VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 2 1994-1995

 

BÁO CÁO THẨM TRA CỦA ỦY BAN KINH TẾ VÀ NGÂN SÁCH
CỦA QUỐC HỘI VỀ DỰ ÁN LUẬT KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC

(Do ông Nguyễn Thanh Phong, Phó Chủ nhiệm
Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội
đọc tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa IX, ngày 03-6-1994)

Kính thưa Quốc hội,

Dự thảo Luật khuyến khích đầu tư trong nước được chuẩn bị trong một thời gian dài, đã được tổ chức lấy ý kiến của các ngành, các địa phương và qua nhiều cuộc hội thảo, khảo sát thực tế, có tham khảo kinh nghiệm của một số nước, ý kiến của chuyên gia nước ngoài và đã xin ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội trong kỳ họp thứ 4 của Quốc hội (tháng 12 năm 1993).

Thường trực Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội đã nhiều lần nghe Ban soạn thảo trình bày về Dự án Luật, đã tổ chức lấy ý kiến của một số nhà doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đại diện một số doanh nghiệp nhà nước, các đồng chí lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các ngành kinh tế ở một số địa phương như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Sông Bé, Long An, Tiền Giang, Hà Nội, Hà Tây... Thường trực Ủy ban chúng tôi đã gửi các ý kiến đó cho Ban soạn thảo và đã nhiều lần trực tiếp góp ý kiến để Ban soạn thảo chỉnh lý Dự thảo Luật. Cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1994, Ủy ban chúng tôi đã họp toàn thể ủy ban (các thành viên ở phía Nam họp tại Thành phố Hồ Chí Minh; các thành viên phía Bắc họp tại Hà Nội) có đại diện thường trực Hội đồng dân tộc, Ủy ban pháp luật và các Ủy ban khác của Quốc hội dự, để thẩm tra lần đầu Dự án Luật này trước khi Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định công bố lấy ý kiến nhân dân.

Thực hiện quyết định của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Dự thảo Luật khuyến khích đầu tư trong nước đã được công bố lấy ý kiến nhân dân từ ngày 10 tháng 4 đến ngày 10 tháng 5 năm 1994 và đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân, các cơ quan nhà nước, các Đoàn đại biểu Quốc hội, các địa phương tích cực tham gia ý kiến.

Ngày 23 tháng 5 và ngày 01 tháng 06 năm 1994, Ủy ban kinh tế và ngân sách họp toàn thể Ủy ban tại Hà Nội, có đại diện Thường trực Hội đồng dân tộc, Ủy ban pháp luật và các Ủy ban khác của Quốc hội dự, để thẩm tra lần cuối Dự án Luật khuyến khích đầu tư trong nước do Chính phủ trình sau khi đã được chỉnh lý lại trên cơ sở tiếp thụ ý kiến đóng góp của nhân dân, các ngành, các cấp và của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Sau đây Ủy ban chúng tôi xin trình Quốc hội một số ý kiến về Dự án Luật này như sau:

1. Sự cần thiết ban hành Luật:

Ủy ban chúng tôi ý thức rằng, việc động viên cho được các nguồn vốn trong và cả ngoài nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế là một nhiệm vụ có tầm quan trọng và cấp bách trong giai đoạn hiện nay của nước ta. Chúng tôi cũng cho rằng, hiện nay vốn trong nhân dân ta còn nhiều, nhưng việc bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh còn rất thấp, trong đó đầu tư vào sản xuất lại càng ít. Tình hình đó có phần do trong nhân dân còn có tâm lý lo ngại, chưa thật tin tưởng vào bảo đảm của pháp luật đối với vốn, tài sản và lợi nhuận hợp hợp pháp của mình. Thêm vào đó, các thủ tục hành chính như: việc cho phép thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh..., còn rườm rà, phiền phức; những quy định của pháp luật liên quan đến việc kinh doanh nhiều nơi không được thực hiện nghiêm chỉnh. Ngoài ra, mặc dù nền kinh tế nước ta đã khởi sắc trong mấy năm gần đây, nhưng vẫn còn có những yếu tố chưa thật ổn định như vấn đề thị trường, giá cả, nguy cơ tái lạm phát; kết cấu hạ tầng còn quá kém; một số ngành kinh tế và một số vùng vẫn đang gặp nhiều khó khăn,... Đó là những trở ngại đối với các nhà đầu tư. Trong khi đó, các chính sách về đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn cần được khuyến khích và ưu đãi tuy đã có trong một số văn bản của Nhà nước, nhưng chưa đủ, còn phân tán, chưa thành hệ thống chặt chẽ, đồng bộ và chưa đủ sức hấp dẫn.

Trong tình hình hiện nay, việc gọi vốn đầu tư của người nước ngoài vào Việt Nam là rất cần thiết; nhưng việc huy động vốn trong nước là hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó cũng phải kể đến yêu cầu cần đầu tư vào các vùng có nhiều khó khăn nhưng lại chưa có sức hấp dẫn đối với nước ngoài như các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa... Việc huy động vốn đầu tư trong nước trước mắt cũng như về lâu dài vẫn là hướng chủ yếu nhằm khai thác tiềm lực và sức mạnh kinh tế của đất nước, và cũng qua đó tạo thêm điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế và hợp tác với nước ngoài.

Vì lẽ đó, Ủy ban chúng tôi thấy việc ban hành "Luật khuyến khích đầu tư trong nước" là hết sức cần thiết để tạo thêm cơ sở pháp lý, tạo điều kiện để nhân dân yên tâm, mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vào sản xuất - kinh doanh, phát triển kinh tế. Ý kiến của đông đảo nhân dân cũng rất đồng tình và đang mong đợi Quốc hội sớm ban hành Luật này.

2. Về tên gọi của Luật:

Qua ý kiến đóng góp của nhân dân và trong Ủy ban chúng tôi vẫn còn có hai loại ý kiến khác nhau:

Loại ý kiến thứ nhất: Đề nghị lấy tên là "Luật đầu tư trong nước" với lập luận rằng, nếu chỉ "khuyến khích" không thôi thì chưa đủ, cần giải quyết các vấn đề một cách căn bản, toàn diện hơn thì mới có thể kêu gọi được nhiều vốn đầu tư. Hơn nữa, trong Dự thảo Luật không chỉ có nội dung khuyến khích, mà còn có những điều quy định về đầu tư như về nguồn vốn đầu tư, hình thức đầu tư, về bảo đảm và hỗ trợ đầu tư, v.v.. Mặt khác, phải có "Luật đầu tư trong nước" hoàn chỉnh mới tương xứng với "Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam" đã ban hành.

Loại ý kiến thứ hai: Nhất trí lấy tên như Dự thảo là "Luật khuyến khích đầu tư trong nước" cho phù hợp với nội dung, mục đích và tinh thần cơ bản của Dự án Luật là khuyến khích các tầng lớp nhân dân bỏ vốn đầu tư vào sản xuất - kinh doanh. Còn những vấn đề khác liên quan đến đầu tư như: trình tự, hình thức đầu tư, thủ tục thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh..., thì đã được chế định trong các Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật phá sản doanh nghiệp và sẽ được thể hiện trong các Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật thương mại, Luật hợp tác xã..., ban hành sau này. Do đó, nội dung chính của Luật khuyến khích đầu tư trong nước, ngoài một số quy định chung về đầu tư, chủ yếu là quy định cụ thể các chính sách khuyến khích và chế độ ưu đãi về đầu tư. Nếu gọi là "Luật đầu tư trong nước" thì ngoài nội dung mà Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty đã quy định thì văn bản này vẫn còn thiếu những vấn đề khác như trình tự đầu tư, các hình thức đầu tư, các loại hình doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước)... Nếu phải xây dựng một luật chung hoàn chỉnh, với tên gọi là "Luật đầu tư trong nước" thì Ban soạn thảo không đủ thời gian để hoàn thành văn bản kịp trình ra Quốc hội tại kỳ họp lần này trong khi nhân dân lại đang mong đợi.

Chúng tôi xin báo cáo rõ thêm, qua tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân, các ngành, các cấp, các Đoàn đại biểu Quốc hội, thì trong tổng số 88 văn bản gửi về, có 57 văn bản, trong đó hoặc không nêu ý kiến gì về tên Luật, hoặc có ý kiến tán thành giữ tên gọi như Dự thảo là "Luật khuyến khích đầu tư trong nước"; 21 văn bản có những ý kiến đề nghị lấy tên là "Luật đầu tư trong nước" và 10 văn bản có cả hai loại ý kiến như ở trên.

Trong Ủy ban chúng tôi đa số ý kiến đề nghị Quốc hội, trước mắt nên chấp nhận sự cùng tồn tại các văn bản pháp luật hiện hành riêng rẽ có liên quan đến đầu tư trong nước như vậy. Tất nhiên cũng cần phải sửa đổi một số quy định trong một số Luật hiện hành đó cho phù hợp với Luật này, trước mắt là một số điều trong Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty mà Chính phủ sẽ trình ra Quốc hội trong kỳ họp này.

Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội đã nhiều lần thảo luận, cân nhắc và trong cuộc họp toàn thể Ủy ban buổi tối ngày 01 tháng 6 năm 1994, đa số ý kiến cũng đồng ý lấy tên là "Luật khuyến khích đầu tư trong nước". Ủy ban chúng tôi xin trình Quốc hội xem xét.

3. Về đối tượng điều chỉnh của Luật:

- Theo quy định tại Điều 1 của Dự thảo Luật trình ra Quốc hội lần này thì tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam đều thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật này.

Ở Điều này không nêu vấn đề quốc tịch, mà quốc tịch là một vấn đề rất phức tạp. Thực tế hiện nay, trong số người Việt Nam định cư ở nước ngoài có một số người vẫn giữ nguyên quốc tịch Việt Nam; một số ít người đã nhập hẳn quốc tịch nước ngoài; nhưng một số đông người lại có cả hai quốc tịch (đã nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam). Đối với người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam, cũng có một số người đã ở tại Việt Nam hàng chục năm, nhưng vẫn chưa nhập quốc tịch Việt Nam.

Về vấn đề quốc tịch, Điều 49 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam". Điều 3 Luật quốc tịch năm 1988 "chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam".

Với tinh thần khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước, Điều 25 Hiến pháp ghi rõ: "Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước". Điều 39 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng ghi: "Căn cứ vào những nguyên tắc quy định trong Luật này, Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành những quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước, góp phần xây dựng Tổ quốc". Điều 2 Nghị định 29/CP ngày 27-05-1993 của Chính phủ về những biện pháp khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước lại coi: "Người Việt Nam định cư ở nước ngoài... gồm mọi người có quốc tịch Việt Nam hoặc người Việt Nam có quốc tịch khác", nói cách khác là coi người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước như là người nước ngoài, nhưng có phần được ưu ái hơn.

Về vấn đề này, trong Ủy ban chúng tôi còn có các ý kiến khác nhau:

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, mục tiêu của ta là cốt làm sao huy động được nhiều vốn đầu tư, do vậy đề nghị nên mở rộng đối tượng điều chỉnh của Luật này đối với cả cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài như trong Dự thảo Luật. Nhưng lưu ý, Chính phủ khi quy định cụ thể các đối tượng điều chỉnh của Luật này và của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải thật rõ ràng, cụ thể, hết sức tránh để xảy ra trường hợp cùng một đối tượng mà lại thuộc phạm vi điều chỉnh của cả hai Luật.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài là quá rộng, chỉ nên giới hạn những người ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam thì mới thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật này.

Loại ý kiến thứ ba đề nghị, người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn trực tiếp đầu tư vào Việt Nam thì áp dụng theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy vậy, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đưa vốn về nước hợp pháp cho chủ đầu tư trong nước thực hiện dự án đã được duyệt; nhưng phải quy định chặt chẽ việc chuyển vốn về nước, chuyển lợi nhuận và chuyển vốn ra nước ngoài khi kết thúc dự án đầu tư để tránh sơ hở và bị lợi dụng.

Đây là vấn đề phức tạp, Ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội xem xét và cho ý kiến quyết định.

- Theo Điều 1 của Dự thảo thì Luật này áp dụng cho các tổ chức Việt Nam và ở khoản 1, Điều 4 của Dự thảo Luật quy định: "Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế". Như vậy, phạm vi điều chỉnh của Luật gồm cả doanh nghiệp nhà nước...

Trước đây khi thảo luận về vấn đề này, trong Ủy ban chúng tôi có một số ý kiến đề nghị không nên đưa doanh nghiệp nhà nước vào Luật này mà để "Luật doanh nghiệp nhà nước" sẽ quy định cụ thể; vả lại "Nhà nước không nên tự khuyến khích mình" hoặc cũng có ý kiến đề nghị nếu có đưa vào thì chỉ tính phần vốn tự có và vốn tự huy động được, ngoài vốn từ ngân sách. Ngược lại, một số ý kiến khác cho rằng, các cơ sở kinh tế quốc doanh đương nhiên là thuộc đối tượng điều chỉnh của "Luật doanh nghiệp nhà nước"; Luật riêng rẽ đối với từng loại hình doanh nghiệp chỉ điều chỉnh các quan hệ nhất định phù hợp với tổ chức và hoạt động của loại hình doanh nghiệp đó; còn "Luật khuyến khích đầu tư trong nước" điều chỉnh chung về bảo hộ đầu tư, khuyến khích và ưu đãi đầu tư thì các cơ sở kinh tế quốc doanh cũng phải được hưởng các chế độ khuyến khích, ưu đãi nếu cũng hoạt động thuộc các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn được khuyến khích, ưu đãi theo quy định của Luật này, bất kể là vốn trong hay ngoài ngân sách. Vì có như vậy mới thực hiện được sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Hơn nữa, thành phần kinh tế quốc doanh giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, lại càng không nên để cho các cơ sở kinh tế quốc doanh bị rơi vào thế cạnh tranh bất lợi trong hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Trong cuộc họp toàn thể Ủy ban tối ngày 01 tháng 6 năm 1994, nhiều ý kiến cũng đồng tình doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này, nhưng lưu ý trong văn bản dưới luật, Chính phủ cần quy định cụ thể loại doanh nghiệp nhà nước nào và trong những trường hợp cụ thể nào mới được hưởng chế độ ưu đãi.

- Ở đây còn có vấn đề đặt ra là việc đầu tư thành lập các cơ sở sản xuất - kinh doanh ở quy mô nào mới được hưởng chế độ ưu đãi? ủy ban chúng tôi cho rằng, trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, sản xuất nhỏ vẫn còn phổ biến, việc huy động các nguồn vốn với mọi quy mô đầu tư vào sản xuất - kinh doanh đều cần thiết, kể cả những người đầu tư vào các dự án nhỏ. Tất nhiên là những cơ sở nào hoạt động kinh doanh đúng lĩnh vực, ngành, nghề, địa bàn theo quy định ở Điều 9 của Luật này mới được hưởng chế độ khuyến khích, ưu đãi.

4. Về các lĩnh vực, ngành, nghề và địa bàn cần được ưu đãi đầu tư:

Nhiều ý kiến cho rằng, các lĩnh vực, ngành, nghề và địa bàn được ưu đãi đầu tư quy định trong Điều 8 của Dự thảo Luật công bố lấy ý kiến nhân dân là quá rộng, ví dụ như "sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu", vì có rất nhiều mặt hàng có thể gọi là hàng thay thế hàng nhập khẩu như: vải, sợi, xi măng... và không ổn định vì giới hạn trong "từng thời kỳ kế hoạch năm năm"... đồng thời lại có những ngành, nghề, vùng cần được ưu đãi đầu tư thì không thấy đề cập như ngành, nghề truyền thống, kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, phục vụ dân sinh hoặc ở vùng dân tộc, vùng ven biển khó khăn...

Tiếp thu ý kiến đóng góp, trong Dự thảo Luật đã được chỉnh lý trình Quốc hội lần này (nay là Điều 9), thì các lĩnh vực, ngành, nghề và địa bàn cần được ưu đãi đầu tư đã được thể hiện rõ hơn.

Đa số ý kiến trong Ủy ban chúng tôi cho rằng, trong Dự thảo Luật tuy đã có quy định, nhưng trong thực tế có thể sẽ nảy sinh nhiều vấn đề cụ thể, phức tạp. Cho nên, nếu không có các hướng dẫn sát thực tế, thì rất có thể sẽ có những hạn chế, dân kém tin tưởng mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vào sản xuất - kinh doanh. Vì vậy, đề nghị giao cho Chính phủ quy định cụ thể cho phù hợp với yêu cầu của từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội, nhưng cũng cần lưu ý đến các ngành, nghề mà thời kỳ trước thuộc các danh mục đã được ưu tiên thì thời kỳ tiếp theo vẫn phải được tiếp tục hưởng chế độ ưu đãi trong thời gian còn lại nếu còn đủ điều kiện, để nhân dân yên tâm bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh.

5. Về các biện pháp khuyến khích và ưu đãi đầu tư:

Các ưu đãi về thuế là một trong những biện pháp có tác dụng lớn để khuyến khích các nhà đầu tư. Có ý kiến cho rằng, những quy định về miễn, giảm thuế trong Dự thảo Luật là chưa đủ mạnh, chưa có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, cần mở rộng hơn nữa diện miễn thuế, giảm thuế, kể cả thời gian và thuế suất để nếu không hơn, thì ít nhất cũng bằng Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Ngược lại, cũng có ý kiến cho rằng, diện được miễn thuế, giảm thuế trong Luật này là quá rộng, dễ dẫn đến tình trạng miễn, giảm thuế tràn lan, gây thất thu cho ngân sách.

Ý kiến chung của Ủy ban chúng tôi nhất trí là chỉ nên kéo dài thêm thời gian miễn thuế, giảm thuế so với các luật thuế hiện hành mà chủ yếu là thuế lợi tức và cả thuế doanh thu (đối với các dự án đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và vùng khó khăn khác) như thể hiện tại Điều 10 của Dự án Luật trình Quốc hội lần này.

Sau nhiều lần xem xét, cân nhắc và có tham khảo ý kiến của các cơ quan có liên quan, chúng tôi cho rằng các mức ưu đãi về thuế như trong Dự thảo đã được chỉnh lý trình Quốc hội là hợp lý. Hơn nữa, lợi thế của các nhà đầu tư trong nước còn phải kể đến việc sử dụng đất, mặt nước, giá điện, giá nước, cước phí vận chuyển, tiền lương công nhân, giá sinh hoạt..., đều thấp hơn hẳn so với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, nhiều ý kiến trong ủy ban chúng tôi vẫn còn băn khoăn về các mức ưu đãi về thuế tuy đã thu gọn quy định vào một điều (Điều 10) của Dự luật, nhưng xem ra có phần chung quá, còn cụ thể hóa sẽ do Chính phủ quy định sau thì e rằng khó bảo đảm kịp thời, nhất quán với yêu cầu khuyến khích, ưu đãi của Luật. Vì vậy, có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể mức miễn giảm, thời gian được miễn giảm thuế đối với từng trường hợp được ưu đãi cụ thể vào ngay trong Luật này.

Về quỹ hỗ trợ đầu tư, có hai loại ý kiến khác nhau:

- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, không nên lập quỹ hỗ trợ đầu tư, vì Luật này ban hành với mục đích chủ yếu là khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân bỏ vốn đầu tư vào phát triển sản xuất. Đặt vấn đề lập quỹ hỗ trợ đầu tư mà lấy vốn từ ngân sách, hoặc từ một nguồn vốn nào đó e rằng không hợp lý. Nếu cần hỗ trợ, thì Nhà nước nên có chính sách ưu đãi bằng lãi suất tín dụng đầu tư, hoặc khuyến khích phát triển các tổ chức tín dụng hỗ trợ đầu tư theo quy định của Nhà nước, không cần lập quỹ riêng. Hơn nữa, nếu có điều kiện thành lập quỹ này, thì trong tình hình hiện nay, việc quan tâm đầu tiên là phải tạo điều kiện về vốn cho doanh nghiệp nhà nước phát triển, vì lâu nay Nhà nước chưa bảo đảm đủ vốn cho các cơ sở quốc doanh hoạt động.

- Loại ý kiến thứ hai đồng ý là Nhà nước nên lập và khuyến khích lập "Quỹ hỗ trợ đầu tư" để cấp tín dụng trung hạn và dài hạn như trong Dự thảo. Hiện nay, nhân dân đang mong đợi có quỹ tín dụng trung hạn và dài hạn để hỗ trợ phát triển sản xuất nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao tỷ suất nông sản hàng hóa, có hiệu quả kinh tế cao hơn.

Chúng tôi thấy rằng, nói đến việc lập quỹ hỗ trợ đầu tư thì trước hết phải làm rõ việc hình thành quỹ. Hoan nghênh hằng năm ngân sách nhà nước và tín dụng ngân hàng cũng đã có dành ra một số khoản cho đầu tư phát triển như: bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước, vốn cho các chương trình mục tiêu quốc gia; phủ xanh đồi núi trọc, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, định canh, định cư, xây dựng các vùng kinh tế mới... Vì vậy, khi hình thành quỹ này thì trước hết nên sáp nhập các khoản vốn như đã nêu trên và huy động thêm các nguồn vốn khác, kể cả việc tích cực gọi vốn hỗ trợ phát triển từ nước ngoài, nhưng cần tập trung vào một đầu mối quản lý, sử dụng đúng mục đích, chặt chẽ, đem lại hiệu quả thật sự.

Tuy nhiên, không ít ý kiến trong Ủy ban chúng tôi vẫn băn khoăn về tính thực thi của các quỹ hỗ trợ đầu tư này vì thực trạng hiện nay cả ngân sách nhà nước, cả tín dụng ngân hàng đang rất khó khăn về vốn, không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu cần thiết cho hoạt động bình thường của các doanh nghiệp.

Về bảo lãnh tín dụng, đây là một biện pháp cũng rất hữu hiệu trong việc khuyến khích đầu tư, vì nó giúp cho các nhà đầu tư có thêm được số vốn cần thiết đáp ứng những nhu cầu của hoạt động sản xuất - kinh doanh. Cũng có ý kiến cho rằng, trong cơ chế hiện nay khi các ngân hàng kinh doanh, các công ty tài chính đều tự hạch toán và tự chịu trách nhiệm lỗ lãi thì việc bảo lãnh đầu tư khó có thể thực hiện được nếu không có sự bảo trợ của Nhà nước.

Đa số các thành viên trong Ủy ban chúng tôi đồng tình với biện pháp bảo lãnh tín dụng nhưng cũng rất lo về tính thực thi trong điều kiện thực tế hiện nay. Vì vậy, đề nghị Chính phủ cần xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Nhà nước, của người bảo lãnh và người được bảo lãnh, bảo đảm chặt chẽ, có tính hiện thực.

6. Vấn đề quản lý nhà nước về khuyến khích đầu tư:

Ủy ban chúng tôi thống nhất ý kiến là không nên thành lập một cơ quan quản lý riêng kiểm sát đầu tư mà nên giao chức năng này cho Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Chính phủ cần nói rõ cơ quan nào giúp Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện nhiệm vụ này vào ngay trong Luật để bảo đảm cho Luật được thi hành thực sự trong cuộc sống.

Về các thủ tục hành chính như xin phép thành lập, đăng ký kinh doanh, chúng tôi đề nghị không nên đưa vào Luật này mà nên thực hiện theo Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân với nguyên tắc là thống nhất vào một đầu mối để giảm bớt phiền hà cho nhân dân trong việc xin cấp giấy phép, đăng ký kinh doanh và cấp chứng nhận được hưởng chế độ ưu đãi đầu tư. Còn các vấn đề khác có liên quan đến đầu tư, Ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân do Chính phủ trình Quốc hội cho phù hợp với Luật này.

Kính thưa Quốc hội,

Trên đây là một số ý kiến của Ủy ban kinh tế và ngân sách sau khi thẩm tra Dự án Luật khuyến khích đầu tư trong nước, trình Quốc hội xem xét và quyết định.

  

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội