THUYẾT TRÌNH CỦA ỦY BAN VĂN HÓA, GIÁO DỤC,
THANH NIÊN, THIẾU NIÊN VÀ NHI ĐỒNG CỦA QUỐC HỘI VỀ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH VỀ NGUỒN LỰC VÀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP VĂN HÓA, GIÁO DỤC, THANH THIẾU NHI
(Do bà Trần Thị Tâm Đan, Chủ nhiệm Ủy ban văn hoá,
giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của
Quốc hội đọc tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá IX, ngày 21-10-1994)
Kính thưa Quốc hội,
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 4 về nhiệm vụ năm 1994, Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu tại một số địa phương và đã làm việc với các ngành hữu quan thuộc các lĩnh vực Ủy ban giám sát.
Về đánh giá cụ thể những mặt làm được, chưa làm được của năm 1994 và phương hướng nhiệm vụ năm 1995 đối với các lĩnh vực văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao, giáo dục - đào tạo, bảo vệ - chăm sóc trẻ em và công tác thanh niên, chúng tôi đã trình bày trong báo cáo hoạt động của Ủy ban gửi tới các đại biểu Quốc hội.
Tại kỳ họp này, Ủy ban chúng tôi xin phát biểu một số vấn đề cần được quan tâm và một số kiến nghị cần thiết về văn hóa - thông tin, giáo dục - đào tạo và sự nghiệp chăm lo thế hệ trẻ để Quốc hội xem xét khi quyết định nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1995.
Ủy ban chúng tôi nhất trí với đánh giá về những tiến bộ đã đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ năm 1994 trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng đã nêu trong báo cáo của Chính phủ trình trước Quốc hội. Những chuyển biến, tiến bộ trong năm 1994 về các lĩnh vực này có những mặt khá cơ bản. Quy mô phát triển giáo dục đã vượt qua được giai đoạn giảm sút, bắt đầu đi vào ổn định và phát triển, thể hiện ở các chỉ tiêu: số học sinh các cấp đều tăng, số học sinh bỏ học giảm; chất lượng ở các trường chuyên, lớp chọn ngày càng được nâng cao; số học sinh giỏi ngày càng tăng ở các thành phố và mở rộng ra nhiều tỉnh (năm học vừa qua một số tỉnh miền núi đã có học sinh đoạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc); đội ngũ giáo viên ổn định hơn, giáo viên bỏ nghề giảm đáng kể ở nhiều tỉnh; việc tổ chức học theo hai giai đoạn ở đại học, học theo chứng chỉ từng phần, học bằng đại học thứ hai cho những người đã tốt nghiệp đại học đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho thanh niên nâng cao trình độ, có cơ hội tìm việc làm dễ hơn trong nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang diễn ra sôi động trong cả nước cũng như ở từng địa phương. Những hoạt động văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao đã được triển khai theo hướng vừa nâng cao chất lượng vừa mở rộng phong trào quần chúng. Nhiều hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn trong năm 1994 và chuẩn bị cho năm 1995 đã góp phần làm cho đời sống tinh thần trong xã hội sinh động, phong phú hơn. Việc tăng cường trang thiết bị cho Đài phát thanh, Đài truyền hình Trung ương, các đài địa phương đã cải thiện đáng kể chất lượng phát sóng cũng như mở rộng diện phủ sóng. Những mục tiêu trong chương trình chăm sóc trẻ em đến năm 2000 được triển khai đồng bộ và có kết quả hơn đối với những vấn đề bức xúc như trẻ em suy dinh dưỡng, trẻ em thất học, giúp đỡ trẻ em thiệt thòi… Những nguyên nhân gì đã tạo ra kết quả đáng khích lệ như vậy trong tình hình ngân sách vẫn mất cân đối giữa thu và chi như nhiều năm qua. Trước hết, Ủy ban chúng tôi cho rằng, Nghị quyết 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về văn hóa, giáo dục và công tác thanh niên đã bước đầu đi vào cuộc sống với sự lãnh đạo sát sao của Ban Bí thư, sự kiểm tra, theo dõi của Ban Tư tưởng Văn hóa, Ban Khoa giáo và của các cấp ủy Đảng. Nhiều tỉnh ủy, chẳng những đã ra nghị quyết triển khai việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 mà còn ra các nghị quyết về các vấn đề cụ thể nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quan điểm, trong cơ chế quản lý. Vì vậy, khi về làm việc với tỉnh Bình Định, chúng tôi đánh giá cao việc Thường vụ Tỉnh ủy đã đưa ra hội nghị toàn thể Ban Chấp hành để biểu quyết một việc, đó là giao cho ngành Giáo dục quản lý thống nhất ngân sách và biên chế đội ngũ giáo viên. Sự nhất trí cao của Tỉnh ủy đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh; sự điều hòa, phối hợp giữa các ngành kế hoạch, tài chính, giáo dục với Ủy ban nhân dân cấp huyện; tạo thuận lợi về mặt nhận thức đối với những quy định cụ thể của Ủy ban nhân dân tỉnh. Chính vì vậy mà những vướng mắc trong phân công, phân cấp ở đây đã được giải quyết khá cơ bản, phát huy được đúng chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành. Do đó, hiệu lực điều hành của các cấp chính quyền được tăng cường rõ rệt. Nguyên nhân thứ hai mà Ủy ban chúng tôi ghi nhận trong khi phân tích tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1994 ở các lĩnh vực này là, trong việc xây dựng và điều hành kế hoạch ở tầm vĩ mô của Chính phủ đã có sự cân đối hơn giữa kinh tế và xã hội. Điều này đã được thể hiện rõ trong bố trí ngân sách cho các lĩnh vực văn hóa - xã hội năm 1994 cũng như năm 1995. Tuy so với yêu cầu phát triển thì mức đầu tư còn thấp nhưng hàng năm đều có tăng lên rõ rệt như năm 1995, tốc độ chi ngân sách so với năm 1994 của văn hóa - xã hội trên 127%. Trong tình hình nguồn thu còn nhiều khó khăn, việc bố trí ngân sách như vậy là sự cố gắng của các cơ quan kế hoạch và tài chính đã tìm mọi nguồn để tăng thêm ngân sách cho văn hóa - xã hội theo định hướng của Chính phủ. Thường trực Chính phủ cũng đã dành thời gian trực tiếp làm việc với các tỉnh, các Bộ để kiểm tra, giải quyết những vấn đề đặt ra khi triển khai các chủ trương, biện pháp thực hiện. Tuy các ngành chưa xây dựng xong chiến lược tổng thể cho sự phát triển dài hạn nhưng cũng đã trình ra được với Ban Bí thư, với Chính phủ những vấn đề cơ bản vừa mang tính cấp bách và có tính định hướng lâu dài như: Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa ra những đề án về việc sắp xếp mạng lưới các trường đại học và cao đẳng, về xây dựng đội ngũ giáo viên và các trường sư phạm, về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở ngoài nước trong tình hình mới, v.v.. Bộ Văn hóa - Thông tin đã đưa ra những kiến nghị để giải quyết những vấn đề bức xúc về tăng cường bộ máy quản lý nhà nước đối với sự nghiệp Văn hóa - Thông tin, chính sách đối với các hoạt động nghệ thuật, đối với các doanh nghiệp văn hóa, Ủy ban chúng tôi hoan nghênh các Bộ đã đưa ra để giải quyết từ tầm vĩ mô, tạo điều kiện cho sự điều hành tổ chức thực hiện ở cấp dưới. Ủy ban nhân dân các tỉnh cũng đã ra nhiều quyết định cụ thể nhằm tháo gỡ những khó khăn và tạo ra những điều kiện cho hoạt động văn hóa, giáo dục. Năm 1994, Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ đã quyết định dành 1/4 ngân sách của văn hóa - thông tin để đầu tư cho việc tổ chức hoạt động văn hóa cơ sở; duy trì, củng cố và nâng cao sinh hoạt văn hóa, thông tin ở xã, ấp phong phú, thiết thực hơn. Ở một số tỉnh như Thái Bình, Hà Bắc, Hà Tây…, đã xây dựng được các quy ước về làng văn hóa, nếp sống văn minh, trong đó lấy gia đình làm cơ sở để vận động thực hiện các chỉ tiêu về văn hóa, xã hội, đã có tác dụng củng cố, phát triển trong nhân dân những truyền thống văn hóa tốt đẹp trong quan hệ con người.
Những chủ trương về cải thiện cơ sở hạ tầng như đường giao thông liên huyện, liên xã, xóa bỏ “cầu khỉ”, thanh toán lớp học ca ba đã được thực hiện tương đối tốt trong năm 1994. Việc các địa phương được để lại một phần ngân sách thu vượt để đầu tư cơ sở vật chất cho văn hóa, giáo dục đã có tác dụng động viên các cấp chính quyền huy động mọi nguồn lực để tăng cường cơ sở vật chất cho các lĩnh vực này. Hàng trăm trường cấp I, cấp II kiên cố đã được xây dựng mới trong năm 1994 mà trong đó chủ yếu từ nguồn tài chính huy động được từ cấp xã.
Trong cơ chế kinh tế mới do yêu cầu về hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh phải được giải quyết bằng các công nghệ tiên tiến, bằng người lao động có văn hóa, bằng sự nắm bắt nhanh nhậy các thông tin trên thị trường nên nhân dân đã quan tâm nhiều hơn đến việc học tập và hưởng thụ văn hóa của con em mình. Điều đó đã có tác dụng không nhỏ tới sự nghiệp phát triển văn hóa, giáo dục, cả về phương diện tinh thần cũng như huy động các nguồn lực vật chất cho lĩnh vực này.
Hoạt động của Đoàn Thanh niên cũng đã hướng vào việc tổ chức cho thanh niên thực hiện những chương trình kinh tế - xã hội. Đoàn Thanh niên đã chỉ đạo và điều hành 200 dự án nhỏ, tạo việc làm cho 25.000 lao động trẻ, dạy nghề, giới thiệu việc làm cho 20.000 thanh niên. Trung ương Đoàn thành lập hai khu kinh tế Thanh niên tại Tây Ninh và Tuyên Quang sẽ góp phần định cư 1.220 hộ gia đình trẻ. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, những mô hình tổ chức hướng nghiệp, dạy nghề, giới thiệu việc làm cho thanh niên khá phong phú và có hiệu quả, góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn lượt lao động trẻ của thành phố. Điều đáng ghi nhận ở đây chính là tổ chức Đoàn Thanh niên đã có sự đổi mới trong việc tập hợp thanh niên thông qua những hoạt động thiết thực gắn với quyền lợi cũng như trách nhiệm qua phong trào “thanh niên lập nghiệp”, “tuổi trẻ giữ nước”.
Tuy vậy, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, công tác chăm sóc thế hệ trẻ đang đứng trước những thử thách gay gắt, bởi nếu nhìn ở tầm chiến lược thì việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bắt đầu từ văn hóa, giáo dục, từ việc chuẩn bị cho lớp trẻ hôm nay sẽ là lực lượng lao động cho một Việt Nam cất cánh ở những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI để bắt kịp với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đang diễn ra khá sôi động, phong phú trong đời sống xã hội. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục chưa có khả năng giải quyết được vấn đề chất lượng đại trà, còn không ít khó khăn từ áp lực tăng dân số, từ sự lúng túng trong giải quyết chính sách, trong đổi mới cơ chế quản lý, trong sắp xếp tổ chức, trong tạo nguồn lực. Trên cơ sở những kinh nghiệm của năm 1994, để thực hiện tốt kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1995 trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, chăm sóc thế hệ trẻ, Ủy ban chúng tôi lưu ý và kiến nghị hai vấn đề còn nhiều vướng mắc trong điều hành cần được chú trọng tập trung giải quyết:
Một là, chính sách về nguồn lực:
Nguồn lực cho văn hóa, giáo dục trước hết phải nói đến ngân sách nhà nước cho lĩnh vực này. Ngân sách nhà nước ta thường phải chi chủ yếu cho ba lĩnh vực: đầu tư phát triển, quốc phòng - an ninh, văn hóa - xã hội (năm 1994 cũng như năm 1995 so với tổng ngân sách nhà nước, chi cho văn hóa - xã hội chiếm 28,4%). Xét trên quan điểm hệ thống với một sự nhìn nhận tổng thể thì những lĩnh vực trên đều có liên quan hữu cơ với nhau, lĩnh vực này là tiền đề, là cơ sở cho sự phát triển của lĩnh vực kia. Song, trong từng giai đoạn thì vấn đề nào là cần được ưu tiên hơn để tạo ra những khả năng cho sự phát triển toàn diện của đất nước cho hiện tại và cho mười năm, hai mươi năm sau. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu để có những cơ sở về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm xác định cho được một tỷ lệ hợp lý, có tác dụng nâng cao hiệu quả trong chính sách đầu tư từ ngân sách. Ủy ban chúng tôi cho rằng, giải quyết nguồn lực cho văn hóa, giáo dục không thể chỉ bằng ngân sách nhà nước, nhất là trong tình hình ngân sách còn hạn hẹp. Tuy nhiên, năm qua, chúng ta đã có những biện pháp xã hội hóa hoạt động của các lĩnh vực này, bởi vì chất lượng hoạt động văn hóa - xã hội không thể chỉ được bảo đảm bằng các ngành chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải được bảo đảm bằng sự tham gia của toàn xã hội. Trong những năm gần đây, ngành Giáo dục đã hình thành các loại hình trường như bán công, dân lập, đa dạng hóa các hình thức đào tạo để giải quyết việc học tập cho một số không nhỏ thanh thiếu niên. Đây là một hướng đi đúng đắn. Khi mới tổ chức các loại trường này thường là chỉ thu hút những học sinh không thi đỗ vào trường công, nghĩa là từ nhu cầu số lượng, nhưng vài năm gần đây, do sự vươn lên về mặt chất lượng, nên đã có những học sinh khá thi vào dân lập, bán công. Có những trường đã vươn lên bảo đảm cho học sinh không phải học thêm ngoài việc học ở nhà trường, mà tỷ lệ thi tốt nghiệp và thi vào đại học cũng khá, không thua kém trường công, nên phụ huynh yên tâm và chấp nhận mức học phí cao hơn nhiều so với trường công. Nhận thức của xã hội đã có thay đổi, việc lựa chọn của người dân hiện nay là chất lượng của giáo dục. Ngay như ở cấp tiểu học, không phải chỉ ở Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội mà ở nhiều tỉnh, trong đó có cả thị xã tỉnh miền núi, một số trường tiểu học bán trú được mở với mức thu học phí từ 80.000đ đến 200.000đ/tháng mà vẫn không đủ chỗ để thu nhận học sinh. Số trường bán công, dân lập ở cấp phổ thông đã có tới 230 trường trong năm học 1993 - 1994. Đối với hệ đại học, đã có hàng chục đề án xin thành lập trường đại học dân lập, trong đó đã có những trường đã được Chính phủ ra quyết định thành lập. Chúng tôi nêu những ví dụ trên đây cũng chỉ để xác nhận mặt thực tế đang diễn ra trong một bộ phận dân cư ở mọi miền đất nước đang có khả năng đóng góp cho việc học tập của con em mình, nhưng sự huy động của chúng ta được nhiều hay ít là tùy thuộc vào chất lượng giáo dục của nhà trường. Vì vậy, yêu cầu về tăng cường công tác quản lý nhà nước cũng như tạo điều kiện cho các trường bán công, dân lập là một việc làm hết sức cần thiết bằng những chính sách của Nhà nước để bằng nguồn lực của xã hội giải quyết nhu cầu học tập của nhân dân. Do đó, chúng tôi kiến nghị, trong bố trí, sử dụng ngân sách ở Trung ương cũng như địa phương cho các trường công thì cũng cần dành một tỷ lệ tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện dạy và học ban đầu cho các trường bán công và sớm có quy định về chế độ hưu trí cho các giáo viên dạy ở trường bán công. Đối với trường dân lập thì Nhà nước cần có chính sách giải quyết đất xây dựng, cho vay vốn lãi suất thấp để giúp các trường này có cơ sở vật chất ban đầu, vì khả năng của người học cũng như người dạy chưa thể đóng góp ngay một lúc để xây dựng trường sở. Hiện nay, còn một số trường phổ thông trung học công lập có hệ B. Chúng tôi cho rằng, nếu hệ thống trường bán công, dân lập hoạt động tốt thì không nên để hệ B trong trường công, bởi vì, hệ B chính là một dạng của giáo dục bán công. Đối với những hình thức học tập đại học mở rộng, tại chức, học từ xa, Ủy ban chúng tôi cho rằng đều có thể thực hiện, nhưng mức độ đến đâu phải tùy thuộc vào điều kiện và khả năng quản lý để bảo đảm yêu cầu chất lượng - một yêu cầu không nên nhân nhượng trong hoạt động giáo dục, nhất là ở bậc đại học cũng như trên đại học và về quy mô cũng nên định hướng để có sự đồng bộ với quy mô phát triển học sinh học nghề trên cơ sở yêu cầu về cơ cấu ngành nghề đối với lực lượng lao động xã hội. Trong lĩnh vực văn hóa - thông tin, phát thanh - truyền hình cũng có những vấn đề tương tự như trong giáo dục, như tiền thu từ quảng cáo, việc đưa các đoàn nghệ thuật đi nước ngoài bằng con đường của các công ty dịch vụ, sự xuống cấp nghiêm trọng của các đơn vị sản xuất, kinh doanh sau khi được thành lập theo Quyết định 388 trong ngành Văn hóa cần được giải quyết, đều có liên quan đến những giải pháp về nguồn lực cho những lĩnh vực này, tăng thu ở đâu và tăng chi ở chỗ nào cần được xem xét kỹ lưỡng. Từ những vấn đề đã trình bày trên đây, Ủy ban chúng tôi đề nghị Chính phủ cần có sự nghiên cứu một cách cơ bản về vấn đề kinh tế trong văn hóa, giáo dục, từ đó, định ra một hệ thống chính sách và cơ chế quản lý phù hợp cho từng loại hình hoạt động để có thể tăng nguồn thu từ xã hội một cách trật tự, kỷ cương, bảo đảm được quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng con người, không nên để việc vận dụng thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” tùy tiện như hiện nay ở một số nơi, mà cử tri đang có ý kiến, khi các thành viên của Ủy ban đi tiếp xúc. Cũng có thể nghiên cứu sự đóng góp của các đơn vị kinh tế qua giá cả hàng hóa, từ nguồn lợi tức như nhiều nước đã làm để tăng nguồn lực cho văn hóa - xã hội. Đề nghị Chính phủ dành chủ yếu nguồn thu từ xổ số để đầu tư cho cơ sở hạ tầng của xã hội.
Hai là:
Chúng tôi muốn đề cập vấn đề quản lý nhà nước có liên quan tới việc huy động và sử dụng nguồn lực trong lĩnh vực văn hóa - xã hội. Một khi nền kinh tế đã chuyển hướng, cơ chế quản lý kinh tế đã thay đổi thì công tác quản lý, bố trí lực lượng trong các lĩnh vực hoạt động văn hóa - xã hội cũng phải được đổi mới. Mấy năm gần đây bên cạnh việc chỉ đạo, điều hành đổi mới kinh tế, Chính phủ đã từng bước quan tâm đổi mới hoạt động các lĩnh vực văn hóa - xã hội. Tuy nhiên, một số vấn đề về quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục đang đòi hỏi một sự giải đáp thỏa đáng. Chúng tôi xin đơn cử một việc về quản lý ngân sách của các ngành văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, thể dục, thể thao, hiện nay từ Trung ương được chia theo hai hướng: các Bộ quản lý ngân sách của các đơn vị trực thuộc Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh quản lý ngân sách văn hóa, giáo dục của địa phương, như đối với giáo dục khi về đến tỉnh thì sự phân công, phân cấp giữa ngành Tài chính, ngành Giáo dục và Ủy ban nhân dân các quận, huyện đang rất khác nhau: ở một số tỉnh, Ủy ban nhân dân giao cho Sở Giáo dục - Đào tạo quản lý ngân sách sự nghiệp và cả xây dựng cơ bản cũng như biên chế đội ngũ giáo viên các cấp học; một số nơi Sở Giáo dục quản lý ngân sách sự nghiệp về giáo dục còn ngân sách sự nghiệp về đào tạo và xây dựng cơ bản do Ủy ban nhân dân tỉnh trực tiếp điều hành thông qua Sở Tài chính; một số tỉnh vẫn giao cho Sở Giáo dục trực tiếp quản lý ngân sách sự nghiệp của các trường cấp III, còn cấp II và tiểu học, mẫu giáo, nhà trẻ thì do Ủy ban nhân dân huyện quản lý. Tình hình trên đã diễn ra từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII, văn bản hướng dẫn liên ngành cũng đã có, nhưng việc thực hiện vẫn đang rất khác nhau ở các địa phương. Chúng tôi nghĩ việc tổng kết để xác định một cơ chế phân công, phân cấp quản lý ngân sách phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, từng cấp, nhất là tạo được quyền tự chủ cho cơ sở và sự công khai dân chủ trong phân bổ và cấp phát ngân sách từ trên xuống dưới sẽ có tác dụng nâng cao hiệu quả đầu tư cũng là việc làm mà Chính phủ nên thống nhất điều hành trong cả nước.
Về hệ thống tổ chức và biên chế cán bộ của ngành Văn hóa - Thông tin hiện nay cũng đang rất khác nhau ở cấp huyện và cơ sở, có nơi có phòng văn hóa - thông tin, có nơi là phòng văn hóa thể dục - thể thao, có nơi bố trí một vài cán bộ trong Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện. Về trình độ cán bộ hoạt động trong ngành Văn hóa thì tỷ lệ cán bộ không được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ còn khá cao, trong khi tình hình văn hóa diễn ra sôi động và phức tạp trong đời sống xã hội. Sự kém hiệu lực trong quản lý thị trường văn hóa ở nhiều nơi hiện nay có nguyên nhân từ công tác tổ chức và cán bộ. Về văn hóa đối ngoại, năm qua, có hàng trăm lượt đoàn ra, đoàn vào giữa nước ta và các nước cũng rất phức tạp, nhưng công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này còn lúng túng, bị động. Thế giới hiểu về con người, đất nước Việt Nam thông qua tiếng nói của người nước ngoài nhiều hơn là từ sự chủ động của chúng ta. Việc loại bỏ văn hóa phẩm có nội dung bạo lực, đồi trụy, không lành mạnh, đang lưu hành trên thị trường hầu như không giải quyết được bao nhiêu. Chúng ta đang phải chi hàng trăm tỷ đồng cho việc khắc phục các tệ nạn xã hội mà trong đó có nguyên nhân và ảnh hưởng của văn hóa phẩm xấu đang hàng ngày, hàng giờ tác động vào lối sống của lớp trẻ và cả người lớn tuổi.
Vấn đề cán bộ văn hóa - thông tin ở cấp phường, xã cũng được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp vào loại cấp bách. Hiện nay, trong lĩnh vực văn hóa - xã hội thì cơ sở (xã, phường) được coi là một địa bàn quan trọng nhằm triển khai những vấn đề của ngành đến từng gia đình, từng người dân. Cũng vì vậy mà một số ngành đã quan tâm đến cán bộ cơ sở bằng hình thức trả một định suất khoảng từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng từ nguồn kinh phí của các chương trình như dân số, kế hoạch hóa gia đình, tiêm chủng mở rộng, còn văn hóa - thông tin thì mới làm thí điểm ở một số xã. Một số hoạt động khác như huy động trẻ em vào cấp I, xóa mù chữ, vận động nuôi dạy con theo khoa học để chống suy dinh dưỡng, xây dựng gia đình văn hóa, lối sống lành mạnh để phòng ngừa tệ nạn xã hội đều được tổ chức triển khai tại cơ sở. Nếu mỗi ngành lại bố trí một định suất cho từng công việc thì sẽ cần bao nhiêu suất và cuối cùng những định suất đó cũng từ ngân sách nhà nước. Có một loại ý kiến cho rằng, nên chăng mỗi xã cần bố trí một cán bộ chuyên trách hoạt động về các lĩnh vực văn hóa - xã hội, được đào tạo, bồi dưỡng theo chuyên môn rộng, bao gồm những kiến thức cơ sở của các lĩnh vực văn hóa - xã hội, kể cả kiến thức về vận động nhân dân và được trả thù lao thỏa đáng, nghĩa là hình thành một loại cán bộ hoạt động xã hội ở cơ sở biết tập hợp, tổ chức mạng lưới cộng tác viên đến từng thôn, ấp, bản, làng để triển khai các hoạt động này nhằm thực hiện việc xã hội hóa các hoạt động văn hóa - xã hội một cách có bài bản và có chiều sâu. Đó là ý kiến rất đáng được xem xét, Ủy ban chúng tôi đề nghị Chính phủ, trong năm 1995, sớm có những quyết định thống nhất trên cả nước về những loại công việc thuộc về công tác quản lý nhà nước, như một số dẫn chứng nêu trên đã diễn ra trong nhiều năm nhưng chưa được khắc phục để góp phần tăng cường hiệu lực điều hành và tổ chức thực hiện của các cấp chính quyền khi triển khai các chủ trương của Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở.
Ngoài hai vấn đề trên đây, khi thảo luận về các chỉ tiêu văn hóa - xã hội năm 1995, Ủy ban chúng tôi thấy cần phải đề cập mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học trong năm 1995 - 1996 là: 1/3 số tỉnh, 2/3 số huyện và 3/4 số xã, phường đạt tiểu chuẩn quốc gia, như trong báo cáo của Chính phủ. Mục tiêu này không cao so với kế hoạch, sẽ hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000, nhưng rất khó thực hiện trong tình hình hiện nay. Trong 4 năm qua mới chỉ công nhận thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học được 1/6 số tỉnh, 1/4 số huyện và 1/3 số xã. Số còn lại tập trung ở những vùng khó khăn (vùng sâu, vùng xa ở đồng bằng sông Cửu Long, ở Tây Nguyên, ở vùng núi phía Bắc và các tỉnh miền Trung) nơi cơ sở hạ tầng yếu kém, tỷ lệ sinh đẻ còn cao, đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (cả nước còn thiếu trên 60.000 giáo viên, hơn 60% chưa đạt chuẩn). Cơ chế chính sách để huy động mọi lực lượng xã hội tham gia thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ cũng chưa được giải quyết; việc lập quỹ quốc gia hỗ trợ cho kinh phí sự nghiệp phổ cập giáo dục tiểu học vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành. Trong khi thực hiện Luật phổ cập giáo dục tiểu học có một vấn đề đang đặt ra mà ý kiến còn khác nhau là có cho tổ chức trường, lớp bán công, dân lập cấp tiểu học? Điều đó có trái với quy định của Luật là trẻ em đi học tiểu học không phải đóng học phí không? Ủy ban chúng tôi cho rằng, Nhà nước cần phải bảo đảm việc tiếp nhận tất cả các trẻ em trong độ tuổi đi học để hoàn thành trình độ tiểu học thì việc cho mở trường lớp bán công, dân lập để nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các tầng lớp dân cư không có gì trái với quy định của Luật, bởi vì việc lựa chọn cho con em học trường công để không phải đóng học phí, hay đi học trường lớp dân lập mà phải đóng học phí nhưng đáp ứng được yêu cầu của từng gia đình thì đó là quyền lựa chọn của người dân. Để thực hiện mục tiêu trên đây, Chính phủ phải có những quyết sách đủ mạnh và tập trung chỉ đạo rất quyết liệt và đồng bộ để giải quyết những khó khăn, vướng mắc hiện nay về những điều kiện cho giáo dục tiểu học, cũng như phải tổ chức nhiều hình thức học tập và tăng cường công tác tuyên truyền, vận động để huy động được sức mạnh tinh thần và vật chất của toàn xã hội để mọi ngành, mọi nhà, mọi người đều quan tâm chăm lo cho trẻ em đi học, chăm lo đến việc hoàn thành kế hoạch phổ cập giáo dục tiểu học thì mới có thể đạt được chỉ tiêu mà Chính phủ đã đưa ra, bởi vì, cùng với sự đáp ứng về những điều kiện vật chất, yếu tố tinh thần (sự giác ngộ của từng người dân, của toàn xã hội trong việc chăm sóc cho thế hệ trẻ) có ý nghĩa quyết định thành công trong lĩnh vực này. Vì vậy, Ủy ban chúng tôi đề nghị Chính phủ cần báo cáo cụ thể hơn về khả năng và điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu mà Chính phủ đã đề ra về phổ cập giáo dục tiểu học năm học 1995 - 1996 để các đại biểu Quốc hội có cơ sở khi biểu quyết các mục tiêu này.
Kính thưa Quốc hội,
Ủy ban chúng tôi cho rằng, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, chăm lo cho thanh thiếu niên ở tầm vĩ mô là việc hoạch định những chính sách, cung cấp những nguồn lực, xây dựng bộ máy quản lý, điều hành, xác định các chương trình hành động quốc gia để phấn đấu đạt các mục tiêu đã định. Còn ở tầm vi mô, sự nghiệp này phải được triển khai ở từng gia đình, ở từng cộng đồng dân cư, trong đó gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng vì gia đình là nơi sinh ra, lớn lên của mọi con người, nơi con người được nuôi dưỡng để hình thành nhân cách, đạo lý làm người, nơi tiếp thụ truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc. Vì gia đình là tế bào của xã hội nên mọi nhiệm vụ, mọi mục tiêu của xã hội cuối cùng lại được thực hiện ở từng gia đình. Gia đình bền vững, hạnh phúc là viên gạch tốt, xây dựng nên một xã hội tốt đẹp. Ủy ban chúng tôi cho rằng, các mục tiêu từ kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em, xây dựng chuẩn mực đạo lý, pháp luật, phổ cập giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước, phòng chống tệ nạn xã hội, v.v., sẽ đạt được kết quả cao, khi trở thành mục tiêu của từng gia đình và được gia đình tự giác thực hiện chính là yếu tố quan trọng để xã hội hóa hoạt động văn hóa - xã hội, tạo môi trường xã hội lành mạnh cho sự phát triển của thế hệ trẻ. Trong sự nghiệp đổi mới cơ chế kinh tế, sự giao lưu văn hóa rộng rãi với các nước, gia đình Việt Nam đang có những chuyển động tích cực như chủ động vươn lên hơn, năng động hơn, phát huy được nguồn lực tiềm tàng lâu nay. Song, tình trạng thiếu gương mẫu của cha mẹ, gia đình lủng củng, thậm chí tan vỡ đã làm cho trẻ em thất vọng, chán nản, đi đến chỗ hư hỏng đang diễn ra gay gắt, nhất là ở đô thị. Vì vậy, nhân “Năm quốc tế gia đình”, chúng tôi đề nghị, chúng ta hãy khởi đầu cho một thập kỷ gia đình Việt Nam, đặc biệt tập trung vào giai đoạn từ nay đến năm 2000, để chuẩn bị đi vào thế kỷ thứ XXI, Chính phủ nên xây dựng một chương trình quốc gia nhằm hoạch định những chính sách, xác định những nội dung, phương thức tác động để phát huy vai trò của gia đình và đưa vào kế hoạch kinh tế - xã hội, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Củng cố gia đình là củng cố hạt nhân của xã hội. Gia đình tốt đẹp có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”.
Trên đây là những vấn đề mà Ủy ban chúng tôi thấy cần thiết báo cáo trước Quốc hội để các vị đại biểu xem xét khi thảo luận và quyết nghị về nhiệm vụ năm 1995.
Xin cảm ơn các vị đại biểu.
Lưu tại Phòng Lưu trữ
Văn phòng Quốc hội