BÁO CÁO THẨM TRA CỦA ỦY BAN KINH TẾ VÀ NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI
VỀ CÁC DỰ ÁN LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT THUẾ DOANH THU;
LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT; LUẬT THUẾ LỢI TỨC;
LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
(Do ông Lý Tài Luận, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế và ngân sách
của Quốc hội đọc tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá IX, ngày 16-6-1993)
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thực hiện nhiệm vụ được giao, Thường trực Ủy ban kinh tế và ngân sách đã làm việc nhiều lần với Ban dự thảo các dự án luật sửa đổi, bổ sung các luật thuế. Ngay từ sau kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa IX, Thường trực Ủy ban chúng tôi cùng với Ban dự thảo nghiên cứu lại các sắc thuế hiện hành, đồng thời khảo sát thực tế ở một số địa phương, cơ sở sản xuất; đánh giá việc thi hành các luật thuế để tìm hướng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế trước mắt và lâu dài.
Tháng 2 và 3 năm 1993, Ủy ban kinh tế và ngân sách họp toàn Ủy ban ở hai miền, có đại diện của Ủy ban pháp luật, một số Ủy ban khác của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội là giám đốc các doanh nghiệp ở các ngành kinh tế để tham gia ý kiến vào các Dự án Luật sửa đổi, bổ sung các luật thuế này. Thường trực Ủy ban và Ban soạn thảo đã tiếp thụ ý kiến của các đại biểu dự Hội nghị trên và của các ngành trực tiếp góp ý kiến để chỉnh lý lại nhiều lần các Dự án này.
Tại phiên họp tháng 4 năm 1993 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Ủy ban đã báo cáo ý kiến của Ủy ban về các dự luật này. Sau khi Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến, các dự luật đã được chỉnh lý lại lần nữa và gửi đến các đại biểu Quốc hội.
Cuối tháng 5 năm 1993, Ủy ban chúng tôi họp phiên toàn thể, có đại diện của Ủy ban pháp luật, Ủy ban khoa học - công nghệ và môi trường, Ủy ban đối ngoại của Quốc hội tham dự để thẩm tra lần cuối các Dự án Luật này trước khi trình Quốc hội.
Dưới đây chúng tôi xin trình Quốc hội một số ý kiến của Ủy ban chúng tôi về các Dự án Luật sửa đổi, bổ sung các luật thuế như sau:
I- SỰ CẦN THIẾT PHẢI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
CÁC LUẬT THUẾ HIỆN HÀNH
Qua hơn hai năm thực hiện, các luật thuế hiện hành được Quốc hội khóa VIII thông qua đã có những ưu điểm và đạt kết quả nhất định. Thu ngân sách nhà nước mỗi năm một tăng đáng kể, bảo đảm phần lớn các yêu cầu chi cần thiết; tỷ lệ động viên về thuế từ thu nhập quốc dân sản xuất và tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả thị trường; thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển theo cơ chế thị trường, đồng thời, góp phần phát huy tác dụng quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân.
Các luật thuế nói trên được ban hành khi đó nhằm đáp ứng tình hình kinh tế nước ta bước đầu chuyển từ cơ chế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước mà hệ thống cơ chế và chính sách kinh tế - tài chính không còn phù hợp nữa. Nhưng từ đó đến nay, tình hình đã có thêm những chuyển biến, trong nền kinh tế đã xuất hiện thêm những loại hình sản xuất - kinh doanh hoạt động theo các phương thức khác nhau. Trong khi đó, các luật và pháp lệnh thuế hiện hành chưa bao quát được hết; có những điều, khoản không còn phù hợp với thực tế. Mặt khác, ngày càng bộc lộ những thiếu sót, nhược điểm và sơ hở bị lợi dụng gây tiêu cực, lộn xộn trong hoạt động kinh tế - xã hội và khó khăn cho công tác quản lý. Các luật thuế này còn thể hiện nhiều mục tiêu hỗn hợp về chính sách kinh tế, chính sách xã hội và thiếu tính thống nhất và đồng bộ giữa các sắc thuế để tạo nên tác dụng gắn bó hỗ trợ lẫn nhau trong hệ thống thuế, gây khó khăn cho việc quản lý vĩ mô của Nhà nước. Mặt khác, các luật và pháp lệnh thuế hiện hành chưa bao quát được hết các nguồn thu, còn để thất thu nhiều nhưng lại cũng chưa thật có tác dụng nuôi dưỡng, phát triển và tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước theo sự phát triển của các loại hình sản xuất -kinh doanh. Có những loại thuế còn đánh trùng, thuế chồng lên thuế gây nên dư luận kêu ca phàn nàn trong nhân dân và các giới kinh doanh và trong thực tế đã có ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất và lưu thông hàng hóa, chưa phát huy tác dụng khuyến khích mạnh mẽ việc đầu tư vốn phát triển sản xuất.
Để khắc phục những khuyết điểm, nhược điểm trên, từng bước tạo cho các chính sách thuế có tính đồng bộ, nhất quán, dễ vận hành, hạn chế sơ hở và tiêu cực; góp phần thúc đẩy sản xuất - kinh doanh của các thành phần kinh tế phát triển, tạo thêm nguồn thu và tăng thu cho ngân sách nhà nước; Ủy ban chúng tôi nhất trí đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung các luật thuế hiện hành.
Trong quá trình xem xét và thẩm tra, Ủy ban chúng tôi tán thành về mục tiêu, yêu cầu phải từng bước hoàn thiện các luật và pháp lệnh thuế hiện hành theo hai hướng: trước mắt và lâu dài như đã thể hiện trong Tờ trình của Chính phủ.
Trước mắt, Ủy ban chúng tôi thấy cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của các luật thuế hiện hành như Tờ trình của Chính phủ. Tuy đây mới chỉ là những biện pháp tình thế nhưng hết sức cần thiết, bức xúc để khắc phục sớm những bất hợp lý, những nhược điểm và sơ hở của các luật thuế hiện hành mà trong quá trình tổ chức thực hiện vừa qua đã phát sinh, nhằm thực hiện điều tiết công bằng, hợp lý hơn, hạn chế các sơ hở gây thất thoát thuế, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nhiều ý kiến đề nghị Nhà nước cùng với việc sửa đổi, bổ sung các luật thuế, cũng cần nghiên cứu tiếp tục đổi mới các cơ chế, chính sách về kinh tế - tài chính như chính sách vay vốn, cấp vốn lưu động, lãi suất ngân hàng, khấu hao cơ bản và sử dụng vốn; cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô, v.v. thì mới có tác dụng đồng bộ thực sự khuyến khích phát triển sản xuất - kinh doanh, Ủy ban chúng tôi thấy ý kiến trên là rất xác đáng, đề nghị Chính phủ quan tâm để từng bước giải quyết các vấn đề đó.
II- MỘT SỐ Ý KIẾN CỤ THỂ VỀ VIỆC SỬA ĐỔI,
BỔ SUNG CÁC LUẬT THUẾ
1. Về Luật thuế doanh thu:
Để khắc phục những bất hợp lý của Luật thuế doanh thu hiện hành, trước mắt Ủy ban chúng tôi nhất trí phải sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của Luật thuế này và có một số ý kiến sau:
a) Đối với một số ngành nghề như tín dụng, ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, v.v. cần sửa đổi lại doanh thu tính thuế là chênh lệch giữa lãi tiền cho vay và tiền đi vay để tránh việc do thuế tính trên lãi tiền cho vay làm tăng lãi suất tiền cho vay, đồng thời phù hợp với đặc điểm của hoạt động tín dụng và kích thích việc huy động vốn để cho vay phát triển kinh tế của các tín dụng ngân hàng. Nhưng cũng có ý kiến đề nghị khi sửa lại doanh thu tính thuế và mức thuế của tín dụng ngân hàng, hợp tác xã tín dụng thì lãi suất tiền cho vay phải hạ thấp xuống nữa mới tạo được điều kiện phát triển sản xuất.
