh mẽ: phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân, của công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, giới trí thức, nhân sĩ, giáo phái; phong trào yêu nước phát triển rộng rãi khắp nơi: đồng bằng, miền núi, thành thị; phong trào yêu nước đương thâm nhập vào hàng ngũ quân đội và bộ máy cai trị ở miền Nam; phong trào phát triển dưới rất nhiều hình thức đấu tranh ngày càng phong phú, chứng tỏ sức mạnh của quần chúng nhân dân. Phong trào lớn mạnh nhanh chóng về bề rộng và bề sâu như vậy là do khẩu hiệu của nó là những quyền lợi cơ bản nhất và cấp bách nhất của mọi tầng lớp nhân dân, của cả dân tộc Việt Nam ta ở miền Nam: quyền làm ăn sinh sống, quyền tự do dân chủ, quyền độc lập dân tộc, quyền hòa bình thống nhất Tổ quốc.

Sức đấu tranh của hàng triệu quần chúng nhân dân, của khối đoàn kết dân tộc đã đưa đến một thắng lợi có ý nghĩa rất quan trọng là đương đầu một cách vô cùng anh dũng với những cuộc càn quét lớn của quân đội miền Nam, với những thủ đoạn khủng bố cực kỳ tàn ác của chính quyền miền Nam. Vũ khí cuối cùng của bọn Mỹ - Diệm là càn quét và khủng bố đã tỏ ra vô hiệu, rõ rệt là không ngăn cản được phong trào, trái lại càng kích thích phong trào phát triển mạnh mẽ.

Trong những điều kiện như vậy, lúc bọn thống trị thối nát đến cực độ và ngày càng tỏ ra bất lực, lúc phong trào cách mạng tiến tới với khí thế của thủy triều đương lên, thì tình trạng miền Nam không phải là bình thường, đó là tình trạng khủng hoảng và khủng hoảng kéo dài. Phải đặt cuộc đảo chính hồi tháng 11-1960 ở Sài Gòn vào những điều kiện của một tình trạng như vậy thì mới hiểu đúng ý nghĩa của nó: đó là một vố khá đau đối với Ngô Đình Diệm, chừng nào góp phần làm cho khủng hoảng của chế độ Mỹ -Diệm càng trầm trọng và kéo dài, phong trào yêu nước ở miền Nam càng mạnh mẽ và lên cao.

Những biến chuyển cách mạng to lớn ở miền Nam đương vang dội rộng rãi trong dư luận thế giới. Một năm lại đây báo chí khắp nơi đều có để ý đến tình hình miền Nam và phần rất lớn đều đi đến những kết luận giống nhau trong việc nhận định tình hình: chế độ Ngô Đình Diệm là thối nát và bất lực, phong trào đấu tranh của nhân dân lên cao, do đó tình hình không thể cứ duy trì như vậy mãi. Điều đáng chú ý là không chỉ báo chí ở bên phía ta, mà cả báo chí ở bên hữu, báo chí phương Tây đều viết theo điệu đó.

Hãy trích một số câu tiêu biểu nhất.

Tờ báo Mỹ “Nước Cộng hòa mới”, ngày 30-01-1961: “miền Nam Việt Nam bị đe dọa do sự sụp đổ từ bên trong hơn là do sự tấn công từ bên ngoài. Đó là một điển hình của toà lâu dài xây trên bãi cát”.

Phóng viên báo “Người bảo vệ quốc gia” xuất bản ở Mỹ ngày 28-11-1960: “Tuy chỉ ở Sài Gòn một thời gian ngắn, tôi tin chắc rằng sự bất mãn của quần chúng đã như một ngọn lửa sắp phun”.

Tờ báo Anh “Người quan sát”, ngày 13-11-1960: “Từ xưa đến nay, chưa bao giờ chế độ Ngô Đình Diệm lại đứng trước tình trạng tan rã như hiện nay”.

Tờ báo Anh “Người bảo vệ”, ngày 12-11-1960: “Những việc xảy ra ở miền Nam chứng minh rằng chế độ Diệm không phải là đồn lũy vững chắc như người ta tưởng. Và chính quyền thân Mỹ càng tỏ ra trung thành với Mỹ bao nhiêu thì càng bị quần chúng xa rời bấy nhiêu và phải dùng đến những biện pháp độc tài để giữ địa vị thống trị”.

Tờ báo Pháp “Diễn đàn các dân tộc”, ngày 25-11-1960: “Miền Nam Việt Nam là một ngọn núi lửa sắp phun, điều đó thì chính ông Diệm cũng đã công nhận. Người ta không có cách nào định nghĩa đúng tình hình một xứ mà tất cả các tầng lớp trong xã hội đều nuôi một mối căm hờn sâu sắc đối với chính quyền”.

Tờ báo Ấn Độ “Diễn đàn quốc gia”, ngày 14-11-1960: “Sự bất mãn trong quân đội Diệm và trong nhân dân miền Nam tăng lên đến cực độ chế độ của ông Diệm rõ ràng là lung lay và sắp đổ”.

Báo “Bó đuốc” của Inđônêxia: “Chính quyền Ngô Đình Diệm càng tăng cường áp bức nhân dân một cách tàn khốc, thì chỉ càng thúc đẩy sự thức tỉnh của nhân dân miền Nam Việt Nam. Ngày mà nhân dân miền Nam thu được thắng lợi đã đến”.

Chúng ta có thể trích rất nhiều câu, nhiều bài của nhiều báo viết theo điệu đó.

Nhân dân thế giới, các Chính phủ yêu chuộng hòa bình và các tổ chức dân chủ trên thế giới theo dõi phong trào yêu nước ở miền Nam, theo dõi cuộc đấu tranh để hòa bình thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta với một cảm tình sâu sắc và tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của chúng ta. Việc Hội đồng hòa bình thế giới tặng thưởng Huân chương vàng cho phong trào hòa bình ở miền Nam, việc Hội đồng đoàn kết nhân dân Á - Phi quyết nghị lấy ngày 20-7 làm “Ngày Việt Nam” là những chứng minh hùng hồn nhất của mối tình thân ái và sự ủng hộ cao cả đó. Gần đây, Ban thư ký Hội luật gia dân chủ quốc tế họp ở Béclin, sau khi nghiên cứu tình hình miền Nam, đã nghiêm khắc lên án chính sách đàn áp, khủng bố những người kháng chiến cũ và những người yêu nước ở miền Nam, lên án chính sách gây chiến tranh chống lại nhân dân miền Nam của bọn Mỹ - Diệm. Bản nghị quyết của Hội nghị Ban thư ký Hội luật gia dân chủ quốc tế công nhận rằng nhân dân ta ở miền Nam có quyền tự vệ chính đáng nhằm bảo vệ quyền sống và những quyền lợi khác của con người theo đúng lời nói đầu của bản Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc. Bản nghị quyết công nhận cuộc đấu tranh yêu nước ở miền Nam là hoàn toàn phù hợp với Hiệp định Giơnevơ và nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong khóa họp thứ 15 về việc thủ tiêu chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức. Tiếng nói của chính nghĩa và công lý trên thế giới đã đập tan những luận điệu vu khống của Mỹ - Diệm về câu chuyện “lật đổ” ở miền Nam. Đó là một nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với nhân dân Việt Nam ta.

Rõ ràng chế độ Ngô Đình Diệm là một chế độ bán nước hại dân mà đồng bào ta ở miền Nam và nhân dân thế giới đã lên án, mặc dầu trò tuyển cử bịp bợm theo kiểu Lý Thừa Vãn. Nhưng vì sao chế độ đó vẫn còn tồn tại? Đó là vì đế quốc Mỹ cố sức duy trì người tay sai của nó để nô dịch miền Nam nước ta, biến miền Nam nước ta thành căn cứ quân sự, chuẩn bị chiến tranh. Nghe đâu người của Mỹ đã chán Ngô Đình Diệm vì họ Ngô mất lòng dân nhiều quá, nguy hiểm! và muốn tìm người khác thay, vừa chó săn đắc lực của chủ, vừa được lòng dân, nói đúng hơn là mị được dân. Thật đáng buồn cười. Được lòng đế quốc Mỹ và được lòng dân, đó là hai thái cực không thể dung nhau được. Chế độ Ngô Đình Diệm là con đẻ của đế quốc Mỹ, tội ác của gia đình họ Ngô là tội ác của đế quốc Mỹ. Nhân dân ta ở miền Nam chống Ngô Đình Diệm tức là chống đế quốc Mỹ, và bao giờ đế quốc Mỹ còn thống trị miền Nam nước ta, thì nó còn đẻ ra những sản vật như Ngô Đình Diệm, thì nhân dân ta ở miền Nam còn đấu tranh chống chế độ thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, để giành quyền sống, quyền tự do dân chủ, quyền độc lập dân tộc, quyền thống nhất Tổ quốc.

Trong lúc bọn Mỹ - Diệm hoang mang, bối rối và phong trào yêu nước vang lừng khắp mọi nơi, thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời! Việc thành lập Mặt trận với một bản chương trình đúng đắn, thích hợp với nguyện vọng của mọi tầng lớp đồng bào ta ở miền Nam, đánh dấu một bước phát triển mới của sự nghiệp giải phóng miền Nam. Đó là một thắng lợi có ý nghĩa chính trị to lớn của sức đoàn kết và đấu tranh của đồng bào ta ở miền Nam.

Trước sức mạnh và khí thế của phong trào yêu nước ở miền Nam, đế quốc Mỹ và tay chân của chúng kêu la ầm ĩ: “lật đổ”! “lật đổ”! Chúng vu khống Chính phủ ta tiến hành hoạt động “lật đổ” ở miền Nam chúng cầu cứu Uỷ ban quốc tế. Thật là buồn cười và đáng khinh bỉ. Đúng, trên thế giới ngày nay, có hoạt động lật đổ thật, từ bên ngoài nhập vào, nhằm lật đổ những Chính phủ dân tộc hợp pháp mà đế quốc Mỹ không ưa để thay thế bằng những Chính phủ tay chân của đế quốc Mỹ. Để đạt được mục đích đen tối của chúng, đế quốc Mỹ không từ chối bất cứ thủ đoạn gian ác nào: quân sự, chính trị, kinh tế, lừa đảo, ám sát,… Đó là quốc sách của Mỹ. Những hoạt động lật đổ kiểu Mỹ chung quy đều đi đến thất bại nhục nhã. Còn cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân, cuộc đấu tranh thần thánh vì những quyền lợi cao quý của con người và của dân tộc, cuộc đấu tranh nhằm đánh đổ bọn cướp nước và bán nước, cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân ta ở miền Nam nhất định sẽ thắng lợi vẻ vang.

Thưa các đồng chí đại biểu,

Thi hành Hiệp định Giơnevơ

Sau chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia là một thắng lợi có ý nghĩa quốc tế quan trọng của phong trào giải phóng dân tộc. Những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ đã ghi những thành quả của cuộc đấu tranh yêu nước đầy gian khổ và anh dũng của nhân dân các nước Đông Dương.

Chính vì lẽ đó mà nhân dân Việt Nam ta quyết giữ vững Hiệp định Giơnevơ và tiếp tục cuộc đấu tranh đòi Hiệp định đó được thực hiện. Và chính cũng vì lẽ đó mà đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm khăng khăng từ chối thi hành Hiệp định đó.

Gần bảy năm đã qua từ ngày 20-7-1954.

Trong thời gian dài đó, nước ta vẫn chưa thống nhất, miền Nam nước ta trở nên một thuộc địa kiểu mới và một căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ, trái hẳn với lời văn và tinh thần của Hiệp định Giơnevơ, mặc dầu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã rất nhiều lần kiến nghị với chính quyền miền Nam, với hai chủ tịch và các nước tham gia dự Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương, với Uỷ ban quốc tế về sự cần thiết và những biện pháp thực hiện hòa bình thống nhất nước Việt Nam. Thậm chí mọi quan hệ giữa hai miền đều hoàn toàn cắt đứt, giới tuyến tạm thời dọc sông Bến Hải hầu như trở thành biên giới giữa hai nước. Thế giới ngày nay là thế giới của hữu nghị giữa mọi dân tộc khắp bốn biển năm châu, khoa học và kỹ thuật rút ngắn không gian, thắt chặt quan hệ giữa mọi nước, thế mà Nam - Bắc nước ta vẫn bị chia đôi một cách giả tạo.

Đó là điều vi phạm cơ bản nhất đối với Hiệp định Giơnevơ, mà thủ phạm là đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của chúng.

Mọi điều khoản quân sự đều bị chúng vi phạm. Miền Nam nước ta hiện nay là một căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Miền Nam đang thực tế trở thành hội viên của khối “quân sự xâm lược Đông Nam Á”. Vũ khí và nhân viên quân sự Mỹ được đưa vào miền Nam một cách công khai. Từ Mã Lai4, vũ khí cũng được đưa vào miền Nam một cách trái phép. Ở đó, đế quốc Mỹ âm mưu một cuộc chiến tranh mới chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Mọi điều khoản về tự do dân chủ đều bị vi phạm. Mọi người kháng chiến cũ, mọi người yêu nước, mọi người đấu tranh vì những quyền lợi cơ bản nhất của con người, của dân tộc đều bị khủng bố một cách vô cùng tàn bạo, dã man. Bọn Mỹ - Diệm dùng quân đội, tất cả lực lượng vũ trang và bộ máy cảnh sát để đàn áp phong trào yêu nước. Chúng thú nhận rằng ở miền Nam, chiến tranh không bao giờ chấm dứt: đó là một cuộc chiến tranh chống nhân dân do chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra theo chính sách của Mỹ, với kế hoạch của Mỹ, bằng súng ống của Mỹ.

Đó là tình hình miền Nam gần bảy năm sau khi ký kết Hiệp định Giơnevơ.

Nguyên nhân của tình hình đó là do chính quyền Ngô Đình Diệm và Chính phủ Mỹ khăng khăng không chịu thi hành Hiệp định Giơnevơ, hơn nữa đua nhau vi phạm toàn bộ Hiệp định Giơnevơ một cách có hệ thống và rất thô bạo. Thậm chí chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố trắng trợn rằng chúng không thừa nhận Hiệp định Giơnevơ.

Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một lần nữa cực lực lên án những hành động vi phạm liên tiếp và ngày càng nghiêm trọng của chính quyền miền Nam và Chính phủ Mỹ đối với Hiệp định Giơnevơ, gây tình trạng chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Chúng ta cực lực lên án những hành động vi phạm những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về việc hiệp thương giữa hai miền để thực hiện thống nhất nước Việt Nam, những điều khoản về quân sự như cấm đưa vũ khí và nhân viên quân sự nước ngoài vào miền Nam, những điều khoản về tự do dân chủ, cấm trả thù những người kháng chiến cũ. Chúng ta cực lực lên án chính sách can thiệp, chính sách xâm lược ngày càng trắng trợn của đế quốc Mỹ vào miền Nam nước ta gây biết bao tai họa cho nhân dân ta. Chúng ta cực lực tố cáo trước nhân dân nước ta và dư luận thế giới những tội ác chồng chất của bọn Mỹ - Diệm. Lời nói căm thù của chúng ta sẽ vang dội sâu rộng hơn nữa trong đông đảo quần chúng nhân dân nước ta, biến thành sức đoàn kết và đấu tranh chống can thiệp Mỹ và tay sai của chúng. Lời nói căm thù đó sẽ vang dội sâu rộng hơn nữa trong dư luận của nhân dân thế giới, biến thành sức ủng hộ mạnh mẽ hơn nữa đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

Nói đến việc phải nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơnevơ, chúng ta phải nói đến những âm mưu và hoạt động của khối quân sự xâm lược Đông Nam Á nhằm can thiệp vào tình hình nước ta. Mọi người đều nhớ rằng liên minh quân sự này được lập ra do chủ trương của đế quốc Mỹ ngay sau khi ký kết Hiệp định Giơnevơ nhằm phá hoại việc thi hành hiệp định ấy. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cực lực phản đối việc Hội đồng của khối quân sự xâm lược Đông Nam Á đã bàn đến cái gọi là “Vấn đề miền Nam Việt Nam”, có đại diện của chính quyền Ngô Đình Diệm tham dự, và cực lực phản đối những lời tuyên bố chứng tỏ những âm mưu và hoạt động can thiệp của khối xâm lược Đông Nam Á vào tình hình nước ta, trái với Hiệp định Giơnevơ. Nhân dân Việt Nam ta cũng như nhân dân các nước Đông Nam Á và nhân dân thế giới đã nhận rõ rằng khối quân sự Đông Nam Á cũng như những liên minh quân sự khác đều là công cụ can thiệp và xâm lược, những công cụ chiến tranh của đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ, và kiên quyết tiếp tục cuộc đấu tranh tiến tới xóa bỏ những liên minh quân sự ấy, vì lợi ích của hòa bình và những quyền bất khả xâm phạm của mọi dân tộc trên thế giới.

Thưa các đồng chí đại biểu,

Không thi hành Hiệp định Giơnevơ đem lại hậu quả như thế nào? Ai nấy đều rõ: miền Nam hiện nay là một sự hỗn loạn, ở đó không có hòa bình, không có an ninh, từ đó có nguy cơ một cuộc chiến tranh uy hiếp không chỉ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà còn uy hiếp cả khu vực Đông Nam Á.

Hãy rút kinh nghiệm sáng tỏ hơn nữa của việc thi hành hay không thi hành Hiệp định Giơnevơ ở nước Lào. Ở đó, lúc Hiệp định Giơnevơ được thi hành thì Vương quốc Lào đi vào con đường hòa bình trung lập hòa hợp dân tộc, đến lúc việc thi hành đó bị phá hoại, thì tình hình chuyển sang nội chiến với nguy cơ một cuộc chiến tranh mở rộng.

Đế quốc Mỹ chơi với lửa, đó là bản chất của nó. Nó muốn chơi với lửa thì nó sẽ chết với lửa, mặc kiếp nó. Đế quốc Mỹ không bao giờ muốn một nước Lào hòa bình trung lập hòa hợp dân tộc, điên cuồng phá hoại Hiệp định Giơnevơ về Lào, có lúc muốn đuổi Uỷ ban quốc tế ở Lào cho bằng được. Chúng tưởng như vậy, thì chúng có thể rảnh tay để nuốt sống nước Lào. Nhưng tình hình đã biến chuyển không theo chiều hướng mong muốn của đế quốc Mỹ, mà theo ý nguyện và sức đoàn kết và đấu tranh của nhân dân Lào. Đến nay mọi người đều thấy rằng phải trở lại Hiệp định Giơnevơ về Lào và khôi phục lại hoạt động của Uỷ ban quốc tế. Tốt lắm! Nhưng tình hình đã khác, lịch sử không lặp lại, và ngày nay, nếu lịch sử có lặp lại, thì trong những điều kiện mới, lúc lực lượng so sách giữa đế quốc và nhân dân bất cứ trên phạm vi thế giới, trong một nước, đều có sự thay đổi rõ rệt, có lợi về phía nhân dân.

Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước sau như một kiên quyết phấn đấu để Hiệp định Giơnevơ được thi hành đầy đủ và nghiêm chỉnh, vì hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ của nước Việt Nam và vì hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á. Chúng ta kiên quyết phấn đấu chống mọi sự vi phạm, mọi sự xuyên tạc Hiệp định Giơnevơ. Nhân dân ta càng có sức mạnh, cuộc đấu tranh chính nghĩa của chúng ta càng được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân thế giới, thì chúng ta càng có khả năng đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, thi hành mọi điều khoản của hiệp định, trong đó điều khoản trọng yếu hơn hết là việc thực hiện thống nhất đất nước chúng ta.

Hòa bình thống nhất Tổ quốc

Thống nhất Tổ quốc là quyền của dân tộc Việt Nam, là việc của nhân dân Việt Nam, không một nước ngoài nào được xâm phạm đến, không một nước ngoài nào được can thiệp vào. Đó là trách nhiệm của chính quyền hai miền thực sự coi trọng quyền lợi của Tổ quốc và nguyện vọng của nhân dân.

Về phần của mình, từ ngày ký kết Hiệp định Giơnevơ, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhiều lần công bố rõ rệt thái độ, quan điểm và lập trường của mình đối với vấn đề quan trọng bậc nhất này của nước, của dân. Những cố gắng tích cực, không mệt mỏi của chúng ta đã có tiếng vang sâu rộng trong đồng bào miền Nam và trong dư luận quốc tế.

Một năm sau khi ký kết Hiệp định Giơnevơ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bản cương lĩnh của Mặt trận đã nêu rõ chủ trương thống nhất nước Việt Nam trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình, đồng thời vạch rõ những biện pháp nhằm tiến tới thực hiện chủ trương đó.

Nội dung và tinh thần của bản cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam biểu hiện rõ rệt ý chí độc lập, tự chủ và thống nhất của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam quyết tự giải quyết lấy vận mệnh của mình, không thừa nhận, không dung thứ bất kỳ sự can thiệp nào của nước ngoài, mọi vấn đề của dân tộc Việt Nam đều do dân tộc Việt Nam cùng nhau thương lượng, thỏa thuận để giải quyết, dựa vào ý nguyện của nhân dân để giải quyết.

Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nêu cao ý chí của dân tộc Việt Nam ta một lòng đoàn kết và đấu tranh để: “thực hiện bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất lãnh thổ toàn vẹn là những quyền lợi không thể xâm phạm của Việt Nam. Kiên quyết chống lại tất cả những hành động và âm mưu phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đồng thời tẩy trừ những tai họa của chế độ thực dân ở Việt Nam”.

Xuất phát từ tình hình khách quan của nước ta. Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói rõ rằng: “Muốn thực hiện một cách thuận lợi việc thống nhất Tổ quốc bằng phương pháp hòa bình, chúng ta phải chiếu cố đến tình hình thực tế của hai miền, chiếu cố đến lợi ích và nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân, đồng thời dùng cách hiệp thương đi đến thực hiện thống nhất, không nên bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào”.

Ngày nay sự lớn mạnh của phong trào yêu nước ở miền Nam và những biến chuyển thuận lợi của tình hình thế giới càng làm sáng tỏ sự đúng đắn của những chủ trương về thống nhất nước nhà của bản cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đó là cơ sở tốt để trao đổi ý kiến, thảo luận giữa người Việt Nam ở hai miền với nhau; đó là cơ sở tốt để chính quyền hai miền cùng nhau bàn bạc, thương lượng, cùng nhau giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến sự nghiệp thống nhất, cùng nhau chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, trước mắt, cùng nhau lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền vì những lợi ích rất thiết thực của đồng bào ta ở hai miền. Tóm lại, phải tiến tới có sự hiệp thương giữa chính quyền hai miền theo tinh thần của Hiệp định Giơnevơ.

“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; ý chí thống nhất Tổ quốc của nhân dân cả nước ta không bao giờ lay chuyển, cuối cùng chúng ta nhất định sẽ thắng lợi”.

TÌNH HÌNH QUỐC TẾ VÀ
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA NƯỚC TA

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Tình hình quốc tế

Chúng ta đương sống những ngày tháng đầy ý nghĩa trong một giai đoạn hết sức quan trọng của lịch sử loài người.

Sự kiện quốc tế to lớn nhất trong thời gian qua là sự thành công tốt đẹp của Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và Công nhân tại Mátxcơva tháng 11 năm 1960.

Hội nghị đã nhận định rất đúng rằng:

“Kết quả chính trong những năm qua là sự phát triển mãnh liệt của lực lượng và của ảnh hưởng quốc tế của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, là quá trình sụp đổ dồn dập của hệ thống thuộc địa dưới những đòn đả kích của phong trào giải phóng dân tộc, là sự phát triển của các trận chiến đấu giai cấp trong thế giới tư bản chủ nghĩa, là sự suy sụp và thối nát hơn nữa của hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới. Trên vũ đài quốc tế, lực lượng của chủ nghĩa xã hội ngày càng tỏ ra hơn hẳn lực lượng chiến tranh”.

Và:

“Đã đến lúc mà các nước xã hội chủ nghĩa, sau khi thành hệ thống thế giới, trở thành lực lượng quốc tế tác động mạnh mẽ tới sự tiến triển của thế giới. Do đó, hiện nay đã xuất hiện những khả năng thực tế để giải quyết những vấn đề quan trọng nhất của thời đại chúng ta theo lối mới, vì lợi ích của hòa bình, dân chủ, và chủ nghĩa xã hội”.

Dần dần nhân dân các nước trên thế giới nhận thấy rằng: hệ thống xã hội chủ nghĩa đương trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của thế giới ngày nay. Điều đó không phải chỉ vì các nước xã hội chủ nghĩa lớn mạnh vô cùng nhanh chóng về mọi mặt, trong lúc các nước đế quốc chủ nghĩa, trước hết là đế quốc Mỹ ngày càng suy yếu, cán cân lực lượng đã nghiêng hẳn về phía chủ nghĩa xã hội, mà còn vì Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác là những người phấn đấu kiên quyết nhất cho những quyền lợi cơ bản nhất của mọi dân tộc, cho cả nhân loại là hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, trong lúc các nước đế quốc chủ nghĩa nhất là đế quốc Mỹ ngày càng phơi bày mặt thật của chúng: phản động và hiếu chiến, ăn cướp và bóc lột.

Hiện nay, Liên Xô vĩ đại xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản trên quy mô rộng lớn, với khí thế vô cùng mạnh mẽ. Nhân dân Liên Xô đương ra sức thực hiện vượt mức kế hoạch bảy năm, đó là một bước để đuổi kịp và vượt Mỹ, nước tư bản chủ nghĩa lớn mạnh nhất, về mặt kinh tế. Những thành tựu của Liên Xô về khoa học kỹ thuật: trạm tự động phóng về phía sao kim, những con tầu vũ trụ khổng lồ phóng lên quỹ đạo, bay quanh trái đất, rồi lại thu về theo ý muốn của con người là những công trình vĩ đại ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa xã hội và trí tuệ của con người, là những cống hiến quý báu đối với hòa bình và tiến bộ xã hội, mà nhân dân thế giới khâm phục sâu sắc và nhiệt liệt hoan nghênh. Liên Xô là ngôi sao sáng ngời đương vạch cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả nhân loại con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội lý tưởng, tiến tới chủ nghĩa cộng sản.

Bên cạnh Liên Xô, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vĩ đại đương động viên sức lực hùng hậu của 650 triệu người để xây dựng đời sống mới, đương tiến những bước mạnh mẽ và thu những thành tích huy hoàng. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa luôn luôn nêu cao ngọn cờ chống chủ nghĩa đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ, vì sự nghiệp giải phóng chung của các dân tộc bị áp bức và sự nghiệp hòa bình của thế giới. Vì vậy bọn đế quốc và tay sai của chúng rất thù ghét và đua nhau vu khống nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhưng cũng vì vậy mà chúng ta, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, càng nhiệt liệt hoan hô nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, một cường quốc trên thế giới mà sự có mặt là cần thiết để giải quyết những vấn đề quốc tế quan trọng ngày nay.

Hiện nay tất cả các nước anh em khác trong phe ta đều đương xây dựng thắng lợi cơ sở của chủ nghĩa xã hội, và có những nước đã bước vào thời kỳ xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa tiên tiến.

Nguồn gốc của sức mạnh vô địch và tác dụng ngày càng sâu rộng của phe xã hội chủ nghĩa là sự đoàn kết nhất trí của các nước xã hội chủ nghĩa trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bản tuyên bố của Hội nghị Mátxcơva nhấn mạnh:

“Phe xã hội chủ nghĩa là một khối cộng đồng xã hội, kinh tế và chính trị của các dân tộc tự do, có chủ quyền, gắn bó chặt chẽ với nhau theo tình đoàn kết xã hội chủ nghĩa quốc tế, nhất trí về lợi ích và mục tiêu chung, cùng đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Quy luật không gì lay chuyển nổi của những mối quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa là nghiêm chỉnh tôn trọng những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, của chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa. Trong phe xã hội chủ nghĩa, mỗi một thành viên đều bảo đảm quyền bình đẳng và tự chủ thật sự”.

Xuất phát từ những nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, cùng có lợi và tương trợ theo tình đồng chí, các nước xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh sự hợp tác về kinh tế, chính trị và văn hoá. Điều đó phù hợp với lợi ích của mỗi nước xã hội chủ nghĩa cũng như của toàn phe xã hội chủ nghĩa nói chung.

Một nhân tố cực kỳ quan trọng của tình hình quốc tế ngày nay là phong trào giải phóng dân tộc đương làm lung lay cả thế giới tư bản… Cách đây gần nửa thế kỷ Lênin đã đoán trước những giông tố từ các nước thuộc địa của đế quốc sẽ nổi lên và sẽ quét chế độ thực dân, góp phần cống hiến quan trọng vào việc đánh đổ chế độ tư bản. Thiên tài Lênin đã nhìn thấy sâu xa trong lịch sử tiến hóa của xã hội, nhìn thấy khả năng cách mạng vô cùng to lớn của các dân tộc bị áp bức ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh. Quả tim của Lênin rất gần quả tim của người bị áp bức, và quả tim của người bị áp bức từ lâu đã mở ra để đón ánh sáng do Cách mạng tháng Mười vĩ đại chiếu rọi khắp bốn biển năm châu, và từ đó ngày càng đông đảo và mạnh mẽ đứng lên đấu tranh để tự giải phóng. Sau Cách mạng tháng Mười phong trào giải phóng dân tộc bắt đầu sôi nổi, sau Đại chiến thế giới lần thứ II, với sự hình thành của hệ thống thế giới của chủ nghĩa xã hội, phong trào ấy lớn mạnh lên rất nhiều, và ngày nay, phong trào vĩ đại ấy đương tiến lên đánh những trận quyết liệt nhất, giành những dinh lũy kiên cố nhất của chủ nghĩa thực dân, những chỗ dựa mà bọn đế quốc kiên trì nhất. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng dân tộc giải phóng là hai người bạn chiến đấu, hai lực lượng đồng minh rất gần gũi nhau, rất đoàn kết thân ái với nhau và ngày càng kề vai sát cánh trong công cuộc đấu tranh nhằm những mục tiêu chung là chống đế quốc xâm lược và hiếu chiến, vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Nước Việt Nam ta trước đây là một nước thuộc địa, ngày nay hãy còn nửa nước bị đế quốc xâm lược, chúng ta biết rõ rằng, muốn tự giải phóng phải đấu tranh và phải dựa vào sức mạnh của mình là chính, đồng thời có thể dựa vào sự ủng hộ kiên quyết và mạnh mẽ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô và Trung Quốc. Đó là một sự thật mà lịch sử ngày càng chứng thực. Người ta không thể tưởng tượng sự lớn mạnh đều đặn và nhanh chóng như vậy của phong trào giải phóng dân tộc, nếu không có phe xã hội chủ nghĩa và sự ủng hộ tích cực của phe xã hội chủ nghĩa. Mọi người còn nhớ giá trị của tiếng nói của Liên Xô lúc Anh, Pháp xâm lược Ai Cập (5-11-1956), lúc Mỹ xâm lược Libăng (ngày 16-7-1958) và gần đây lúc Mỹ gầm thét làm vang động cả biển Caribê, nhưng chung quy cũng chỉ gầm thét trước sức mạnh bình tĩnh của nhân dân Cuba anh dũng! Và hiện nay bất cứ ở đâu, ở Lào, ở Cônggô và Angiêri, ở châu Mỹ la tinh, chúng ta thấy rõ sức mạnh và khí thế của phong trào giải phóng dân tộc được sự ủng hộ đầy nhiệt tình của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Trong năm qua, 17 nước châu Phi đã tuyên bố độc lập. Trong năm qua, nhân dân Nam Triều Tiên đánh đổ Lý Thừa Vãn, nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ đánh đổ Menderet, nhân dân Nhật Bản đánh đổ Kisi.
Hiện nay, nhân dân Cônggô anh dũng tiếp tục cuộc đấu tranh mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Didenga, Chính phủ hợp pháp duy nhất của nhân dân Cônggô dương cao ngọn cờ của Lumumba bất diệt. Hiện nay, cuộc đấu tranh của tất cả lực lượng yêu nước của nhân dân Lào, mặc dầu sự can thiệp của đế quốc Mỹ và những nước theo Mỹ, đã liên tiếp giành thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm rung động các nước đế quốc phương Tây và khối quân sự Đông Nam Á.

Những sự kiện đó chứng tỏ rằng sự phát triển của lịch sử đòi hỏi một cách bức thiết phải xóa bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn chế độ thực dân dưới mọi hình thức theo đề nghị của Chính phủ Liên Xô ở khóa họp XV, của Đại hội đồng Liên hợp quốc, đề nghị này đã đưa đến bản nghị quyết của Liên hợp quốc mà tuyệt đại đa số các nước hội viên đều bỏ phiếu tán thành, chỉ trừ mấy nước đế quốc thực dân.

Phong trào hòa bình trên thế giới ngày càng phát triển, lôi cuốn các tầng lớp nhân dân đông đảo trong các nước, cả trong các nước tư bản. Khu vực hòa bình ngày càng mở rộng. Mọi thủ đoạn uy hiếp và dụ dỗ của các nước đế quốc đều không thể ngăn cản khuynh hướng hòa bình trung lập ngày càng ảnh hưởng tới chính giới ở nhiều nước trên thế giới; người ta nhận thấy rằng đi theo Mỹ và các nước đế quốc phương Tây, bị lôi cuốn vào các khối quân sự, thì sẽ bị cô lập và chỉ đem lại tai họa cho bản thân nước mình.

Phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa là một lực lượng lớn đương đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa đế quốc. Phong trào công nhân chẳng những phát triển sôi nổi và liên tục chưa từng thấy tại những nước tư bản chủ nghĩa lớn như Pháp, Ý, Tây Đức, Nhật Bản, Bỉ, Anh, Mỹ mà còn lan tới cả nhiều vùng Nam Á và châu Mỹ la tinh, v.v.. Phong trào ấy ngày càng lớn mạnh, ngày càng kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị, ngày càng chĩa thẳng mũi nhọn vào bọn tư bản độc quyền, chống chạy đua vũ trang, chống chuẩn bị chiến tranh và chống chủ nghĩa thực dân, do dó đã thu được thắng lợi lớn và có triển vọng phát triển mạnh mẽ và vững chắc.

Trong những điều kiện quốc tế như vậy, thì phe đế quốc chủ nghĩa càng thêm suy yếu, bị cô lập và nội bộ chia rẽ. Như bản tuyên bố Mátxcơva đã nói “chủ nghĩa tư bản đã bước vào một giai đoạn mới của cuộc tổng khủng hoảng”. Nước lớn mạnh trong hệ thống tư bản chủ nghĩa là Mỹ đương đứng trước một cơn khủng hoảng mới rất trầm trọng, khủng hoảng về công, nông nghiệp đi liền với khủng hoảng về kim dung, tiền tệ. Cuộc khủng hoảng lần này đặc biệt sâu sắc, nó không những làm suy yếu cả nền kinh tế của Mỹ, mà đồng thời làm suy yếu cả nền kinh tế của hệ thống tư bản chủ nghĩa nói chung.

Những mâu thuẫn trong phe đế quốc chủ nghĩa càng trở nên gay gắt. Đế quốc Mỹ tìm mọi cách trút gánh nặng khủng hoảng lên lưng các nước đồng minh, nhưng các nước đồng minh của Mỹ thì lại nhân lúc Mỹ gặp khó khăn mà ra sức chiếm đoạt thị trường và cạnh tranh với Mỹ. Mâu thuẫn về kinh tế đã khoét sâu thêm mâu thuẫn về chính trị. Những sự tranh cãi không ngừng xảy ra gần đây trong khối Bắc Đại Tây Dương đương phản ánh sự giành giật ngày càng kịch liệt giữa Mỹ với các nước Tây Âu và giữa các nước Tây Âu với nhau thuộc hai khối “Thị trường chung” và “Khu mậu dịch tự do”.

Trong nước thì ngày càng gặp khó khăn về kinh tế, ngày càng bị nhân dân phản đối, trên thế giới thì bị thất bại liên tiếp và bị cô lập chưa từng thấy, trong nội bộ thì chia năm xẻ bẩy: đó là cảnh tượng suy yếu không gì cứu vãn nổi của Mỹ và của phe đế quốc chủ nghĩa.

Trước tình hình ấy, Tổng thống mới của Mỹ là ông Kennơđi sau khi thú nhận những thất bại nặng nề về mọi mặt, và than thở rằng: “Thời gian không ủng hộ chúng ta nữa”, nhưng lại đề ra chính sách tăng cường sản xuất tên lửa, chuẩn bị chiến tranh hạt nhân, đồng thời chuẩn bị chiến tranh cục bộ, tìm mọi cách thâm nhập vào các nước châu Á, châu Phi, và cố bám các nước châu Mỹ la tinh. Xem ra thì đó chẳng qua chỉ là chính sách cũ được tiến hành mạnh mẽ hơn về cả 3 mặt quân sự, kinh tế, ngoại giao và cố ý che dấu dưới những hình thức kín đáo, giả nhân giả nghĩa.

Rõ ràng, như bản tuyên bố Mátxcơva đã chỉ rõ: “Bản chất của chủ nghĩa đế quốc là không hề thay đổi”. Càng đi đến chỗ tan rã hoàn toàn, chủ nghĩa đế quốc càng điên cuồng tìm đường tự cứu, cho nên nhiệm vụ của nhân dân ta và nhân dân thế giới là phải luôn luôn đề cao cảnh giác, tiếp tục tăng cường đoàn kết và đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng.

Thưa các đồng chí đại biểu,

Hoạt động ngoại giao của nước ta

Trong thời gian qua, hoạt động ngoại giao của nước ta có những bước phát triển mới, ăn nhịp với sự phát triển của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, và ăn nhịp với sự phát triển của tình hình quốc tế: ngày nay, từ các nước xã hội chủ nghĩa, từ các nước Đông Nam Á gần ta sang tất cả các nước ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh, nhân dân thế giới biết nước ta, dân ta nhiều hơn trước. Trước đây, về nước ta, dân ta, người ta biết: Việt Nam- Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh, ngày nay người ta biết nhiều hơn, rõ hơn, người ta biết nhân dân ta đương xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng một đời sống mới ở miền Bắc, và đương đấu tranh để giải phóng miền Nam và thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc. Hiểu biết chúng ta hơn, nhân dân thế giới đồng tình với chúng ta nhiều hơn, ủng hộ chúng ta mạnh mẽ hơn trong cuộc đấu tranh yêu nước ở miền Nam và trong sự nghiệp thống nhất nước nhà. Chúng ta đánh giá rất cao sự đồng tình và ủng hội của nhân dân thế giới, coi đó là sức cổ vũ vô cùng mạnh mẽ đối với chúng ta trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của chúng ta.

Những điều kể trên chứng tỏ rằng về mặt quốc tế, địa vị, ảnh hưởng và uy tín của nhân dân Việt Nam ta và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày được nâng cao. Đó là một thắng lợi quan trọng của hoạt động đối ngoại của nước ta.

Thưa các đồng chí đại biểu,

Trong thời gian qua, chúng ta đã ra sức tăng cường sự đoàn kết nhất trí giữa nước ta và các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa. Trung thành vô hạn với chủ nghĩa quốc tế vô sản, chúng ta đã hết lòng hết sức góp phần của chúng ta vào việc tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa. Và tất cả các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, đều một lòng một dạ tỏ tình anh em nồng nhiệt đối với chúng ta, ra sức giúp đỡ chúng ta trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh để thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc chúng ta theo những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ.

Từ ngày hòa bình lập lại, mối quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa đã không ngừng được củng cố và phát triển. Việc hoàn thành thắng lợi kế hoạch ba năm 1958 - 1960 của chúng ta không thể tách khỏi sự giúp đỡ to lớn và quý báu của phe xã hội chủ nghĩa. Chúng ta chân thành cảm tạ Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã hết lòng giúp đỡ nhân dân ta về mọi mặt: tiền vốn, thiết bị, chuyên gia và đào tạo cán bộ. Trong mấy tháng gần đây, đoàn đại biểu Chính phủ ta do đồng chí Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh dẫn đầu đã đàm phán và ký kết những Hiệp nghị về quan hệ hợp tác kinh tế và văn hoá dài hạn giữa ta với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Với sự cố gắng của nhân dân ta, sự hợp tác tương trợ anh em này là một điều bảo đảm vững chắc cho việc hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Nhân dân ta nhận rõ trách nghiệm của mình phải ra sức sử dụng một cách tốt nhất sự giúp đỡ to lớn của các nước anh em, đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc, trong công cuộc xây dựng đời sống mới ở miền Bắc.

Trong thời gian qua chúng ta đã mở rộng hoạt động ngoại giao về hướng các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh. Những nước đó cùng chung với chúng ta một cảnh ngộ: đã từng sống dưới gót sắt của đế quốc, đã từng đấu tranh để tự giải phóng, đương hoặc sẽ tự tay mình xây dựng đời sống mới của mình. Đối với những nước đó chúng ta có ít nhiều cống hiến: chúng ta chứng minh rằng đế quốc là kẻ cướp, phải đánh đuổi ra khỏi nhà, và một dân tộc bị áp bức, dẫu nhỏ yếu, miễn là một lòng đoàn kết và kiên quyết đấu tranh, thì trong thế giới ngày nay, có đầy đủ khả năng đánh đuổi đế quốc xâm lược và tự giải phóng; chúng ta chứng minh rằng, một nước lạc hậu, cùng cực như nước ta trước đây, miễn là tin tưởng mạnh mẽ vào sức lao động sáng tạo vĩ đại của quần chúng nhân dân, đồng thời dựa vào sự giúp đỡ quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa, thì có đầy đủ khả năng từng bước xây dựng kinh tế và văn hoá, cải thiện đời sống, dần dần trở nên một nước giàu mạnh.

Giữa nước ta, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh, mặc dầu có những xa cách nhưng về nhiều mặt, từ trước đã từng có cảm tình với nhau, từng ủng hộ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, cho nên khi giành được độc lập, có chủ quyền dân tộc, những nước đó sẵn sàng thừa nhận nước ta và lập quan hệ với nước ta, cùng với chúng ta thắt chặt tình hữu nghị và tăng cường sự hợp tác tương trợ lẫn nhau để xây dựng đời sống mới.

Gần đây nhất, nước ta đã đặt quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa Ghinê, nước Cộng hòa Mali, Vương quốc Marốc và sắp đặt ngoại giao với một số nước khác ở châu Phi. Nước ta đã đặt quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa Cuba, nước thứ nhất ở châu Mỹ la tinh đang giương cao ngọn cờ đấu tranh cho độc lập dân tộc, chống đế quốc Mỹ.

Mới đây, một đoàn đại biểu Chính phủ ta do đồng chí Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm dẫn đầu đã đi thăm một số nước châu Phi. Cuộc đi thăm đó có tác dụng thắt chặt hơn nữa quan hệ hữu nghị sẵn có giữa nhân dân và Chính phủ ta với nhân dân và Chính phủ các nước châu Phi. Đó là cơ hội tốt để nhân dân ta tỏ lòng khâm phục và sự ủng hộ nhiệt liệt đối với cuộc đấu tranh vĩ đại của nhân dân Angiêri, nhân dân Cônggô và nhân dân nhiều nước khác ở châu Phi nhằm xóa bỏ chế độ thực dân, chống xâm lược của đế quốc giành độc lập dân tộc.

Một điều rất quý báu là nhân dân châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh ngày càng nhận thấy rõ rệt rằng Chính phủ ta, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là người tiêu biểu những quyền dân tộc của cả nước ta, cả dân tộc ta, càng có tình cảm với sự nghiệp hòa bình thống nhất đất nước ta. Toàn thể dân tộc Việt Nam ta kính gửi đến nhân dân châu Á, châu Phi, và châu Mỹ la tinh lời chào anh em nhiệt liệt nhất và lòng biết ơn sâu sắc của mình.

Thưa các đồng chí đại biểu,

Trong thời gian qua chúng ta đã cố gắng phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước ở Đông Nam châu Á, với nước Ấn Độ, nước Inđônêxia, nước Miến Điện. Mỗi tình hữu nghị đằm thắm giữa nhân dân Thái Lan và nhân dân Việt Nam ta được biểu hiện rõ rệt trong thái độ của nhân dân Thái Lan đối với kiều bào ta ở đất Thái cũng như lúc rời đất Thái để trở về quê hương Tổ quốc. Chúng ta nguyện cố gắng hơn nữa để thắt chặt tình hữu nghị và mở rộng quan hệ hợp tác về mọi mặt giữa nước ta và các nước ở Đông Nam Á trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống hòa bình theo tinh thần Băngđung.

Chúng ta vui mừng nhận thấy rằng quan hệ giữa nước ta và Vương quốc Campuchia phát triển thuận lợi. Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa triệt để ủng hộ chính sách hòa bình trung lập của Vương quốc Campuchia, và tin rằng dưới sự lãnh đạo của Thái tử Xihanúc, Quốc trưởng, nhân dân Campuchia ngày càng thu được những thắng lợi mới trong việc xây dựng kinh tế và văn hoá, góp phần cống hiến tích cực của mình vào việc giữ gìn hòa bình ở Đông Nam châu Á. Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh cuộc hội nghị quốc tế 14 nước về Lào sẽ họp tại Phnôm Pênh, Thủ đô của Vương quốc Campuchia. Chúng ta ra sức thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Khơme, giữa nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Vương quốc Campuchia.

Đối với Vương quốc Lào, nước láng giềng của chúng ta về phía Tây, từ lâu chúng ta mong muốn có quan hệ hữu nghị tốt. Chúng ta vui mừng nhận thấy gần đây, quan hệ ấy có một bước phát triển quan trọng; đó là việc thành lập cơ quan đại diện kinh tế và văn hoá của Vương quốc Lào ở Hà Nội và của nước ta bên cạnh Chính phủ của Hoàng thân Souvana Phouma. Trong buổi chiêu đãi nhân dịp thành lập cơ quan đại diện của Vương quốc Lào ở Hà Nội, ông Thao Pheng, người đại diện của Chính phủ Vương quốc, có nói một câu đầy ý nghĩa:

“Do sự can thiệp của nước ngoài,… nên một thời gian nước Lào và nước Việt Nam không có quan hệ với nhau. Ngày nay, hai nước chúng ta đã thấy rõ và đã đến lúc hai nước chúng ta bắt tay nhau và giúp đỡ lẫn nhau vì hạnh phúc và sự phồn vinh của hai dân tộc chúng ta. Cho nên, tôi thiết tưởng rằng quốc kỳ Lào hôm nay bay phấp phới và sẽ mãi mãi bay phấp phới trước cơ quan đại diện kinh tế, văn hoá của Chính phủ Vương quốc Lào tại Hà Nội, và quốc kỳ Việt Nam rồi đây sẽ bay phấp phới trước cơ quan đại diện Việt Nam ở Lào, và đó là những lá cờ hữu nghị và hòa bình giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào”.

Đúng như vậy, nhân dân Việt Nam ta có cảm tình sâu sắc với nhân dân Lào và một lòng ủng hộ cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Lào để giành hòa bình, trung lập độc lập và thống nhất của nước Lào. Theo tinh thần đó, nhân dân Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh sáng kiến của Chính phủ Liên Xô nhằm giải quyết hòa bình vấn đề Lào hợp với ý nguyện của nhân dân Lào và đúng với tinh thần của Hiệp định Giơnevơ. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên bố hoàn toàn ủng hộ những chủ trương sáng suốt và hợp thời của Chính phủ Liên Xô, và nguyện cố gắng góp phần cống hiến của mình vào việc lập lại hòa bình ở Lào trên cơ sở công nhận những quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Lào. Là một bên ký Hiệp định Giơnevơ về Lào và một nước láng giềng của Vương quốc Lào, chúng ta kiên quyết phản đối chính sách can thiệp của đế quốc Mỹ vào nước Lào nhằm biến nước Lào thành một căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ và một mối đe dọa đối với an ninh của nước ta. Hiện nay, rõ ràng là đế quốc Mỹ và một số nước trong khối quân sự Đông Nam Á chưa phải từ bỏ những âm mưu can thiệp của chúng vào nước Lào. Điều đó biểu lộ rõ rệt trong những lời tuyên bố hiếu chiến của chúng nhân cuộc họp gần đây của Hội đồng của khối và nhất là trong hoạt động quân sự tấp nập của chúng. Trong khi bọn chúng diễu võ dương oai như vậy, thì những sáng kiến hòa bình của Liên Xô càng có ý nghĩa, nhân dân Lào càng thấy rõ ở đó chính sách hòa bình và chung sống hòa bình của phe xã hội chủ nghĩa và của nước ta, càng ra sức đoàn kết và đấu tranh để thực hiện những quyền dân tộc cơ bản của mình: hòa bình, trung lập, độc lập, thống nhất dưới sự lãnh đạo của một Chính phủ tiêu biểu khối hòa hợp dân tộc: Chính phủ của Hoàng thân Souvana Phouma, với sự công nhận và cam kết tôn trọng của một hội nghị quốc tế kiểu hội nghị Giơnevơ mở rộng, theo đề nghị của Thái tử Xihanúc.

Chúng ta tin chắc rằng cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Lào, được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới nhất định sẽ thắng lợi vẻ vang.

Thưa các đồng chí đại biểu,

Từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chúng ta một mực chủ trương chính sách ngoại giao hòa bình, và chúng ta sẽ kiên quyết thực hiện chính sách ấy, bởi vì đó là chính sách duy nhất đúng đắn của một nước xã hội chủ nghĩa, hợp với ý nguyện của nhân dân ta và nhân dân thế giới.

Ngày nay lực lượng của chủ nghĩa xã hội mạnh hơn lực lượng của chủ nghĩa đế quốc, lúc lực lượng của hòa bình mạnh hơn lực lượng của chiến tranh, thì nhân dân thế giới có khả năng giữ gìn và củng cố hòa bình thế giới. Bản tuyên bố của Hội nghị đại biểu của Đảng Cộng sản và Công nhân vạch rõ:

“Đã đến lúc có thể phá được các âm mưu của bọn đế quốc xâm lược nhằm phát động chiến tranh thế giới. Với những cố gắng tập thể của phe xã hội chủ nghĩa thế giới, của giai cấp công nhân quốc tế, của phong trào giải phóng dân tộc, của tất cả các nước đấu tranh chống chiến tranh và của tất cả các lực lượng yêu chuộng hòa bình, có thể ngăn ngừa được chiến tranh thế giới”.

Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác là những chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp hòa bình thế giới và do đó, ngày càng mở rộng ảnh hưởng và uy tín trong hàng trăm triệu nhân dân thế giới, cả ở các nước tư bản chủ nghĩa châu Âu và châu Mỹ.

Nhân dân Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết ủng hộ chính sách hòa bình và chung sống hòa bình của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, kiên quyết ủng hộ kế hoạch giải trừ quân bị toàn bộ và triệt để do Chính phủ Liên Xô trình bầy trước Liên hợp quốc, kiên quyết ủng hộ những chủ trương của Liên Xô về vấn đề cấm thử, sản xuất, tàng trữ và sử dụng vũ khí nguyên tử và hạt nhân, về vấn đề xóa bỏ căn cứ quân sự ở nước ngoài, thủ tiêu liên minh quân sự, về việc ký hòa ước với nước Đức và giải quyết vấn đề Tây Béclin, v.v.. Ngày nay, mọi người đều nhận thấy rằng những sáng kiến vĩ đại của Liên Xô nhằm giữ gìn và củng cố hòa bình thế giới có sự vang dội sâu rộng trong nhân dân tất cả các nước, gây phấn khởi và tin tưởng trong hàng ngũ những người yêu chuộng hòa bình. Ngày nay, mọi người đều nhận thấy rằng các nước chủ nghĩa xã hội là người chiến sĩ kiên quyết và bền bỉ nhất của sự nghiệp hòa bình thế giới, chống một cuộc chiến tranh hạt nhân hủy diệt.

Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết ủng hộ chủ trương của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc ký kết một điều ước hòa bình, không xâm phạm lẫn nhau và thành lập một khu vực không có vũ khí hạt nhân ở vùng châu Á và Thái Bình Dương. Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh việc Trung Quốc ký kết điều ước hữu nghị, không xâm phạm lẫn nhau, ký kết hiệp nghị về vấn đề biên giới với một số nước, coi đó là những đóng góp tích cực của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào cuộc đấu tranh cho hòa bình và chung sống hòa bình.

Về phần chúng ta, chúng ta luôn luôn cố gắng góp phần cống hiến của mình vào việc giữ gìn và củng cố hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á, do đó mà góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.

Kinh nghiệm sinh động của lịch sử hơn 15 năm của nước ta, kinh nghiệm nóng hổi của chúng ta ngày nay chứng tỏ rằng phải đấu tranh chống đế quốc xâm lược và gây chiến thì mới đem lại thắng lợi cho hòa bình. Và đó cũng là kinh nghiệm của cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình của nhân dân thế giới.

Chính sách bảo vệ hòa bình của chúng ta được biểu hiện rõ rệt trong thái độ của chúng ta đối với Hiệp định Giơnevơ. Chúng ta kiên quyết đấu tranh để Hiệp định Giơnevơ được thi hành nghiêm chỉnh và triệt để, nhằm thực hiện những quyền lợi căn bản của ba dân tộc Việt Nam, Campuchia và Lào, đồng thời để giữ gìn hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á.

Thi hành chính sách ngoại giao hòa bình, chúng ta đã góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Như các nước xã hội chủ nghĩa khác, chúng ta chủ trương chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau và trong thực tế chúng ta đã cùng các nước láng giềng và nhiều nước châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh lập những mối quan hệ thân thiện và tin cậy lẫn nhau. Chúng ta coi đó là những đóng góp tích cực vào việc giữ gìn hòa bình thế giới.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Kết luận

Chúng ta bước vào năm 1961, năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất với những lực lượng mới và khả năng mới, đồng thời chúng ta đứng trước những yêu cầu mới và nhiệm vụ mới to lớn hơn trước. Đó là một quy luật của cách mạng, quy luật của sự trưởng thành của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta bước vào năm 1961 với khí thế mới, khí thế của những người đã từng phấn đấu khắc phục mọi khó khăn gian khổ để không ngừng tiến tới với đà tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc. Từ đầu năm đến nay, nhiều sự kiện chính trị quan trọng đã diễn ra trong đời sống của nhân dân ta ở miền Bắc: đó là Hội nghị lần thứ ba của Trung ương Đảng, đó là những Đại hội của công đoàn, của phụ nữ và của thanh niên. Hôm nay, Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước họp để thảo luận những vấn đề trọng yếu của Nhà nước và của nhân dân. Tất cả những sự kiện chính trị quan trọng đó gây phấn khởi trong quảng đại quần chúng nhân dân nước ta, cổ vũ mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước nhằm hoàn thành vượt mức kế hoạch năm 1961, làm cơ sở và làm đà để hoàn thành tốt kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Hiện nay, chúng ta đã bước vào quý II của năm 1961. Kiểm điểm việc làm của chúng ta trong quý I, chúng ta thấy khắp nơi đều có những cố gắng, những tiến bộ và những thành tích mới. Gió “Đại Phong” đương thổi mạnh ở các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Tấm gương sáng của nhà máy Cơ khí Duyên Hải đương cổ vũ các xí nghiệp và công trường. Từ thành thị đến nông thôn, từ bờ biển lên miền núi, nhân dân lao động miền Bắc nước ta đương ra sức thi đua để thực hiện những chỉ tiêu của kế hoạch năm 1961, những chỉ tiêu của từng quý, từng tháng, từng ngày. Tuy nhiên, chúng ta đều nhận thấy rằng không phải tất cả mọi nơi, mọi ngành, mọi người đều cố gắng hết sức, đã phấn đấu với tinh thần cách mạng cao và đều đã đạt được những thành tích tốt.

Chúng ta phải nhớ rằng những chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước là một hệ thống, một sợi dây chuyền, hễ một chỉ tiêu không thực hiện, thì nhất định gây ảnh hưởng không tốt, có khi nghiêm trọng, đối với cả hệ thống, cả sợi dây chuyền; một ngành chậm tiến có thể kìm hãm bước tiến của nhiều ngành khác. Cho nên những nơi yếu phải cố gắng gấp bội, và ai nấy đều phải có ý thức giúp đỡ nơi đó cố gắng tiến lên hoàn thành nhiệm vụ của mình, thực hiện những chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước thuộc phạm vị trách nhiệm của mình, góp phần thực hiện toàn bộ chỉ tiêu của kế hoạch.

Năm 1961 phải là năm cố gắng vượt bực, làm đà cho việc thực hiện vượt mức kế hoạch 5 năm. Chúng ta phải ra sức phát huy hơn nữa không khí phấn khởi đã xuất hiện từ đầu năm, đẩy mạnh hơn nữa phong trào cách mạng của quần chúng, phong trào thi đua yêu nước, giữ vững và phát triển phong trào về bề rộng và bề sâu, gây thành tác phong làm việc, nếp hoạt động thường xuyên, tự nhiên của người lao động xã hội chủ nghĩa.

Năm 1961 phải làm cơ sở cho sự thực hiện vượt mức kế hoạch 5 năm, điều đó có nghĩa là chúng ta quyết thực hiện tốt kế hoạch nhà nước 1961, để trên cơ sở đó tiến lên thực hiện tốt kế hoạch các năm sau. Một mặt khác điều đó có nghĩa là bắt đầu từ năm 1961, chúng ta phải cố gắng giải quyết tốt những vấn đề cơ bản nhất của kế hoạch 5 năm, những vấn đề của nông nghiệp, của công nghiệp, của xây dựng cơ bản và nói chung những vấn đề cơ bản về kinh tế, văn hóa, về tổ chức, về công tác tư tưởng…

Trong lúc ở miền Bắc nhân dân ta phấn khởi thi đua thực hiện tốt kế hoạch 1961 thì ở miền Nam phong trào yêu nước của đồng bào ta sẽ không ngừng tiến tới, phát triển mạnh mẽ lực lượng về mọi mặt, đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh chống khủng bố và càn quét ngày càng điên cuồng của chính quyền Ngô Đình Diệm, chống sự can thiệp ngày càng trắng trợn của đế quốc Mỹ để giành quyền sống, quyền tự do dân chủ, quyền độc lập dân tộc, góp phần giữa vững hòa bình và thực hiện thống nhất Tổ quốc.

Toàn thể dân tộc Việt Nam ta hãy tăng cường đoàn kết và ra sức đấu tranh làm cho năm 1961 đánh dấu những bước tiến mới về những thắng lợi mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trong phong trào yêu nước ở miền Nam, để tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc, thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh, góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.


 

1,2. Theo tài liệu điều tra của Tổng cục Thống kê. Con số trước chiến tranh lấy theo thống kê chính thức của Pháp.

3. Tỷ trọng ấy ở đây còn chưa phản ánh đúng vai trò kinh tế hợp tác xã, vì một bộ phận quan trọng của các hợp tác xã mới xây dựng trong nửa cuối năm 1960, nên mới chỉ tính một nửa phần sản xuất vào kinh tế hợp tác xã. Năm 1961, tỷ trọng hợp tác xã tăng thêm nhiều.

4. Malaixia (BT).