VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP II 1960 - 1964

 

BÁO CÁO CỦA UỶ BAN DỰ ÁN PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI
VỀ DỰ LUẬT TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN HÀNH CHÍNH CÁC CẤP
(Do ông Trương Tấn Phát, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban
trình bày tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá II, ngày 26-10-1962)

 

Thưa Chủ tịch Đoàn,

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Thay mặt Uỷ ban dự án pháp luật của Quốc hội chúng tôi xin báo cáo về kết quả thẩm tra dự luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp.

*

* *

Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp là một bộ phận trọng yếu của tổ chức Nhà nước dân chủ nhân dân của chúng ta, và cùng với toàn bộ chính quyền đã được xây dựng và củng cố trong quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.

Trước ngày Tổng khởi nghĩa, để chuẩn bị giành lại chính quyền, nhân dân ta đã thành lập các Uỷ ban Giải phóng Dân tộc. Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân ta đập tan bộ máy thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền dân chủ nhân dân. Ở địa phương nhân dân ta đã cử ra các Uỷ ban nhân dân hoặc Uỷ ban hành chính lâm thời để quản lý công việc Nhà nước ở địa phương. Sau khi Chính phủ Trung ương thành lập, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 63 và Sắc lệnh số 77 năm 1945 về tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính nhằm xác định và bước đầu củng cố hệ thống chính quyền địa phương các cấp trong cả nước.

Trong cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp đã làm tròn nhiệm vụ đoàn kết, động viên và tổ chức nhân dân dốc lòng hăng hái đánh giặc cứu nước, đẩy mạnh sản xuất, cải thiện dân sinh.

Sau khi hòa bình được lập lại, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính tiếp tục phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng, đã góp phần xứng đáng vào việc thực hiện các đường lối chính sách của Trung ương nhằm khôi phục kinh tế, cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Trong giai đoạn này Nhà nước ta đã ban hành Sắc luật 004 ngày 20-7-1957 về bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp và Luật 110 ngày 31-5-1958 về tổ chức chính quyền địa phương nhằm củng cố thêm một bước Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp.

Hiện nay, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi quyết định, cơ cấu kinh tế và xã hội của miền Bắc đã có những thay đổi căn bản, nhân dân ta đã làm chủ về kinh tế và về chính trị. Cuộc phấn đấu của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến; làm cho nhân dân ta vĩnh viễn thoát khỏi cảnh nghèo khổ tiến lên cuộc sống ấm no và hạnh phúc; làm cho miền Bắc trở thành cơ sở hùng mạnh của công cuộc đấu tranh nhằm hòa bình thống nhất nước nhà.

Đó là một sự nghiệp vô cùng to lớn và khó khăn.

Để hoàn thành sự nghiệp lịch sử ấy, nhân dân ta phải củng cố và tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân của mình, tích cực tham gia quản lý công việc Nhà nước, phát huy cao độ tính chủ động và tính sáng tạo của mình.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III đã chỉ rõ: “Nhà nước dân chủ nhân dân ở miền Bắc trong giai đoạn hiện nay là công cụ chủ yếu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng trên mọi mặt trận, giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội và thống nhất nước nhà”.

Nghị quyết của Đại hội Đảng còn xác định nhiệm vụ là phải: “Củng cố và tăng cường các cơ quan nhà nước, phát huy vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, động viên quần chúng tham gia quản lý Nhà nước, xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa”.

Hiến pháp mới đã quy định những nguyên tắc cơ bản về tổ chức chính quyền dân chủ nhân dân của chúng ta ở Trung ương và ở địa phương, làm cơ sở pháp lý cho Nhà nước ta quy định cụ thể về tổ chức chính quyền các cấp.

Đối với các cơ quan nhà nước ở Trung ương, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Hiện nay, vấn đề quan trọng và cấp thiết là ban hành một văn bản mới về tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp để củng cố thêm một bước chính quyền địa phương các cấp, phát huy hơn nữa tác dụng của chính quyền địa phương, đề cao hơn nữa vai trò làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, bảo đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Cho nên chúng tôi tán thành việc Hội đồng Chính phủ trình Quốc hội trong kỳ họp này dự Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp.

Dưới đây chúng tôi xin trình bày ý kiến của Uỷ ban dự án pháp luật về những vấn đề chủ yếu của bản dự luật.

I. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN HÀNH CHÍNH

Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy dự luật đã thể hiện được tính chất, vai trò, vị trí của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính, và mối quan hệ khăng khít giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính, theo đúng những nguyên tắc cơ bản về tính chất và về tổ chức Nhà nước của ta đã được quy định trong bản Hiến pháp mới.

Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân: tất cả quyền lực trong nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đều thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.

Dự luật đã thể hiện rõ chế độ chính trị của Nhà nước ta: cùng với Quốc hội ở Trung ương, Hội đồng nhân dân là hình thức tổ chức Nhà nước của chúng ta, một hình thức tổ chức thích hợp nhất để nhân dân ta sử dụng quyền lực của mình.

Hội đồng nhân dân do nhân dân bầu ra theo chế độ bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, và bỏ phiếu kín. Đại biểu Hội đồng nhân dân phải luôn luôn liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu nào không làm tròn nhiệm vụ đối với nhân dân. Hội đồng nhân dân thực sự tiêu biểu cho ý chí của nhân dân lao động ở địa phương do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

Hội đồng nhân dân giải quyết những vấn đề quan trọng của địa phương; Hội đồng nhân dân bầu ra và có quyền bãi miễn các thành viên của Uỷ ban hành chính. Uỷ ban hành chính là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân.

Về mặt tổ chức dự luật đã theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

Thực hiện nguyên tắc đó, dự luật quy định Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp đều phải tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước để bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội đồng nhân dân cấp trên có quyền giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp, có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân và những quyết định không thích đáng của Uỷ ban hành chính cấp dưới trực tiếp. Uỷ ban hành chính cấp trên có quyền đình chỉ việc thi hành các nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp; Uỷ ban hành chính cấp dưới phải phục tùng Uỷ ban hành chính cấp trên và các Uỷ ban hành chính đều chịu sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Chính phủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn đòi hỏi phải kết hợp nhiệm vụ chung trong cả nước với những điều kiện muôn mầu muôn vẻ của địa phương, khiến các địa phương có thể phát huy mạnh mẽ tính tích cực, tính sáng tạo, mọi khả năng tiềm tàng của mình để góp phần lớn nhất của mình vào sự nghiệp chung. Điều 10 của dự luật quy định: “Trong phạm vi pháp luật quy định, Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, phát huy mọi khả năng của địa phương nhằm góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của Nhà nước và nâng cao đời sống của nhân dân địa phương”.

Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy những quy định trong dự luật về tính chất, vai trò, vị trí của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính và về quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc để phát huy tính ưu việt của chế độ ta. Nó bảo đảm cho đông đảo nhân dân tham gia công việc quản lý nhà nước, phát huy trí tuệ và khả năng sáng tạo của mình; nó bảo đảm quyền lợi của các dân tộc thiểu số, giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết giữa các dân tộc; nó bảo đảm cho Nhà nước ta giữ vững mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, trừ bỏ mọi tệ hại của bệnh quan liêu; nó sẽ có tác dụng làm cho Nhà nước ta có một cơ sở quần chúng rộng rãi, do đó mà có khả năng động viên và tổ chức lực lượng to lớn của nhân dân khắc phục mọi khó khăn, hoàn nhiệm vụ cách mạng.

II. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
VÀ UỶ BAN HÀNH CHÍNH CÁC CẤP

Những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn chung cho các cấp Hội đồng nhân dân cũng như về nhiệm vụ quyền hạn chung cho các cấp Uỷ ban hành chính đã nêu lên được rõ ràng chức năng cơ bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính, bảo đảm cho mỗi cấp nắm vững phạm vi trách nhiệm của mình trong việc quản lý công việc nhà nước ở địa phương.