Mặt khác, có ý kiến đề nghị nên sắp xếp lại để phân biệt rõ giữa ngân hàng nhà nước và ngân hàng tín dụng, và cần xác định cụ thể đối với từng lĩnh vực tín dụng như tín dụng công thương, tín dụng nông nghiệp, tín dụng ngoại thương, v.v. vì hợp tác xã tín dụng và cả ngân hàng cũng có tín dụng nông nghiệp, tín dụng công thương. Cũng có ý kiến cho rằng, không nên đánh thuế doanh thu đối với các tổ chức tín dụng, vì nếu đánh thuế sẽ ảnh hưởng đến lãi suất cho vay.
Những ý kiến trên có mặt đúng, sẽ được tiếp tục nghiên cứu xác định cho phù hợp khi hoàn thiện cải cách cơ bản, đồng bộ hệ thống thuế của ta ở bước tiếp theo.
b) Trong trường hợp cơ sở kinh doanh có doanh thu bằng ngoại tệ, đề nghị cho phép họ được nộp thuế bằng ngoại tệ. Loại ngoại tệ để thu thuế nên giao cho Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định. Vấn đề này sẽ tránh được sự phiền hà và thuận lợi cho các doanh nghiệp có doanh thu bằng ngoại tệ; quy định này cũng phù hợp với Luật đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam.
c) Về các trường hợp cần được xét miễn, giảm thuế; Ủy ban chúng tôi nhất trí đối với các cơ sở kinh doanh ở miền núi, hải đảo, cơ sở hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới; cơ sở mới thành lập đi vào hoạt động, v.v. cần được xét miễn, giảm thuế để khuyến khích việc nghiên cứu, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, phát triển sản xuất. Mặt khác, việc miễn, giảm này cũng phù hợp với thực tế khi chuyển sang cơ chế thị trường, một số cơ sở sản xuất còn gặp khó khăn nhất định ở giai đoạn đầu mà không còn được hưởng trợ giá của Nhà nước.
d) Đối với thuế suất của một số ngành, nghề kinh doanh trong Biểu thuế thuế doanh thu hiện hành: Ủy ban chúng tôi nhất trí cần sửa đổi các thuế suất cụ thể để bảo đảm công bằng, hợp lý hơn giữa các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, bảo đảm kinh doanh có hiệu quả và nộp được thuế; mặt khác, cũng hạn chế sự trùng lắp về thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Trong một số ngành, Ủy ban chúng tôi thấy cần thiết phải chuyển sang thu thuế doanh thu như sản xuất bài lá, vàng mã (trước ở Luật thuế tiêu thụ đặc biệt) để dễ quản lý và bảo đảm thu được thuế. Nhưng cũng cần sắp xếp lại danh mục trong biểu thuế cho phù hợp, không nên xếp bài lá, vàng mã vào chung danh mục với mỹ phẩm và có ý kiến nên định lại thuế suất đối với mặt hàng này phải cao hơn quy định trong Dự luật (10%) mới hợp lý giữa các ngành, nghề.
Các thuế suất cụ thể đối với một số ngành, nghề sản xuất - kinh doanh, có ý kiến đề nghị hạ thuế suất một số ngành, nghề sản xuất - kinh doanh xuống thấp nữa… Nhưng qua phân tích, Ủy ban chúng tôi tán thành như Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp này là tương đối hợp lý.
2. Về Luật thuế tiêu thụ đặc biệt:
Ủy ban chúng tôi có một số ý kiến về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật này như sau:
a) Về danh mục mặt hàng chịu thuế:
Đối với hai mặt hàng bài lá và vàng mã là các mặt hàng Nhà nước hạn chế sản xuất, không khuyến khích tiêu dùng, nên để trong danh mục mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là đúng với quan điểm của Quốc hội khóa VIII trên đây đã xác định. Nhưng thực tế từ trước đến nay không thu được đáng kể, vì các cơ sở sản xuất thường không xin giấy phép kinh doanh, không kê khai nộp thuế mà phần lớn là sản xuất lén lút, phân tán. Để tạo điều kiện quản lý và thu thuế đối với các mặt hàng này, cả ở khâu sản xuất và lưu thông, Ủy ban chúng tôi nhất trí, đề nghị chuyển danh mục mặt hàng bài lá và vàng mã sang chịu thuế doanh thu như đã nói ở trên.
Đối với thuốc lá lá, thuốc lá sợi trước đây thu thuế tiêu thụ đặc biệt. Nhưng khi thu thuế vào thuốc lá điếu lại phải khấu trừ số thuế tiêu thụ đặc biệt đã thu ở thuốc lá lá, thuốc lá sợi. Việc thu như vậy vừa phức tạp, khó theo dõi quản lý, vừa khó khăn về vốn cho doanh nghiệp sản xuất thuốc lá điếu. Mặt khác, về thu ngân sách thì không tăng thêm và nếu không quản lý chặt chẽ thì còn bị thất thoát, và hiện nay thuế tiêu thụ đặc biệt không còn để lại cho ngân sách địa phương mà phải nộp hết về ngân sách trung ương. Chính vì vậy, Ủy ban chúng tôi nhất trí không thu thuế tiêu thụ đặc biệt vào thuốc lá lá, thuốc lá sợi.
b) Về giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt:
Ủy ban chúng tôi thấy cần thiết phải sửa đổi lại để các cơ sở sản xuất mặt hàng trong diện nộp thuế này chịu đựng được, không bị lỗ. Đó là giá do cơ sở sản xuất mặt hàng đó bán ra chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt.
c) Khi sửa đổi lại giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt, thì thuế suất cụ thể của từng mặt hàng cũng cần thiết phải sửa đổi lại như Tờ trình của Chính phủ nhằm hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng xã hội, đồng thời bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Có một số ý kiến đề nghị nên sửa đổi thuế suất cao lên nữa, có loại phải quy định đến 100% hoặc cao hơn; nhưng cũng có ý kiến ngược lại, đề nghị nên hạ bớt thuế suất đối với một số mặt hàng như thuốc lá điếu, rượu thuốc. Ủy ban chúng tôi có tham khảo việc tính toán qua tổng hợp hoạt động thực tế của các cơ sở sản xuất các mặt hàng thuộc diện chịu thuế này và cùng Ban soạn thảo cân nhắc chỉnh lý nhiều lần và đa số nhất trí để mức thuế suất như Tờ trình của Chính phủ là hợp lý; riêng mặt hàng rượu thuốc có thể xem xét thêm.
d) Về thời hạn nộp thuế:
Có ý kiến cho rằng, đối với thuế thì cơ sở sản xuất phải nộp ngay khi bán hàng hoặc trả hàng gia công. Nhưng nhiều ý kiến đồng ý với Dự thảo để chiếu cố đến tình hình thực tế của một số cơ sở sản xuất, vì nếu phải nộp ngay khi chưa thu được tiền, thì phải vay ngân hàng để nộp thuế sẽ gặp nhiều khó khăn.
e) Về giảm thuế, miễn thuế tiêu thụ đặc biệt:
Mặc dù không khuyến khích mở rộng diện sản xuất các mặt hàng này, nhưng cũng cần tính đến thực tế để xét giảm một cách thỏa đáng như đối với các cơ sở mới đi vào sản xuất; các cơ sở có quy mô nhỏ hoặc kỹ thuật lạc hậu, chưa chuyển kịp theo cơ chế thị trường, thật sự còn nhiều khó khăn mà sản xuất tạm thời còn bị lỗ. Tuy nhiên, cũng cần quy định cụ thể về thời gian và mức độ giảm thuế để đòi hỏi doanh nghiệp sớm khắc phục những tồn tại để sản xuất có hiệu quả; đồng thời phải tính toán chặt chẽ khi thành lập cơ sở sản xuất các mặt hàng này.
3. Về Luật thuế lợi tức:
a) Về doanh thu để tính lợi tức chịu thuế:
Để xác định đúng lợi tức chịu thuế và phù hợp với các luật thuế khác như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt; Ủy ban chúng tôi nhất trí đề nghị sửa lại doanh thu để làm cơ sở xác định tính lợi tức chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền dịch vụ thu được.
b) Về thuế suất:
Đây là vấn đề mà trong Ủy ban chúng tôi có nhiều ý kiến khác nhau về xác định thuế suất lợi tức sao cho vừa bảo đảm lợi ích hài hòa giữa lợi ích nhà nước và doanh nghiệp, vừa khuyến khích được sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các cơ sở có nguồn vốn chủ động để tái đầu tư hoặc đầu tư chiều sâu nhằm phát triển sản xuất.
Có ý kiến đề nghị giảm bớt thuế suất xuống, chỉ nên ở mức 20-30-40% hoặc có ý kiến chỉ để hai mức 20-30%... Sau khi phân tích, cân nhắc về các mặt như trên, Ủy ban chúng tôi thấy như Dự thảo là hợp lý, vẫn giữ ba mức và có điều chỉnh giảm bớt thuế suất ổn định trên lợi tức chịu thuế của các ngành, cụ thể như sau:
- Đối với ngành Điện năng, khai thác... 25% (hiện hành 30%).
- Đối với ngành Công nghiệp nhẹ … 35% (hiện hành 40%).
- Đối với ngành Thương nghiệp … 45% (hiện hành 50%).
Đối với các ngành có lợi tức cao, Ủy ban chúng tôi nhất trí cần thu thuế lợi tức bổ sung. Việc thu bổ sung cần phân biệt giữa các thành phần kinh tế, giữa các ngành, nghề nhưng tránh làm ảnh hưởng đến đầu tư phát triển sản xuất. Việc thu thuế lợi tức bổ sung đối với các thành phần kinh tế như Tờ trình của Chính phủ, Ủy ban chúng tôi thấy là cần thiết và phù hợp.
c) Về giảm thuế và miễn thuế:
Để khuyến khích các cơ sở sản xuất - kinh doanh có nhu cầu dùng lợi nhuận để tái đầu tư hoặc đầu tư chiều sâu nhằm mở rộng, phát triển sản xuất, bồi dưỡng và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước; cũng như các doanh nghiệp mới thành lập hoặc sản xuất ở vùng còn có nhiều khó khăn; Ủy ban chúng tôi nhất trí cần được xét miễn, giảm cho các cơ sở này với mức độ và thời gian như Tờ trình của Chính phủ.
4. Về Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
a) Quá trình thực hiện Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành đã xuất hiện nhiều nơi lợi dụng các trường hợp không thuộc diện chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để trốn thuế như hàng chuyển khẩu, hàng mượn đường qua biên giới Việt Nam… Đối với các trường hợp này chúng tôi nhất trí sửa lại Điều 2 như trong Dự luật: “Hàng vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua biên giới Việt Nam, hàng chuyển khẩu, theo quy định của Chính phủ”.
b) Về các trường hợp miễn thuế và giảm thuế:
Luật thuế hiện hành quy định hơi rộng. Nhiều trường hợp như nhập khẩu hàng hóa cho an ninh - quốc phòng, cho nghiên cứu khoa học, v.v. đều do ngân sách nhà nước cấp. Để tránh sơ hở, lợi dụng; Ủy ban chúng tôi tán thành như Dự luật là không quy định miễn, giảm thuế cho các trường hợp này nữa. Việc thu hẹp các đối tượng miễn, giảm thuế như trong Dự thảo là hợp lý.
