VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 2 1994-1995


TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ DỰ ÁN LUẬT KHOÁNG SẢN

(Do ông Trần Lum, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng
đọc tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá IX, ngày 01-4-1995)

 

1. Sự cần thiết ban hành Luật khoáng sản

Khoáng sản của nước ta phong phú, đa dạng, là tài nguyên quý của quốc gia. Từ năm 1955 đến nay, chúng ta đã phát hiện mới trên 5.000 điểm khoáng sản và mỏ, trong đó một số mỏ đã được khai thác.

Pháp lệnh về tài nguyên khoáng sản được ban hành ngày 07 tháng 8 năm 1989 và các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này được ban hành trong các năm 1992-1993, đã góp phần tăng cường một bước hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với tài nguyên khoáng sản. Qua 5 năm thi hành thấy rằng, Pháp lệnh này còn có nhiều điểm hạn chế so với yêu cầu quản lý mới theo cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây:

- Đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh về tài nguyên khoáng sản bao gồm cả dầu khí và nước dưới đất. Nay đã có Luật dầu khí được Quốc hội thông qua tháng 7 năm 1993, nước dưới đất thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật về nước đang được soạn thảo. Vì vậy, đối tượng điều chỉnh của Luật khoáng sản (để thay thế Pháp lệnh về tài nguyên khoáng sản) chỉ còn các khoáng sản rắn, nước khoáng và nước nóng thiên nhiên.

- Pháp lệnh năm 1989 chưa thể hiện được rõ chính sách, cơ chế khuyến khích đầu tư phát triển ngành công nghiệp này; chưa có cơ chế bảo đảm vốn, tài sản đầu tư vào các hoạt động khoáng sản ngay từ giai đoạn thăm dò, đặc biệt là bảo đảm đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong nước.

- Các quy định hiện hành về thuế chưa thể hiện được đặc thù của hoạt động khoáng sản, kém hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.

- Các quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ giấy phép hoạt động khoáng sản chưa rõ ràng, cụ thể và chưa phù hợp với từng giai đoạn khảo sát, thăm dò, khai thác khoáng sản; chưa quy định rõ mối quan hệ hữu cơ giữa khoáng sản với đất đai, nguồn nước và môi trường.

- Các quy định về quản lý nhà nước khi thi hành kém hiệu lực và chưa phù hợp với cơ chế tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài.

Việc thi hành Pháp lệnh về tài nguyên khoáng sản không nghiêm, kể cả các cơ quan nhà nước ở Trung ương và các địa phương. Hàng trăm giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản, kể cả giấy phép khai thác vàng, đá quý được cấp không đúng thẩm quyền. Tình trạng khai thác, buôn bán khoáng sản trái phép diễn ra khá phổ biến ở nhiều nơi có khoáng sản quý, khoáng sản dễ tiêu thụ, gây nhiều hậu quả xấu về môi trường, an toàn lao động và trật tự xã hội.

Mấy năm gần đây, với sự vận hành của cơ chế thị trường và chính sách mở cửa đã xuất hiện nhiều loại hình tổ chức kinh tế mới như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tham gia vào các hoạt động khoáng sản quy mô nhỏ. Hoạt động đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này đã được triển khai, chủ yếu do các công ty nhỏ tiến hành và mới ở giai đoạn khảo sát, thăm dò. Nhiều công ty lớn của nước ngoài muốn đầu tư vào lĩnh vực khoáng sản ở nước ta, nhưng còn lo ngại vì ta chưa có Luật khoáng sản để bảo đảm đầu tư của họ vào ngành công nghiệp thường gặp nhiều rủi ro này.

Tình hình thực tế trên đây đòi hỏi cần sớm có Luật khoáng sản.

Việc soạn thảo Luật khoáng sản đã được triển khai từ cuối năm 1991 đến nay. Trong quá trình xây dựng đã đúc kết nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong nước, tham khảo nhiều Luật khoáng sản, Luật mỏ của nước ngoài, đã tổ chức nhiều hội thảo quốc gia và quốc tế lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia trong nước và nước ngoài.

Dự thảo Luật khoáng sản trình Quốc hội xem xét đã được hoàn chỉnh theo ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Kèm theo Dự án Luật có dự thảo các văn bản dưới Luật.

2. Mục đích, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo Dự thảo Luật khoáng sản

Mục đích chủ yếu của Luật khoáng sản là tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động khoáng sản nhằm bảo vệ, sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn lao động và trật tự xã hội trong hoạt động khoáng sản.

Với mục đích trên, Dự thảo Luật khoáng sản đã quán triệt những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo cơ bản sau đây:

1. Bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản của đất nước.

2. Khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước ngay từ giai đoạn khảo sát, thăm dò, bảo đảm quyền khai thác, không phân biệt thành phần kinh tế và quy mô khai thác, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm căn cứ quyết định.

3. Bảo đảm sự phù hợp và thống nhất Luật khoáng sản với Luật đất đai, Luật môi trường và các luật khác liên quan.

4. Luật khoáng sản quy định rõ các hoạt động được phép hoặc không được phép tiến hành, xác định rõ quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ từng loại giấy phép hoạt động khoáng sản.

5. Khẳng định quyền sở hữu toàn dân đối với tài nguyên khoáng sản của đất nước, bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Nhà nước đối với các hoạt động khoáng sản, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương.

3. Nội dung chủ yếu của Dự thảo Luật khoáng sản

Dự thảo Luật khoáng sản gồm Lời nói đầu, 12 chương, 59 điều, với nội dung chủ yếu sau đây:

Chương I: Gồm những quy định chung về quyền sở hữu toàn dân, quyền thống nhất quản lý của Nhà nước về khoáng sản; đối tượng, phạm vi áp dụng Luật và chính sách khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp khai khoáng.

Chương II: Gồm các quy định về bảo vệ, điều tra cơ bản về tài nguyên khoáng sản nói chung.

Chương III: Gồm các quy định về khu vực cho phép và cấm hoạt động khoáng sản, bảo vệ, sử dụng các thành phần môi trường và lợi ích công cộng trong hoạt động khoáng sản.

Chương IV: Gồm các quy định về khảo sát khoáng sản.

Chương V: Gồm các quy định về thăm dò khoáng sản.

Chương VI: Gồm các quy định về khai thác khoáng sản, kể cả chế biến khoáng sản gắn liền với khai thác.

Chương VII: Gồm các quy định về khai thác nhỏ (không công nghiệp) của tổ chức, cá nhân Việt Nam.

Chương VIII: Gồm các quy định về thuế và các khoản thu khác.

Chương IX: Gồm các quy định về quản lý nhà nước đối với các hoạt động khoáng sản.

Chương X: Gồm các quy định về thanh tra chuyên ngành về khoáng sản.

Chương XI: Gồm các quy định về xử lý vi phạm.

Chương XII: Gồm các điều khoản thi hành.

Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét quyết định.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội

 

Về trang mục lục

Trở về đầu trang