Bản dự luật này còn dành một phần quan trọng để quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính từng cấp. Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy những quy định này là cần thiết.

Trong hệ thống các đơn vị hành chính, mỗi cấp có những đặc điểm về chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội; không thể tất cả các cấp đều giống nhau được. Trong quá trình hoạt động lãnh đạo, xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa, một sự phân công đã bắt đầu hình thành và đã được xác nhận trong các văn bản của Đảng và Chính phủ.

Nhà nước dân chủ nhân dân của ta có nhiệm vụ thực hiện việc quản lý có ý thức và có kế hoạch việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nhiệm vụ đó đòi hỏi Nhà nước ta phải có sự phân công thích đáng giữa các cấp, các ngành, phát huy tính chủ động, tính sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành, trong việc quản lý các mặt công tác của địa phương để động viên triệt để mọi lực lượng, mọi khả năng vào công cuộc xây dựng nước nhà.

Bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương trước Đại hội lần thứ III của Đảng đã nêu: “Trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Chính phủ Trung ương, phải tiến hành từng bước việc phân cấp quản lý, phát huy tính chủ động, tính sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc quản lý công tác của địa phương hay của ngành”.

Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của một số cấp Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính

Uỷ ban dự án pháp luật tán thành những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể cho các cấp Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính trong dự luật; những quy định này phù hợp với tình hình thực tế của từng cấp, phù hợp với yêu cầu phát huy khả năng và tăng cường trách nhiệm của các cấp, phù hợp với các văn bản của Đảng và Nhà nước đã ban hành từ trước đến nay.

Chúng tôi xin trình bày ý kiến của Uỷ ban dự án pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của một số cấp đã được thảo luận nhiều trong quá trình xây dựng và thẩm tra dự luật.

- Về cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương

Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy dự luật đã thể hiện được những đặc điểm của cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Uỷ ban dự án pháp luật thấy cần thiết phải nhấn mạnh đúng mức đến vai trò, trách nhiệm của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương là các đơn vị kinh tế hoàn chỉnh, có khả năng phát triển nông nghiệp toàn diện, phát triển công nghiệp địa phương, thủ công nghiệp và các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội khác ở địa phương. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương, tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương có một vai trò trụ cột đã được Nghị quyết của các Hội nghị lần thứ 5 và lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác nhận rõ ràng.

Tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương là cấp lãnh đạo toàn diện và chỉ đạo cụ thể toàn bộ công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương, phát huy mọi khả năng tiềm tàng của địa phương để thực hiện những chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước ở địa phương, bảo đảm nâng cao không ngừng đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân địa phương.

Tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương quản lý các mặt hoạt động kinh tế, văn hóa của địa phương và lãnh đạo các ngành, các cấp thuộc quyền quản lý các xí nghiệp, sự nghiệp của địa phương.

Tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương tham gia quản lý các xí nghiệp sự nghiệp của Trung ương đặt ở địa phương theo quy định của pháp luật, có nhiệm vụ cung cấp nhân lực, lương thực, thực phẩm và bảo đảm trật tự an ninh cho các xí nghiệp sự nghiệp đó.

- Về cấp huyện:

Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy dự luật đã xác nhận nhiệm vụ quyền hạn và phản ánh thực tế công tác của huyện hiện nay. Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ của tỉnh trong việc phát triển kinh tế và văn hóa rất nặng nề. Mỗi tỉnh có đến hàng trăm xã và hàng ngàn hợp tác xã. Vì huyện ở giữa tỉnh và xã, cho nên nhiệm vụ rất quan trọng của huyện là cùng với tỉnh và giúp tỉnh lãnh đạo các xã, thị trấn và các hợp tác xã.

Huyện có nhiệm vụ nắm vững tình hình các xã, thị trấn trong huyện và dựa trên kế hoạch của tỉnh quyết định các chủ trương nhằm thực hiện những nhiệm vụ chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa trong huyện do tỉnh giao, đi sát cơ sở, hướng dẫn xã, thị trấn xây dựng kế hoạch và ngân sách của xã, thị trấn phù hợp với kế hoạch của tỉnh và để thực hiện kế hoạch của tỉnh; huyện kiểm tra, đôn đốc các xã, thị trấn chấp hành kế hoạch, ngân sách đó của xã, thị trấn; huyện kiểm tra, đôn đốc các xã và hợp tác xã sản xuất kịp thời vụ và đúng kỹ thuật; huyện đôn đốc các xã phối hợp phát triển giao thông vận tải và các công trình thủy lợi có tính chất liên xã.

Ngoài ra huyện còn căn cứ vào điều kiện của huyện mà xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội của cấp huyện; quản lý các bệnh xá, trường phổ thông, sự nghiệp lợi ích công cộng và các xí nghiệp của cấp huyện.

Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy trong tình hình hiện nay việc phân công giữa huyện với cấp trên và cấp dưới như vậy là
hợp lý.

Theo ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội, chúng tôi thấy cần nói rõ thêm rằng những quy định của bản dự luật cho các huyện nói chung là đúng, nhưng mặt khác giữa các huyện của tỉnh với các huyện của thành phố cũng có sự khác nhau. Trong vấn đề này, các cơ quan nhà nước sẽ rút kinh nghiệm và trường hợp cần thiết thì có thể căn cứ vào luật này mà bổ sung bằng những văn bản có tính chất cụ thể hơn. Đối với các khu phố, cũng có tình hình như vậy.

- Cấp xã :

Cấp xã là cấp cơ sở trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước.

Một nhiệm vụ quan trọng của xã là phát triển sản xuất nông nghiệp. Xã giúp đỡ các hợp tác xã trong việc xây dựng và chấp hành kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và các ngành nghề khác của hợp tác xã, bảo đảm phát huy tính hơn hẳn của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Xã giám sát các hợp tác xã trong việc chấp hành những nghĩa vụ đối với nhà nước, có quyền đình chỉ việc thi hành những chủ trương của hợp tác xã trái với pháp luật.

Về mặt văn hóa, xã có nhiệm vụ phát triển các sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các sự nghiệp lợi ích công cộng khác của toàn xã, xây dựng đời sống mới, làm thay đổi dần dần bộ mặt của nông thôn.

Để bảo đảm cho nông thôn tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xã có nhiệm vụ bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành đúng đắn pháp luật của Nhà nước, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản công cộng.

Cấp xã là một cấp quan trọng trong hệ thống các đơn vị hành chính trong nước. Tăng cường xã, giúp xã, tạo điều kiện cho xã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình có ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện những nhiệm vụ chung của Nhà nước.

Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy những quy định của dự luật phản ánh được tính chất và vai trò của cấp xã, bảo đảm cho xã hoàn thành được những nhiệm vụ của mình.

- Cấp khu tự trị:

Việc thành lập khu tự trị Việt Bắc và khu tự trị Thái - Mèo là một thắng lợi to lớn trong việc thi hành chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước và đã có tác dụng cổ vũ tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết tương trợ và truyền thống đấu tranh cách mạng của các dân tộc.

Từ ngày thành lập các khu tự trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân tộc trong khu đã hăng hái phấn đấu và đã đạt được những thành tích lớn về phát triển sản xuất, phát triển văn hóa, xây dựng đời sống mới.

Những quy định của bản dự luật về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các khu tự trị đã căn cứ vào tình hình thực tế và yêu cầu phát triển các khu tự trị.

Theo bản dự luật, cấp khu có nhiệm vụ lãnh đạo các tỉnh trong khu thực hiện đúng đắn chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, mà nội dung chủ yếu là bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, gìn giữ và tăng cường sự đoàn kết giữa các dân tộc ở địa phương.

Một điểm quan trọng cần nêu rõ là bản dự luật đã quán triệt tinh thần đẩy mạnh sự phát triển của khu tự trị về mặt kinh tế, làm cho các dân tộc thiểu số mau tiến kịp dân tộc đa số, các dân tộc anh em cùng nhau tiến nhanh, mạnh và vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Muốn như vậy, một vấn đề cần phải chú trọng là làm thế nào cho sự phân công được hợp lý, tổ chức được gọn, nhẹ, có nhiều hiệu lực. Bản dự luật đã quy định: Hội đồng nhân dân khu tự trị căn cứ vào kế hoạch nhà nước và đặc điểm tình hình của khu tự trị mà quyết định các phương hướng và chủ trương phát triển kinh tế trong khu tự trị, quyết định kế hoạch xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa và xã hội của cấp khu. Uỷ ban hành chính có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các Uỷ ban hành chính tỉnh trong khu tự trị xây dựng và chấp hành kế hoạch kinh tế, và có nhiệm vụ quản lý các cơ sở kinh tế của cấp khu. Những quy định đó dựa trên tình hình thực tế, và phản ánh yêu cầu đẩy mạnh sự phát triển về kinh tế của khu tự
trị; nó phù hợp với chính sách dân tộc và tinh thần của Hiến pháp mới.

Một vấn đề quan trọng của Nhà nước ta đã được ghi trong Hiến pháp mới và đã được thể hiện rõ trong bản dự luật là việc phát triển văn hóa dân tộc. Khu tự trị cần phát triển những vốn văn hóa muôn mầu muôn vẻ của các dân tộc, làm giàu thêm kho tàng văn hóa của nước ta và tăng cường khả năng của các dân tộc tham gia quản lý đất nước. Dự luật đã quy định rõ nhiệm vụ đó của khu tự trị, khu tự trị có nhiệm vụ xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển văn hóa dân tộc, đào tạo cán bộ các dân tộc, xây dựng các cơ sở văn hóa, xã hội của cấp khu.

Uỷ ban dự án pháp luật hoàn toàn tán thành các quy định nói trên của bản dự luật đã được xây dựng với sự đóng góp ý kiến của các đồng chí đại biểu Quốc hội.

III. HỘI NGHỊ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thảo luận và quyết định những vấn đề trọng yếu của địa phương. Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy bản dự luật đã có những quy định thích đáng nhằm bảo đảm hoạt động của Hội đồng nhân dân, bảo đảm cho các cuộc hội nghị Hội đồng nhân dân tiến hành được tốt.

Dự luật đã quy định hội nghị Hội đồng nhân dân do Uỷ ban hành chính triệu tập và quy định rõ thêm trách nhiệm của Uỷ ban hành chính khóa trước phải triệu tập kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khóa mới chậm nhất là 45 ngày sau ngày bầu, nhằm bảo đảm cho hoạt động của Hội đồng nhân dân không bị gián đoạn lâu giữa hai khóa Hội đồng nhân dân.

Dự luật đã quy định số kỳ họp của Hội đồng nhân dân các cấp: Hội đồng nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố, xã, thị trấn ba tháng họp một kỳ; Hội đồng nhân dân khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện 6 tháng họp một kỳ.

Trên tinh thần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của Hội đồng nhân dân, có ý kiến đề nghị nên quy định số kỳ họp nhiều hơn, đặc biệt là đối với Hội đồng nhân dân các cấp cơ sở và Hội đồng nhân dân các thành phố trực thuộc Trung ương vì các Hội đồng nhân dân đó có điều kiện thuận tiện để họp nhiều hơn. Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy cách quy định của dự luật là thích đáng. Căn cứ vào tình hình thực tế, dự luật đã quy định số kỳ họp tối thiểu, Hội đồng nhân dân các cấp đều có thể họp nhiều hơn khi cần thiểt. Nếu quy định số kỳ họp nhiều hơn, thì có thể xẩy ra trường hợp Hội đồng nhân dân không họp đúng theo quy định của pháp luật.

Để bảo đảm cho sinh hoạt của Hội đồng nhân dân đi vào nền nếp và cho các cuộc hội nghị của Hội đồng nhân dân có kết quả tốt, dự luật quy định: Uỷ ban hành chính có nhiệm vụ triệu tập hội nghị Hội đồng nhân dân đúng kỳ hạn, chuẩn bị hội nghị Hội đồng nhân dân, đưa ra Hội đồng nhân dân thảo luận và quyết định các vấn đề trọng yếu của địa phương; ngày họp, nơi họp và chương trình làm việc phải được công bố cho nhân dân biết.

Việc cơ quan quyền lực nhà nước họp đúng kỳ hạn là một điều cần thiết trong sinh hoạt nhà nước và cần phải được tôn trọng. Hội đồng nhân dân có họp đúng kỳ hạn thì mới đề cao được quyền lực của nó và mới biểu hiện được trách nhiệm của cơ quan chấp hành trước Hội đồng nhân dân. Hơn thế nữa các cuộc hội nghị Hội đồng nhân dân phải có tác dụng thiết thực. Vì vậy mà cơ quan chấp hành phải chuẩn bị tốt nội dung các kỳ họp: ngày họp, nơi họp và chương trình làm việc phải cho nhân dân biết để nhân dân có thể giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước ở địa phương và khi thấy cần thì có thể góp ý kiến về chương trình hoặc về nội dung các kỳ họp.

Dự luật cũng đã quy định về đa số cần thiết để thông qua các nghị quyết của Hội đồng nhân dân: nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải được quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân trở lên biểu quyết tán thành. Có ý kiến cho rằng đa số cần thiết như vậy là quá cao. Nhưng Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy quy định của dự luật là hợp lý vì nó phản ánh đúng đắn sự nhất trí về chính trị của nhân dân ta và nó bảo đảm cho các nghị quyết của Hội đồng nhân dân có đầy đủ uy tín. Quy định này thống nhất với cách quy định của Hiến pháp về đa số cần thiết khi biểu quyết các Nghị quyết của Quốc hội và của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

IV. CÁC BAN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

Dự luật đã quy định một vấn đề mới so với các văn bản trước: tùy theo nhu cầu công tác thực tế từng địa phương và điều kiện hoạt động cụ thể của các đại biểu Hội đồng nhân dân, Hội đồng nhân dân có thể thành lập các ban của Hội đồng nhân dân; thành viên của ban gồm có đại biểu Hội đồng nhân dân và khi cần, thì có thể thêm người ngoài Hội đồng nhân dân; các thành viên đó làm việc không thoát ly sản xuất hoặc công tác chuyên môn của mình. Các ban của Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ giúp Hội đồng nhân dân tìm hiểu ý kiến nguyện vọng của nhân dân, và góp ý kiến trong việc xây dựng và thực hiện những chủ trương công tác của địa phương.

Trong thực tế có nơi như Hà Nội đã thành lập ban xã hội, ban y tế… Các ban đã đi tiếp xúc với nhân dân, với các cơ quan chuyên môn ở địa phương; đã đề xuất những vấn đề thiết thực và góp ý kiến giải quyết với cơ quan hữu quan (vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho những gia đình thu nhập thấp, vấn đề chống rét, phân phối hàng ngày tết, trạm y tế và hộ sinh dân lập…).

Uỷ ban dự án pháp luật tán thành việc thành lập các ban của Hội đồng nhân dân vì đây là một hình thức thích hợp để thắt chặt hơn nữa quan hệ giữa đại biểu Hội đồng nhân dân và nhân dân, phát huy hơn nữa vai trò, tác dụng của quần chúng nhân dân trong sự nghiêp xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa.

Nhưng cũng có người e ngại rằng các ban của Hội đồng nhân dân sẽ đẻ ra tổ chức cồng kềnh, thêm biên chế bàn giấy, chi phí hành chính, v.v.. Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy lo ngại đó là chính đáng. Nếu không nắm vững ý nghĩa mục đích và tính chất của các ban mà làm cho các ban trở thành những tổ chức bàn giấy, có biên chế, có trụ sở, v.v., thì sẽ không phát huy được tác dụng của các ban mà còn gây thêm trở ngại cho công tác của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.

Theo tinh thần của dự luật thì các ban không phải là cơ quan quyền lực hay cơ quan hành chính, cũng không phải là cơ quan chuyên môn như các sở, ty, phòng của Uỷ ban hành chính, mà là hình thức tổ chức làm việc của Hội đồng nhân dân. Các ban của Hội đồng nhân dân liên hệ chặt chẽ với nhân dân, điều tra thu thập ý kiến nguyện vọng của nhân dân và dựa vào những kinh nghiệm của nhân dân mà góp ý kiến với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính trong việc xây dựng và thực hiện các chủ trương công tác ở địa phương. Các thành viên của ban không thoát ly sản xuất và không thoát ly công tác chuyên môn của mình.

V. CÁC ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy dự luật đã quy định một cách thích đáng những nhiệm vụ quyền hạn chủ yếu của đại biểu Hội đồng nhân dân nhằm bảo đảm cho đại biểu Hội đồng nhân dân làm tròn nhiệm vụ của mình.

Dự luật đã quy định những nhiệm vụ của đại biểu Hội đồng nhân dân nhằm tăng cường trách nhiệm của đại biểu đối với cử tri, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa đại biểu Hội đồng nhân dân và cử tri, đề cao hơn nữa phẩm chất của người đại biểu Hội đồng nhân dân trong chế độ dân chủ nhân dân của ta.

Để bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với đại biểu của mình, dự luật đã quy định nguyên tắc bãi miễn và thể thức bãi miễn theo tinh thần thực sự dân chủ đã ghi trong Hiến pháp mới.

Dự luật cũng đã quy định quyền chất vất của đại biểu Hội đồng nhân dân đối với Uỷ ban hành chính và các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban hành chính. Đây là một hình thức nhân dân giám sát công tác của cơ quan hành chính thông qua người đại biểu
của mình.

Để bảo đảm cho kỳ họp tiến hành được tốt và đại biểu Hội đồng nhân dân làm tròn nhiệm vụ của mình trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, dự luật đã quy định như sau: “Trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, nếu không có sự đồng ý của Chủ tịch Đoàn thì không được bắt giam hoặc truy tố đại biểu Hội đồng nhân dân. Trong trường hợp phạm pháp quả tang hoặc trong trường hợp khẩn cấp thì cơ quan có trách nhiệm, sau khi tạm giữ một đại biểu phải lập tức báo cáo với Chủ tịch Đoàn”.

VI. TỔ CHỨC VÀ LỀ LỐI LÀM VIỆC
CỦA UỶ BAN HÀNH CHÍNH

Uỷ ban hành chính giữ một vai trò trọng yếu trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước cũng như trong toàn bộ công tác của địa phương. Uỷ ban hành chính cần được kiện toàn để làm tròn nhiệm vụ của mình.

Một trong những vấn đề mà dự luật đã giải quyết để kiện toàn Uỷ ban hành chính là bảo đảm cho Uỷ ban hành chính làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, phân công phụ trách, một trong những biểu hiện chủ yếu của nguyên tắc tập trung dân chủ.

Để bảo đảm nguyên tắc làm việc đó, dự luật đã giải quyết thỏa đáng vấn đề: số lượng ủy viên của Uỷ ban hành chính và vấn đề phân công, phân nhiệm trong Uỷ ban hành chính.

Trước đây, Luật 110 đã quy định số ủy viên tương đối cao cho các cấp Uỷ ban hành chính. Với con số đó các địa phương đã đưa vào Uỷ ban nhiều trưởng ngành chuyên môn, và hiện nay cũng có ý kiến nên tiếp tục làm như vậy.

Nhưng trên thực tế các thành viên trưởng ngành vì bận công tác chuyên môn nên không tham gia được nhiều vào công tác lãnh đạo chung của Uỷ ban; công việc của Uỷ ban thường do một số ít ủy viên chuyên trách giải quyết; như vậy là không đúng nguyên tắc.

Căn cứ vào kinh nghiệm trên đây, dự luật đã quy định lại số ủy viên của Uỷ ban hành chính và sự phân công trong Uỷ ban hành chính. Số ủy viên của Uỷ ban hành chính đã giảm bớt so với trước và phải là những người có thể thực sự thảo luận và quyết định tập thể những vấn đề quan trọng của địa phương. Ở các khu tự trị cần đưa vào Uỷ ban một số đại biểu tiêu biểu cho các dân tộc thì phải nâng số ủy viên Uỷ ban hành chính lên cao hơn. Trong Uỷ ban hành chính, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên thư ký họp thành bộ phận thường trực thay mặt cho Uỷ ban trong việc chỉ đạo hàng ngày. Giữa Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thư ký và các ủy viên khác của Uỷ ban, có sự phân công rõ ràng theo nguyên tắc mỗi người chịu trách nhiệm riêng về phần công tác của mình, và chịu trách nhiệm chung về công tác của Uỷ ban.

Uỷ ban dự án pháp luật nhận thấy những quy định của dự luật phù hợp với tình hình thực tế và có thể bảo đảm cho Uỷ ban hành chính làm việc theo đúng nguyên tắc tập thể lãnh đạo, phân công phụ trách.

*

* *

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Sau khi thẩm tra toàn bộ dự luật, Uỷ ban dự án pháp luật đã nhận thấy những quy định của dự luật đã theo đúng những nguyên tắc cơ bản về tính chất và tổ chức nhà nước trong chế độ ta và đã đáp ứng được yêu cầu phát huy dân chủ, kiện toàn tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp.

Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tất cả quyền lực trong nước đều thuộc về nhân dân do nhân dân sử dụng thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; Quốc hội và Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp đều thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Những quy định của dự luật về tính chất, vai trò, vị trí của Hội đồng nhân dân và của Uỷ ban hành chính, về mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính, giữa cấp trên và cấp dưới đã áp dụng đúng những nguyên tắc trên đây.

Dự luật đã căn cứ vào sự phân công thực tế giữa các cấp chính quyền và vào yêu cầu phát triển của các địa phương mà quy định những quyền hạn nhiệm vụ cụ thể cho các cấp Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính để cho chính quyền địa phương có thể, dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương, động viên mọi khả năng của địa phương vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Dự luật cũng đã căn cứ vào những kinh nghiệm về tổ chức và lề lối làm việc mà Nhà nước ta đã thu được trong việc lãnh đạo cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội mà quy định về tổ chức và lề lối làm việc của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp để tăng cường hiệu lực công tác của Hội đồng nhân dân và của Uỷ ban hành chính.

Dự luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp đã được nghiên cứu trong một quá trình lâu dài. Các cơ quan có trách nhiệm đã nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động của chính quyền địa phương, đã đi về nhiều địa phương ở miền xuôi cũng như ở miền núi cùng với các địa phương thảo luận về phương hướng quy định và nội dung các quy định. Nhiều vị đại biểu Quốc hội, các cơ quan nhà nước ở Trung ương, các vị đại biểu Hội đồng nhân dân và các Uỷ ban hành chính ở nhiều địa phương đã góp ý kiến trong quá trình xây dựng.

Dự luật được Quốc hội thông qua sẽ có tác dụng rất lớn trong việc động viên nhân dân tham gia quản lý công việc của Nhà nước, và trong việc củng cố và tăng cường Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp, phát huy tác dụng của chính quyền địa phương trong việc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, biến miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh hòa bình thống nhất Tổ quốc.

Uỷ ban dự án pháp luật tán thành bản Dự luật do Hội đồng Chính phủ trình Quốc hội và đề nghị Quốc hội thông qua.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.