Đối với xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có quy định miễn thuế đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu trong các trường hợp cần khuyến khích đầu tư. Nhưng thực tế, việc chỉ giao cho Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và đầu tư xét miễn, giảm thuế là không thỏa đáng vì thuế là phạm vi quản lý của Bộ Tài chính. Để bảo đảm an toàn pháp luật cho người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, đồng thời, bảo đảm việc xét miễn, giảm thuế được chặt chẽ hơn, tránh sơ hở để trốn thuế, lậu thuế; Ủy ban chúng tôi nhất trí đề nghị trong Dự luật sửa đổi, bổ sung lần này cần có quy định có sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và đầu tư.
c) Về thời hạn các đối tượng phải nộp thuế xong:
Vấn đề này còn nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, cơ sở nào xuất hoặc nhập hàng hóa qua cửa khẩu phải nộp thuế ngay và quy định như Luật hiện hành là phù hợp. Nhưng đa số ý kiến cho rằng, đối với việc nhập khẩu vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, nếu đơn vị sản xuất phải nộp theo quy định hiện hành thì phải vay ngân hàng sẽ khó khăn cho hoạt động của đơn vị. Mặt khác, Nhà nước cần khuyến khích các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, vì thế Ủy ban chúng tôi tán thành với quy định trong Dự luật là đối với các trường hợp này được kéo dài thời gian phải nộp thuế, nhưng với điều kiện có sự bảo lãnh của ngân hàng.
d) Vấn đề xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới:
Đây là vấn đề có rất nhiều ý kiến, tình hình xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới hiện nay rất phức tạp và lộn xộn, quản lý thiếu chặt chẽ, việc tổ chức thu thuế chưa xác định rõ ràng; tình trạng lậu thuế, trốn thuế, thất thu thuế còn nhiều và phổ biến… Trước tình hình thực tế như vậy, có nhiều ý kiến đề nghị bỏ Điều 5 ở Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: “Căn cứ vào Luật này, Hội đồng Bộ trưởng quy định thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tiểu ngạch biên giới phù hợp với quy chế về xuất khẩu, nhập khẩu tiểu ngạch biên giới và đặc điểm của từng khu vực biên giới.
Vừa qua, việc thi hành thuế xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới có nhiều lộn xộn, tiêu cực, có phần do quy định và hướng dẫn chưa cụ thể, chặt chẽ, nhưng điều quan trọng là việc tổ chức thực hiện chưa tốt. Chúng tôi thấy, một mặt Chính phủ phải xác định thật rõ thế nào là “xuất, nhập khẩu tiểu ngạch” để tổ chức thực hiện thu thuế cho đúng; mặt khác cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, thực hiện kiểm hóa theo tờ khai, xác định đúng giá và thu đúng thuế suất quy định, tránh tình trạng chỉ chú trọng thu thuế xuất nhập khẩu tiểu ngạch hoặc lẫn lộn giữa xuất, nhập khẩu tiểu ngạch và xuất, nhập khẩu chính ngạch.
5. Việc sửa đổi, bổ sung các luật thuế kỳ này chủ yếu sửa đổi một số điểm bất hợp lý, những sơ hở bị lợi dụng. Nhưng vấn đề đặc biệt quan trọng đáng lưu ý ở đây là tổ chức và con người thực hiện Luật. Nhà nước cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với ngành Thuế, có sự phối kết hợp chặt chẽ với các ngành chức năng liên quan, nhất là các ngành nội chính, quản lý thị trường ở Trung ương và địa phương để nâng cao các biện pháp nghiệp vụ quản lý thu thuế, trốn thuế, lậu thuế, thất thu thuế; chống buôn lậu; chống các hiện tượng tiêu cực khi thi hành công vụ; đồng thời đòi hỏi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh Pháp lệnh kế toán thống kê, giáo dục cho nhân dân và các đơn vị cơ sở có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp và có nghĩa vụ với Nhà nước.
Trên đây là một số ý kiến của Ủy ban kinh tế và ngân sách trình Quốc hội xem xét và quyết định.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội