VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 1 1992-1993

 

TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
*

A- SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT

Một trong những yêu cầu cấp bách nhằm thực hiện mục tiêu của chiến lược kinh tế - xã hội đến năm 2000 là tạo nguồn vốn đầu tư, nhất là cho những công trình quan trọng liên quan tới cơ cấu kinh tế của đất nước. Đi đôi với việc huy động tối đa các nguồn vốn trong nước, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt, nhất là trong khi đầu tư gián tiếp (vay và viện trợ quốc tế) còn hạn hẹp, bị chi phối bởi lệnh cấm vận của Mỹ.

Cho đến nay, nhìn tổng quát, Luật đầu tư của nước ta vẫn được coi là đạo luật có sức hấp dẫn, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại nước ta. Trong bối cảnh chung của đất nước, việc thực hiện Luật trong thời gian qua đã mang lại những kết quả đáng khích lệ, năm sau cao hơn năm trước, thể hiện ở số dự án được cấp giấy phép, ở kết quả kinh tế - xã hội và tài chính thực hiện trong thực tế, ở triển vọng tình hình trong thời gian tới. Nhưng:

Một là, thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng trở thành một cuộc cạnh tranh gay gắt, vì cung cầu về vốn đầu tư trên thế giới có sự biến động lớn: số nước kêu gọi đầu tư tăng lên nhiều; hằng năm, nhu cầu vốn đầu tư nước ngoài hơn 300 tỷ đôla, nhưng nguồn vốn chỉ có khoảng hơn 200 tỷ, trong đó, gần 3/4 đầu tư vào các nước phát triển. Do đó, các nước kêu gọi đầu tư, nhất là các nước đang phát triển, đều không ngừng cải thiện môi trường đầu tư bằng nhiều biện pháp, trong đó chú trọng các biện pháp khuyến khích tài chính, để luôn luôn tạo ra sự hấp dẫn cạnh tranh với các nước khác.

Hai là, thực tiễn hợp tác đầu tư cho phép chúng ta nhận thức rõ hơn vị trí của các mục tiêu kinh tế - xã hội và tài chính1 của hoạt động đầu tư. Không khuyến khích đủ mức về tài chính thì không thu hút được nhiều vốn đầu tư, sẽ hạn chế mục tiêu kinh tế - xã hội; mục tiêu kinh tế - xã hội đạt càng thấp thì nguồn thu tài chính sẽ càng eo hẹp. Mặt khác, thu tài chính đúng mức là thể hiện một phần quan trọng lợi ích của nước chủ nhà và hiệu quả cụ thể của việc thu hút đầu tư nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Ba mục tiêu kinh tế - xã hội và tài chính đều có vị trí quan trọng, tác động qua lại không ngừng. Vấn đề đặt ra là, trong thời điểm và bối cảnh trước mắt của nước ta, trước hết phải nhấn mạnh mục tiêu kinh tế - xã hội, đặt mục tiêu kinh tế - xã hội vào vị trí ưu tiên.

Ba là, tình hình kinh tế nước ta có nhiều biến chuyển tích cực rất có ý nghĩa với sự phát triển của các thành phần kinh tế. Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở pháp lý mới cho việc mở rộng hợp tác với bên ngoài.

Bốn là, từ sau khi ban hành Luật đầu tư, nhất là trong vài năm gần đây và triển vọng các năm tới, trong thực tiễn đầu tư đã và đang xuất hiện một số khả năng và cơ hội mới, những nhu cầu và định hướng mới đòi hỏi phải có những giải đáp mới của pháp luật.

Với những lý do nói trên, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư đã trở thành yêu cầu bức thiết bên cạnh một loạt việc khác cần làm như cải tiến thủ tục đầu tư, tăng cường công tác điều hành quản lý, gấp rút đào tạo cán bộ và kiện toàn tổ chức, nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, thúc đẩy hình hành những dự án thuộc các ngành kinh tế quan trọng như công nghiệp nặng và cơ sở hạ tầng bên cạnh hàng loạt dự án quy mô vừa và nhỏ thuộc nhiều ngành kinh tế quốc dân trên nhiều địa bàn của đất nước.

Pháp luật về kinh doanh của nước ta đang còn nhiều chỗ hổng, chưa đồng bộ, do thiếu nhiều luật có liên quan như các luật dầu khí, khai mỏ, kinh doanh bất động sản, các luật lao động, thương mại, phá sản, v.v. có ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Đó là vấn đề cần khắc phục, nhưng không thể giải quyết ngay trong một lúc. Lần này, qua các cuộc trao đổi ý kiến, Chính phủ chỉ chọn một số vấn đề tương đối chín muồi để kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư.

B- NHỮNG ĐIỀU CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

Một là: Doanh nghiệp tư nhân được tham gia hợp tác với nước ngoài:

Luật sửa đổi và bổ sung Luật đầu tư tháng 6 năm 1990 cho phép các tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân được hợp tác kinh doanh với nước ngoài như là những bên độc lập. Tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân là các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần (Điều 18 Luật công ty). Còn doanh nghiệp tư nhân thì trong Luật doanh nghiệp tư nhân không xác định có tư cách pháp nhân như công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Do đó, doanh nghiệp tư nhân chưa được phép trực tiếp hợp tác kinh doanh với các bạn hàng nước ngoài.

Chúng ta đang đứng trước một thực tế là tư nhân nước ta hiện có một nguồn vốn không nhỏ, nhưng đầu tư vào mục tiêu phát triển sản xuất còn quá ít; những người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng như một số đối tác khác muốn đầu tư vào Việt Nam với quy mô vừa phải phù hợp với khả năng thực tế của mình.

Để cho Luật đầu tư phù hợp hơn với chính sách kinh tế nhiều thành phần được xác định trong Hiến pháp năm 1992, để huy động khả năng hợp tác đầu tư nói trên của một bộ phận tư nhân Việt Nam và một số đối tác bên ngoài, đề nghị cho các doanh nghiệp tư nhân cũng được trực tiếp hợp tác đầu tư với nước ngoài như các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Nếu kiến nghị này được chấp nhận, thì sẽ sửa điểm 2 Điều 2 của Luật đầu tư hiện hành như sau: “Bên Việt Nam là một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế”. Trong văn bản dưới luật, Chính phủ sẽ quy định những lĩnh vực sản xuất tư nhân được phép hợp tác với nước ngoài; tư nhân muốn hợp tác với nước ngoài phải có đủ những tiêu chuẩn quy định trong Luật doanh nghiệp tư nhân, phải có vốn và tay nghề. Việc xét duyệt và cho phép phải do cấp có thẩm quyền quyết định. Quy định như vậy là nhằm bảo đảm quản lý tốt hoạt động này của tư nhân.

Hai là: Bên Việt Nam góp vốn bằng các nguồn tài nguyên, quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển:

1. Điều 7 khoản 2 mục 2 của Luật hiện hành quy định: Bên Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng các nguồn tài nguyên.

Trong thời gian qua, chưa có trường hợp nào Bên Việt Nam tham gia liên doanh góp vốn bằng nguồn tài nguyên. Tài nguyên là sở hữu nhà nước, phải được quy hoạch và kế hoạch hóa việc sử dụng; không thể coi tài nguyên là nguồn vốn nhà nước giao cho doanh nghiệp Việt Nam để liên doanh với nước ngoài dưới dạng góp vốn. Do đó, đề nghị bỏ mục 2 khoản 2 Điều này.

2. Điều 7 khoản 2 mục 4 của Luật quy định: “Bên Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển”…

Vừa qua trong các xí nghiệp liên doanh, tỷ trọng góp vốn của Bên Việt Nam thường rất thấp và phần lớn bằng quyền sử dụng đất. (Nói cụ thể là mượn tiền thuê đất của Nhà nước để góp vốn). Chính phủ cho rằng muốn tăng phần góp vốn của Bên Việt Nam, trước hết phải tích cực động viên các nguồn vốn sẵn có trong xã hội bằng nhiều hình thức linh hoạt như huy động cổ phần, động viên chung vốn của nhiều tổ chức và cá nhân. Đó là biện pháp cơ bản mà thời gian qua chưa được đặt đúng vị trí, chưa có sự quan tâm của các ngành, các cấp. Đồng thời, trong tình hình thực tế hiện nay, nếu loại bỏ ngay việc góp vồn bằng quyền sử dụng đất thì tỷ trọng vốn pháp định của Bên Việt Nam sẽ rất thấp, không có lợi trong liên doanh, nên cần duy trì thực hiện một số năm nữa. Nhưng để tránh những sự lỏng lẻo trong việc sử dụng đất, cần giao cho Chính phủ quy định những điều kiện cụ thể nhằm quản lý chặt chẽ và bảo đảm hiệu quả của việc dùng quyền sử dụng đất để góp vốn. Muốn vậy, cần sửa mục 4 khoản 2 Điều 7 như sau: "Bên Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng giá trị quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển theo quy định của Chính phủ” Trong trường hợp bên Việt Nam dùng tiền thuê đất của Nhà nước để góp vốn, thì cần làm thủ tục nhận nợ và hoàn trả vốn ngân sách nhà nước.

Ba là: Tăng dần tỷ trọng vốn góp của Bên Việt Nam:

Luật đầu tư của một số nước quy định: trong một số lĩnh vực, nhà đầu tư nước ngoài không được phép kinh doanh hoặc chỉ được chiếm một tỷ trọng vốn thấp hơn. Luật đầu tư hiện hành của nước ta không giới hạn tỷ lệ góp vốn tối đa của bên nước ngoài trong xí nghiệp liên doanh, thậm chí cho phép nước ngoài đầu tư 100% vốn, chủ yếu do ta thiếu vốn. Tuy nhiên, lợi ích quốc gia đòi hỏi các bên Việt Nam phải nỗ lực tăng tích lũy theo tinh thần “Cần kiệm xây dựng đất nước” để tăng dần tỷ trọng vốn góp, trước hết trong những công trình quan trọng có ảnh hưởng lớn tới kinh tế - xã hội. (Chính phủ sẽ xác định danh mục loại công trình này). Vậy, giải pháp nên như thế nào?

Trước mắt, do nhiều nguyên nhân, chưa nên xác định tỷ lệ cụ thể về tăng vốn góp trong Luật, nhưng trong Luật cần có một điều, khoản đề cập vấn đề này, để trong đàm phán, ký kết hợp đồng về những dự án quan trọng nói trên, các bên tự thỏa thuận mức độ tăng dần vốn góp của bên Việt Nam bằng cách mua lại từng phần vốn của bên nước ngoài. Do vậy, cần bổ sung vào cuối điểm 2 Điều 8 và Điều 14 của Luật một điều khoản với tinh thần như sau: đối với những cơ sở kinh tế quan trọng do Chính phủ xác định, các bên thỏa thuận việc tăng dần tỷ trọng vốn góp của bên Việt Nam trong vốn pháp định của xí nghiệp liên doanh; các doanh nghiệp Việt Nam, trên cơ sở thỏa thuận, được mua lại từng phần vốn của bên nước ngoài trong các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và chuyển những xí nghiệp đó thành xí nghiệp liên doanh.

Bốn là: Thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:

Điều 15 của Luật hiện hành quy định: “Thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không quá 20 năm. Trong trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể dài hơn”. Quy định như trên có hai nhược điểm: một là, thời hạn 20 năm là quá ngắn; hai là, “trong trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể dài hơn”, nhưng dài hơn là bao lâu, không được xác định, dễ sinh tùy tiện trong vận dụng.

Nếu quy định thời hạn hoạt động của xí nghiệp là 20 năm thì không thể du nhập những dự án quy mô lớn, những công trình có độ lâu bền cao, kỹ thuật tiên tiến, không thể xây dựng những khu công nghiệp tập trung, không thể thu hút vốn cho việc trồng cây công nghiệp dài ngày như cao su. Đối với những dự án nói trên, có trường hợp cần thời gian tới 70 năm. Vả lại, nếu quy định thời hạn quá ngắn thì tính cạnh tranh sẽ bị hạn chế so với pháp luật đầu tư của nhiều nước láng giềng2. Hơn nữa, thực tiễn thế giới cho thấy: đầu tư trực tiếp của nước ngoài là một hoạt động kinh tế tồn tại lâu dài mang tính quy luật do yêu cầu mở rộng không ngừng phân công lao động quốc tế. Nó cần thiết không chỉ khi kinh tế chưa phát triển mà cả khi kinh tế đã đạt trình độ phát triển cao như Mỹ, Nhật, Tây Âu,… Do đó, đối với hầu hết các nước, sự tồn tại của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên đất mình, việc cho người nước ngoài thuê đất là một hiện tượng kéo dài mãi với quy mô ngày càng lớn.

Vì vậy, xin kiến nghị sửa Điều 15 của Luật hiện hành như sau: Thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được xác định căn cứ vào nội dung của từng dự án, nhưng không quá 50 năm, Trong trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể dài hơn do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định, nhưng tối đa không quá 70 năm.

Năm là: Mở tài khoản tại ngân hàng ở nước ngoài:

Điều 17 của Luật quy định: “Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt tại Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận”.

Theo quy định trên thì các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được mở tài khoản tại ngân hàng ở nước ngoài. Vừa qua, có không ít dự án đầu tư xin được mở tài khoản tại ngân hàng ở nước ngoài, nhất là đối với phần vốn vay tại nước ngoài. Người cho vay chỉ cho vay khi khoản vay này mở tài khoản ở ngân hàng tại nước ngoài. Các nhà đầu tư cho rằng, đây là một thông lệ quốc tế và rất cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Trên thực tế, Ngân hàng ta cũng đã phải xử lý như vậy đối với một dự án đầu tư.

Tuy nhiên, do có nhiều khó khăn, phức tạp trong quản lý, nên nếu cho phép thì cũng chỉ giới hạn trong một số ít trường hợp đặc biệt cần thiết. Do đó, đề nghị bổ sung vào Điều 17 của Luật như sau: “Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam hoặc tại ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt tại Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép mở tài khoản vốn vay tại ngân hàng ở nước ngoài với sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Trong văn bản dưới luật, Ngân hàng Nhà nước sẽ quy định cụ thể các điều kiện cho phép mở tài khoản vốn vay tại ngân hàng ở nước ngoài.

Sáu là: Về khu chế xuất:

Thực tiễn của nhiều nước chỉ rõ thành lập khu chế xuất là một hình thức đầu tư có sức hấp dẫn, thu hút được nhiều vốn đầu tư và tạo được nhiều việc làm, tăng nhanh khả năng xuất khẩu, góp phần tác động tích cực tới kinh tế nội địa.

Ngày 18 tháng 10 năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quy chế khu chế xuất để chỉ đạo việc xây dựng khu chế xuất mang tính thí điểm. Để thu thập kinh nghiệm, Chính phủ đã cho phép cử nhiều đoàn đi nghiên cứu khu chế xuất ở các nước trong khu vực. Kết quả khảo sát cho thấy, nhìn chung các quy định vừa qua của Nhà nước ta về khu chế xuất là phù hợp với thông lệ quốc tế, tương tự như quy định của các nước láng giềng.

Khu chế xuất mà nước ta chủ trương xây dựng, chỉ là khu sản xuất, trong đó không có dân cư thường trú, không có cấp chính quyền riêng, không có luật pháp, tòa án, tư pháp riêng, v.v.. Mặc dù khu chế xuất có một số đặc thù về cơ chế quản lý, nhưng vẫn nằm trong tổng thể của chính sách đầu tư trực tiếp, chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài muốn Nhà nước ta có một văn bản pháp luật cao hơn, để họ an tâm đầu tư vào khu chế xuất. Do đó, đề nghị bổ sung vào Luật đầu tư một số điều khoản nói về khu chế xuất với nội dung chủ yếu như sau:

- Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ xuất khẩu. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài và các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần của Việt Nam được phép tiến hành đầu tư trong khu chế xuất.

- Quan hệ trao đổi hàng hóa giữa các xí nghiệp chế xuất với các doanh nghiệp trong thị trường nội địa được coi là quan hệ ngoại thương chứ không phải quan hệ nội thương, tuân theo các quy định của pháp luật xuất nhập khẩu và Luật thuế xuất nhập khẩu.

Quy định như trên là nhằm vừa khuyến khích các nhà đầu tư vào khu chế xuất, vừa bảo vệ đúng mức sản xuất nội địa. Chính phủ mong rằng các tổ chức kinh tế Việt Nam cần cố gắng hết mức để có thể đầu tư vào khu chế xuất, thành lập các doanh nghiệp của mình bên cạnh doanh nghiệp của bạn hàng quốc tế.

 Bảy là: “Xây dựng - kinh doanh - chuyển giao” (BOT):

Xây dựng các công trình hạ tầng như cầu đường, bến cảng, cấp nước, v.v. là ưu tiên hàng đầu của Nhà nước ta, nhất là trên các hành lang trọng điểm. Xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, nhưng việc thu hồi vốn có rất nhiều khó khăn. Thông thường, việc xây dựng công trình hạ tầng dựa vào nguồn vốn ngân sách nhà nước, sự tài trợ của Chính phủ các nước và tổ chức tài chính quốc tế; nhưng trong một chừng mực nhất định, có thể kêu gọi sự đầu tư trực tiếp của các nhà kinh doanh. Tuy nhiên, nếu không có chính sách khuyến khích thỏa đáng và cơ chế đầu tư thích hợp thì không tạo được sự quan tâm của nhà đầu tư. Cơ chế đặc thù “Xây dựng - kinh doanh - chuyển giao” (BOT), một sáng kiến của cộng đồng quốc tế, đã áp dụng ở nhiều nước, đã mang lại những kết quả đáng khích lệ trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là ở những nước mà nguồn vốn ngân sách rất hạn hẹp. Trong cơ chế này, nhà đầu tư tự nguyện bỏ vốn xây dựng công trình, tự khai thác kinh doanh công trình trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận, sau đó chuyển giao công trình cho Nhà nước. Loại hình đầu tư này khác với các loại hình đầu tư khác, kể cả loại hình 100% vốn nước ngoài, ở các điểm chủ yếu sau: đây là hợp đồng ký kết giữa một cơ quan nhà nước có thẩm quyền với chủ đầu tư, chứ không phải giữa các công ty; việc thu hồi vốn và lợi nhuận được Nhà nước bảo đảm bằng nhiều biện pháp, do đó, có tính ổn định cao.

Xác định trong Luật hình thức đầu tư đặc thù này là nhằm tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan nhà nước, tạo sự hấp dẫn và quan tâm của nhà đầu tư.

Tám là: Bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có sự thay đổi của pháp luật:

Đối với mọi nhà kinh doanh (ngoài nước cũng như trong nước) yêu cầu hàng đầu là pháp luật cũng như chính sách của Nhà nước phải ổn định, để không làm đảo lộn các tính toán kinh doanh của họ. Nhưng đứng về giác độ quản lý vĩ mô của Nhà nước, một khi thực tiễn thay đổi, thì pháp luật, chính sách không thể không thay đổi, nhất là ở nước ta đang trong quá trình đổi mới, nhiều chính sách của Nhà nước đang cần được điều chỉnh, bổ sung để đi tới hoàn thiện, đồng bộ trong cơ chế mới, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Để giải quyết mâu thuẫn nói trên phát sinh trong thực tiễn một cách khách quan, cần có giải pháp thích hợp về mặt pháp luật.

Theo tập quán quốc tế, giấy phép đầu tư do Nhà nước cấp không những xác định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của nhà đầu tư, mà còn được coi là cam kết giữa Nhà nước và nhà đầu tư. Vì vậy, để bảo đảm “chữ tín”, làm yên lòng các nhà đầu tư, đồng thời để phù hợp với pháp luật quốc tế, xin bổ sung vào Điều 21 của Luật hiện hành một khoản như sau:

“Trong trường hợp có thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam làm thiệt hại cho lợi ích của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh và xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép thì Nhà nước có biện pháp giải quyết thỏa đáng đối với quyền lợi của nhà đầu tư”.

Chín là: Cho xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được hưởng các khuyến khích về thuế quy định tại Điều 27 và 28 của Luật:

Trong Luật hiện hành có sự phân biệt chế độ ưu đãi giữa xí nghiệp liên doanh với xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong đó xí nghiệp liên doanh được hưởng ba điều ưu đãi xí nghiệp 100% vốn nước ngoài không được hưởng:

a) Được miễn, giảm thuế trong vài năm đầu;

b) Trong trường hợp đặc biệt được hưởng khung thuế lợi tức thấp nhất 10 - 15%;

c) Được chuyển lợi nhuận năm sau bù lỗ cho năm trước.

Điều 27 của Luật quy định: “Tùy thuộc vào lĩnh vực đầu tư, địa bàn đầu tư, quy mô vốn đầu tư, khối lượng hàng xuất khẩu, khối lượng hàng thay thế hàng nhập khẩu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ, tính chất và thời gian hoạt động, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài có thể miễn thuế lợi tức cho xí nghiệp liên doanh trong thời gian tối đa là 2 năm kể từ năm bắt đầu kinh doanh có lãi và giảm 50% thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm tiếp theo”. Điều 28 của Luật quy định: “Trong trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư, thuế lợi tức có thể được cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài giảm tới 10% lợi nhuận được thu và thời hạn miễn thuế lợi tức có thể được kéo dài hơn thời hạn quy định ở Điều 27 của Luật này”. (Điều này gắn liền với Điều 27, được hiểu là quy định cho xí nghiệp liên doanh).

Tuy vậy, không phải xí nghiệp liên doanh nào cũng mặc nhiên được hưởng các ưu đãi đó. Vừa qua, số được hưởng chiếm tỷ lệ thấp, vì muốn được hưởng, cần có hàng loạt tiêu chuẩn quy định tại Điều 70 và 71 Nghị định 28/HĐBT. Còn xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, theo quy định hiện hành, dù hoạt động trong những lĩnh vực và địa bàn cần hết sức khuyến khích đầu tư, dù có đủ các tiêu chuẩn quy định tại Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng cũng không được hưởng các ưu đãi đó.

Khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài, mục đích chính của ta là khuyến khích hình thức xí nghiệp liên doanh, vì trong đó có phần góp vốn của Bên Việt Nam và ta muốn thông qua hình thức xí nghiệp liên doanh để học hỏi kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, thông qua Bên Việt Nam trong liên doanh để giám sát, kiểm tra hoạt động của xí nghiệp. Đến nay, chủ trương này vẫn đúng. Nhưng thực tiễn thi hành Luật đầu tư cho thấy thêm rằng:

Trong những năm đầu thực hiện Luật, nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập xí nghiệp liên doanh, vì họ chưa quen thị trường Việt Nam, họ muốn thông qua Bên Việt Nam trong liên doanh để cùng chia sẻ rủi ro và lo các thủ tục cần thiết. Đến nay, nhiều nhà đầu tư, nhất là những người đã quen thị trường Việt Nam và có ý đồ làm ăn lớn, có xu hướng muốn thành lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài hơn là xí nghiệp liên doanh, vì họ rất khó tìm được đối tác Việt Nam thích hợp để liên doanh, vì có nhiều tranh chấp đã diễn ra trong thực tế liên doanh. Đồng thời với “nguyên tắc nhất trí” theo Luật định, Bên Việt Nam trong Hội đồng quản trị xí nghiệp liên doanh, tuy có tỷ trọng vốn góp rất thấp, nhưng lại có quyền "phủ quyết" đối với những vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của xí nghiệp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài thành lập xí nghiệp 100% vốn của họ, thì đương nhiên họ được toàn quyền quyết định những vấn đề đó. Nhưng thành lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài lại không được hưởng những khuyến khích về tài chính như xí nghiệp liên doanh. Họ bị đặt trước tình huống phải cân nhắc, nhiều khi ngần ngại kéo dài và dễ đi đến “bỏ cuộc”. Hơn nữa, sắp tới chúng ta dự định thu hút những dự án quan trọng thuộc các ngành công nghiệp nặng, hạ tầng cơ sở, trồng rừng lâm nghiệp,… đòi hỏi vốn lớn, dài ngày, trong đó có thể có những dự án rất cần thiết nhưng do ta thiếu vốn, phải để cho người nước ngoài đầu tư 100% vốn. Tình hình đó đòi hỏi Luật phải có quy định thỏa đáng để khuyến khích đầu tư. Một mặt, tiếp tục duy trì chính sách khuyến khích hình thức xí nghiệp liên doanh; mặt khác, đối với một số xí nghiệp 100% vốn nước ngoài có chọn lựa, cũng được hưởng các ưu đãi nói trên. Đó là những xí nghiệp quan trọng, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, có kỹ thuật công nghệ tiên tiến hoặc được đầu tư vào những vùng có nhiều khó khăn mà ta cần khuyến khích đầu tư. (Trong nghị định Chính phủ sẽ quy định các tiêu chuẩn cụ thể).

Nếu ý kiến trên được chấp nhận, thì đề nghị bổ sung vào cuối Điều 27 một đoạn như sau: “Đối với xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, căn cứ những quy định trên đây3, Chính phủ quyết định miễn, giảm thuế lợi tức đối với từng trường hợp cần khuyến khích đầu tư”.

Mười là: Khuyến khích chuyển giao tài sản đầu tư khi hết hạn hợp đồng:

Bất cứ nhà đầu tư nào cũng vậy, khi tiến hành đầu tư thì điều kiện tiên quyết phải tính đến là khả năng thu hồi được vốn, bảo tồn được tài sản đã bỏ ra, lợi nhuận dự tính thu được phải cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng; khi đầu tư vào Việt Nam, dự tính phải thu được một mức lợi nhuận không cao hơn thì chí ít cũng bằng mức lợi nhuận mà họ có khả năng thu được khi đầu tư vào các nước khác trong khu vực (trừ những trường hợp rủi ro bất khả kháng). Luật pháp của Nhà nước ta không cho phép tịch thu vốn tài sản hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài, kể cả sau khi hết thời hạn hợp đồng. Nay muốn họ chuyển giao không bồi hoàn tài sản cho bên Việt Nam khi hết thời hạn hợp đồng, Nhà nước ta cần có chính sách khuyến khích thỏa đáng. Chính sách khuyến khích càng “thoáng” thì thời gian chuyển giao càng có khả năng rút ngắn. Đề ra chủ trương này, không phải chúng ta có ý định thu nhận lại tất cả tài sản của mọi loại dự án đầu tư, mà chỉ nhằm chọn lựa những tài sản có giá trị lớn, có ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế hoặc có tầm quan trọng về mặt kỹ thuật công nghệ hay kiến trúc xây dựng. Vậy, cần bổ sung vào Luật một điều như sau:

“Trong trường hợp tổ chức và cá nhân nước ngoài cam kết chuyển giao không bồi hoàn tài sản đầu tư cho Nhà nước Việt Nam khi kết thúc thời hạn hoạt động đối với những công trình mà Nhà nước có nhu cầu thì Chính phủ quyết định các biện pháp ưu đãi đối với từng trường hợp”.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Tinh thần và lời văn các vấn đề trình bày nói trên cho phép kết luận rằng: không có sửa đổi lớn đối với các điều khoản hiện hành trong Luật đầu tư nước ngoài, mà chủ yếu là bổ sung một số nội dung mới vào Luật để đáp ứng nhu cầu của nước ta và tranh thủ những khả năng mới đang dần dần xuất hiện trong cục diện chung.

Xin kính trình Quốc hội xem xét và quyết định.

 

TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban
Nhà nước về hợp tác và đầu tư
ĐẬU NGỌC XUÂN


 

* Tài liệu này được gửi đến các đại biểu Quốc hội, không trình bày tại kỳ họp (BT).

1. Kinh tế: phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng lực sản xuất mới, hình thành ngành nghề và sản phẩm mới, mở rộng thị trường…

- Xã hội: tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao tay nghề và thói quen lao động mới…

- Tài chính: các loại thuế, tiền thuê đất …

2. Nhiều nước đã kéo dài thời hạn cho thuê đất (hoặc bán đất có thời hạn) tới 70 năm, thậm chí 99 năm.

3. Quy định tại Điều 27.

 

   

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội