BÁO CÁO CỦA
ỦY BAN KINH TẾ
VÀ NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI
VỀ MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ BỔ SUNG
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KINH TẾ VÀ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1996
VÀ CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
KINH TẾ VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1997
(Do ông Lý Tài Luận, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế và ngân sách
của Quốc hội đọc tại kỳ họp thứ 11,
Quốc hội khoá IX, ngày 02-4-1997)
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Ngay sau kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa IX, Ủy ban kinh tế và ngân sách của
Quốc hội đã tổ chức thẩm tra phương án phân bổ ngân sách nhà nước năm 1997
cho các Bộ, ngành và các địa phương do Chính phủ trình để báo cáo Ủy ban
thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định; Thường trực Ủy ban đã tổ chức giám
sát việc đánh giá lại tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế và ngân sách năm
1996, việc phân giao kế hoạch và việc triển khai thực hiện nhiệm vụ kinh tế
và ngân sách nhà nước năm 1997 ở một số Bộ, ngành và địa phương.
Từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 3 năm 1997, Ủy ban kinh tế và ngân sách của
Quốc hội đã tổ chức họp toàn thể Ủy ban tại thành phố Nha Trang (tỉnh Khánh
Hòa), có đại diện Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Ban Kinh tế
Trung ương, Ban Vật giá Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ
và một số cơ quan hữu quan dự để nghe đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính thay mặt Chính phủ trình bày báo cáo bổ sung về tình hình thực hiện
nhiệm vụ kinh tế và ngân sách nhà nước năm 1996 và việc triển khai thực hiện
nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế và dự toán ngân sách nhà nước
năm 1997.
Trên cơ sở các báo cáo của Chính phủ, qua việc giám sát thực tế và ý kiến
của các đại biểu dự họp, Ủy ban kinh tế và ngân sách xin trình Quốc hội một
số ý kiến như sau:
I-
VỀ ĐÁNH GIÁ BỔ SUNG TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KINH TẾ VÀ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
NĂM 1996
Ủy ban kinh tế và ngân sách cơ bản nhất trí với báo cáo bổ sung của Chính
phủ về tình hình thực hiện các nhiệm vụ năm 1996. Hầu hết các mục tiêu và
chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra như đã ước tính trong báo
cáo của Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10 năm 1996) và
báo cáo bổ sung của Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp lần này về tình hình
và mức độ thực hiện về sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xuất nhập khẩu, về
kiềm chế lạm phát, xây dựng cơ bản và thu chi ngân sách nhà nước, trong đó
một số chỉ tiêu đạt cao hơn mức ước tính đã báo cáo Quốc hội, tuy báo cáo
chưa đi sâu phân tích về chất lượng, hiệu quả và làm rõ nguyên nhân. Ủy ban
chúng tôi thấy có một số vấn đề nổi lên cần quan tâm:
- Sản xuất nông nghiệp
vẫn tiếp tục phát triển, mặc dù thiên tai liên tiếp xảy ra ở nhiều địa
phương, gây thiệt hại nặng nề về người và của, nhưng sản lượng lương thực cả
năm 1996 đã đạt trên 29 triệu tấn, tăng hơn 1,5 triệu tấn so với năm 1995 và
tăng trên nửa triệu tấn so với số ước tính đã báo cáo Quốc hội tháng 10 năm
1996. Tuy trong mấy tháng cuối năm, Chính phủ đã cho xuất khẩu thêm hơn nửa
triệu tấn gạo, có làm cho giá lúa được nâng lên, nhưng hiện nay vẫn còn tình
trạng thóc hàng hóa tồn đọng trong dân khá lớn, khó tiêu thụ nhất là vùng
đồng bằng sông Cửu Long và giá nông sản thấp chưa phục hồi bằng mức giá cũ
vẫn đang là vấn đề nan giải, gây không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống
của nông dân. Mặt khác, tuy Chính phủ đã có chính sách trợ giá đối với các
Tổng công ty lương thực để nâng giá mua lúa cho nông dân nhưng do cách tổ
chức chưa hợp lý và việc kiểm soát chưa chặt chẽ nên người nông dân ít được
hưởng trực tiếp phần trợ giá này.
- Sản xuất công nghiệp,
mặc dù có dấu hiệu chững lại trong những tháng giữa năm, nhưng tính chung cả
năm 1996 tốc độ tăng trưởng vẫn đạt được 14,1% (trong báo cáo trình Quốc hội
tháng 10-1996 ước tính 14%). Tuy nhiên, sản xuất trong khu vực doanh nghiệp
nhà nước có xu hướng tăng chậm lại, có nhiều xí nghiệp bị lỗ nhất là các xí
nghiệp quốc doanh địa phương, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường trong và ngoài nước còn thấp, nhất là các sản phẩm có tỷ trọng lớn
như lắp ráp điện tử, sản xuất thiết bị điện, dệt... đặc biệt là ngành cơ khí
vẫn còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, việc sắp xếp và tổ chức lại doanh
nghiệp nhà nước, nhất là việc cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước
tiến triển rất chậm và chưa có chủ trương nhất quán về bước đi, cách làm
cùng những biện pháp cụ thể phù hợp với từng ngành hàng và mỗi loại hình
doanh nghiệp.
- Hoạt động xuất nhập khẩu,
có tốc độ phát triển khá nhanh. Kim ngạch xuất khẩu năm 1996 đạt 7.256 triệu
USD, tăng 32,2%, trong đó chủ yếu là tăng xuất khẩu hàng nông - lâm - hải
sản, công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Kim ngạch nhập khẩu đạt 11.144
triệu USD, tăng 36,6% so với năm 1995.
Điều đáng quan tâm là tuy số nhập siêu có giảm chút ít so với số ước tính
trình Quốc hội tháng 10 năm 1996, nhưng vẫn còn ở mức cao (3,9 tỷ USD, chưa
tính giá trị hàng nhập lậu), bằng 53,5% kim ngạch xuất khẩu và bằng 16% GDP.
Mặc dù trong cơ cấu nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị, vật tư phục vụ
cho sản xuất, xây dựng kể cả cho các dự án đầu tư nước ngoài; hàng tiêu dùng
chiếm tỷ trọng hơn 8%; nhưng có điều chưa hợp lý là trong khi Nhà nước cho
xây dựng một số nhà máy lắp ráp ô tô, xe máy mà vẫn còn nhập nhiều ô tô con,
xe máy các loại. Mặt khác, trong điều hành xuất nhập khẩu các ngành hữu quan
thiếu phối hợp kết hợp chặt chẽ trong việc tính toán, dự báo cung - cầu và
sản xuất trong nước đối với từng mặt hàng cụ thể chưa sát thực tế, nhất là
những mặt hàng trong nước đã sản xuất được với chất lượng bảo đảm và giá cả
hợp lý; công tác chống buôn lậu tuy có tập trung chỉ đạo nhưng chưa đạt kết
quả đáng kể, tình trạng nhập lậu còn diễn ra nghiêm trọng (rượu, thuốc lá,
xe đạp...), gây bất lợi cho sản xuất lưu thông và giá cả thị trường. Nếu
Chính phủ không có các giải pháp tích cực, hữu hiệu để hạn chế và khắc phục
tình trạng trên thì chẳng những gây ảnh hưởng lớn đến nhịp độ tăng trưởng
kinh tế mà còn tác động không tốt đến tình hình kinh tế - xã hội trước mắt
cũng như lâu dài.
- Về giá cả hàng hóa và kiềm chế lạm phát:
Do tình hình sản xuất phát triển, hàng hóa tương đối phong phú (kể cả hàng
nhập lậu), Chính phủ đã tích cực chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp kiềm chế
lạm phát nên cả năm 1996 giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng 4,5% so
với tháng 12 năm 1995 (trong báo cáo trình Quốc hội tháng 10 năm 1996 ước
tính khoảng 6-7%) và là mức tăng thấp nhất kể từ khi thực hiện công cuộc đổi
mới đến nay. Tuy nhiên, trong quá trình điều hành ổn định giá cả và kiềm chế
lạm phát có những điểm đáng lưu ý: Tuy chỉ số giá cả tăng chung ở mức 4,5%
như trên, nhưng giá những mặt hàng công nghiệp tiêu dùng và lương thực không
tăng, hoặc tăng ở mức thấp, thậm chí giảm so với năm 1995 (giá lương thực
tăng 0,2%, đồ dùng gia đình tăng 1,2%, dược phẩm giảm 0,2%, vật liệu xây
dựng giảm 3,7%...); còn giá một số mặt hàng lại tăng khá cao (như giá điện
tăng 6,7%, giá xăng dầu tăng 22,8%...). Mặt khác do sức mua của dân có giảm,
nhất là nông dân; một số loại vật tư hàng hóa còn tồn kho ứ đọng khá lớn
(như sắt thép; giấy...). Điều này gây khó khăn cho sản xuất và có ảnh hưởng
nhất định đến đời sống và tâm lý xã hội.
Ủy ban chúng tôi cho rằng, việc tiếp tục giữ ổn định giá cả và kiềm chế lạm
phát ở mức hợp lý (tương ứng với mức tăng trưởng GDP) là hết sức cần thiết,
không những tạo thuận lợi cho việc khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất
mà còn góp phần ổn định đời sống các tầng lớp dân cư, nhất là đời sống của
người về hưu, các gia đình nghèo và bộ phận viên chức nhà nước thuộc khu vực
hành chính sự nghiệp có thu nhập thấp. Bên cạnh đó, để tăng sức mua trong
dân, cần có các biện pháp tích cực để nâng dần giá nông sản, đặc biệt là giá
lương thực. Đối với một số mặt hàng quan trọng do Nhà nước định giá (như
xăng dầu, điện...), việc điều chỉnh tăng giá phải cân nhắc thận trọng với
bước đi thích hợp đặt trong mặt bằng chung của nền kinh tế để không gây tác
động xấu đến sản xuất và đời sống.
- Hoạt động của các ngân hàng thương mại:
đã có nhiều cố gắng đóng góp trong việc thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát
triển. Tuy nhiên, có một số vấn đề cần quan tâm như tình hình các ngân hàng
nhận bảo lãnh và quản lý việc vay trả chậm còn nhiều sơ hở; công tác kiểm
tra, kiểm soát tín dụng thiếu chặt chẽ; việc hạch toán kế toán và thực hiện
chế độ tài chính chưa tốt nên đã gây thất thoát lớn. Tỷ lệ dư nợ quá hạn còn
ở mức cao và đang có chiều hướng tăng hơn đầu năm 1996.
- Về đầu tư xây dựng cơ bản:
tập trung của Nhà nước đánh giá chung cả năm vẫn đạt kế hoạch nhưng theo báo
cáo của Bộ Tài chính (Tổng cục Đầu tư và Phát triển) đến 31-12-1996, về phần
vốn trong nước do các Bộ, ngành Trung ương và địa phương quản lý thì khối
lượng đã thực hiện khoản 5.300 tỷ đồng, đạt 82% kế hoạch năm và vốn cấp phát
thanh toán khoảng 5.004 tỷ đồng, đạt 94,4% khối lượng thực hiện. Phần vốn
nước ngoài của các dự án đầu tư thực rút mới được 2.050 tỷ đồng, chỉ đạt
54,7% kế hoạch năm.
Tình hình trên là do trong năm 1996 việc giao kế hoạch đến các Bộ, địa
phương cũng như việc triển khai phân giao kế hoạch đến cơ sở quá chậm (thậm
chí, đến 15 tháng 11 năm 1996, Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn còn thông báo bổ
sung kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1996 cho các Bộ, địa phương).
Do vậy, tuy ngành Tài chính (Tổng cục Đầu tư và Phát triển) đã có nhiều cố
gắng nhưng vẫn phải kéo dài việc cấp phát thanh toán khối lượng thực hiện
theo kế hoạch năm 1996 sang năm 1997 (khoảng 1.200 tỷ đồng). Việc rút vốn
ngoài nước đạt quá thấp, chủ yếu là do công tác chuẩn bị dự án, giải phóng
mặt bằng, các thủ tục rút vốn còn nhiều vướng mắc và tiến triển quá chậm. Ủy
ban chúng tôi thấy rằng, đây là những vấn đề cần rút kinh nghiệm và sớm khắc
phục trong việc điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản ngay trong năm
1997, tránh bị động về vốn cấp phát, gây lãng phí, thất thoát và khó khăn
cho việc quyết toán ngân sách.
Việc triển khai kế hoạch tín dụng đầu tư của Nhà nước năm 1996 cũng còn rất
chậm: cho đến tháng 5 năm 1996 mới thông báo kế hoạch vốn đợt 1 và đến gần
cuối năm mới có thông báo bổ sung kế hoạch tín dụng. Theo báo cáo của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, đến hết năm 1996, các Bộ và địa phương đã ký kết hợp đồng
cho vay được khoảng 6.000 tỷ đồng như mức dự tính kế hoạch (vốn trong nước
3.859 tỷ đồng và từ nguồn vốn ODA cho vay lại 200 triệu USD) nhưng cũng chỉ
đáp ứng được khoảng 1/3 nhu cầu.
Vấn đề nổi lên đáng quan tâm là kể cả vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung
cũng như vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, trong điều kiện nguồn vốn còn hạn
hẹp mà bố trí danh mục các dự án, công trình quá phân tán, dàn trải và phân
giao kế hoạch hằng năm lại quá chậm nên đã phát sinh tình trạng thi công kéo
dài, công trình dở dang ngày càng tăng, gây lãng phí, thất thoát lớn, hoặc
có hiện tượng kế hoạch bố trí vốn hằng năm thì ít, nhưng thực tế công trình
vẫn được thi công với khối lượng vượt kế hoạch khá lớn (giao thông, thủy
lợi, điện...), đã gây tình trạng nợ nần lẫn nhau kéo dài và ngày càng tăng,
rất khó xử lý, gây bị động cho ngân sách. Ủy ban chúng tôi đề nghị Chính phủ
quan tâm chỉ đạo tìm biện pháp tích cực khắc phục tình trạng này trong năm
1997.
-Về ngân sách nhà nước:
Đến nay, theo báo cáo bổ sung của Chính phủ, tổng thu và tổng chi ngân sách
nhà nước năm 1996 đều tăng 2.060 tỷ đồng so với ước tính báo cáo Quốc hội
tháng 10-1996 (nếu loại trừ các khoản ghi thu ghi chi ngoài dự toán đầu năm
thì thực chất chỉ tăng 150 tỷ đồng).
Nhìn chung, tình hình ngân sách nhà nước năm 1996 vẫn luôn trong tình trạng
khó khăn và bị động. Điều đáng quan tâm là thuế xuất nhập khẩu và thuế công
thương nghiệp ngoài quốc doanh luôn bị hụt thu so với kế hoạch (năm 1996,
thu thuế xuất nhập khẩu chỉ đạt 83,5%, thuế công thương nghiệp ngoài quốc
doanh đạt 90,9% dự toán cả năm). Đây là vấn đề cần phân tích xác định rõ đâu
là do việc tính toán xây dựng kế hoạch không sát, đâu là do nguyên nhân chủ
quan gây thất thu lớn để có biện pháp khắc phục nhằm bảo đảm hoàn thành
nhiệm vụ được giao năm 1997 và tạo cơ sở xây dựng kế hoạch năm 1998 vững
chắc hơn. Ngân sách nhà nước năm 1996 tuy vẫn giữ được mức bội chi Quốc hội
cho phép (8.400 tỷ đồng) nhưng do vay nước ngoài đạt thấp (64,6%) nhất là
việc giải ngân theo các dự án ODA chậm, để bảo đảm vốn cấp phát đầu tư xây
dựng cơ bản nên còn phải tiếp tục vay Quỹ bảo hiểm xã hội và tồn ngân Kho
bạc Nhà nước 1.664 tỷ đồng - đây sẽ là gánh nặng cho năm sau.
II-
VỀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KINH TẾ VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1997 THEO
NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI
Sau kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa IX, Chính phủ đã khẩn trương rà soát và
giao kế hoạch sớm ngay từ đầu năm cho các Bộ, ngành và các địa phương. Nhìn
chung, qua 3 tháng đầu năm 1997, tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục
có chuyển biến tích cực, kinh tế vẫn tăng trưởng khá, giá cả thị trường
tương đối ổn định, chỉ số tăng giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ở mức 2,1%,
thấp nhất so với cùng kỳ nhiều năm trước đây. Đời sống nhân dân nhìn chung
được ổn định, tuy một bộ phận nông dân, gia đình thuộc diện chính sách, đồng
bào vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều khó khăn. Thu chi ngân
sách có nhiều cố gắng, tuy hai tháng đầu năm thu đạt quá thấp nhưng cuối
tháng 2 và tháng 3 có đẩy lên, nên kết quả số thu 3 tháng đầu năm ước đạt
19,1% kế hoạch cả năm (cùng kỳ năm trước đạt 18,2%); vẫn bảo đảm cấp phát
được kịp thời các khoản chi thường xuyên cần thiết, còn các khoản chi về đầu
tư xây dựng cơ bản, các dự án chương trình mục tiêu quốc gia, bù trượt giá
một bước 20% tiền lương, trợ cấp... hoặc chưa thực hiện hoặc tiến độ cấp
phát chậm. Tuy nhiên, mức thiếu hụt ngân sách trong trong quý I-1997 cũng đã
tới 1.900 tỷ đồng, bằng 16,2% mức cả năm Quốc hội cho phép.
Ủy ban chúng tôi cơ bản tán thành với các nhiệm vụ và giải pháp đã nêu trong
báo cáo bổ sung của Chính phủ và xin lưu ý một số vấn đề:
1- Xúc tiến khẩn trương việc quy hoạch phát triển các ngành kinh tế - kỹ
thuật cụ thể gắn với quy hoạch phát triển các vùng kinh tế, các khu vực kinh
tế trọng điểm, các địa phương trong cả nước phù hợp với kế hoạch định hướng
đến năm 2020 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000 theo
nghị quyết của Đảng và nghị quyết của Quốc hội đã khẳng định.
Tiếp tục xem xét, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng chuyển mạnh sang sản
xuất hàng xuất khẩu thông qua việc áp dụng các biện pháp đầu tư thích đáng
cho các cơ sở sản xuất, chú trọng phát triển các mặt hàng xuất khẩu truyền
thống, sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu trong nước. Soát xét lại các
mục tiêu, các công trình trọng điểm để có những điều chỉnh phù hợp với tình
hình phát triển của đất nước theo xu thế hợp tác khu vực và quốc tế.
Tiếp tục triển khai đồng bộ chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Gắn nông nghiệp với công nghiệp
nhằm khai thác thế mạnh về nguồn nguyên liệu, tạo việc làm, tăng thu nhập,
nâng cao giá trị hàng xuất khẩu. Chú ý hơn nữa việc tổ chức thu mua nông sản
hàng hóa của nông dân; nghiên cứu xây dựng cơ chế bảo hiểm đối với một số
cây chủ lực trong nông nghiệp, xây dựng hệ thống giao thông nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, vùng núi cao, góp phần phát triển kinh tế, phân bố lại lao
động, dân cư.
2- Tiếp tục sắp xếp và tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước, có giải pháp
cụ thể triển khai ngay trong năm 1997 việc cổ phần hóa một bộ phận doanh
nghiệp nhà nước, đồng thời, mở rộng các hình thức liên doanh trong và ngoài
nước. Tích cực xúc tiến việc thanh toán công nợ giai đoạn II. Rút kinh
nghiệm về mô hình tổ chức và hoạt động của các Tổng công ty, kể cả mối quan
hệ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa Hội đồng quản trị và Tổng giám
đốc; đồng thời tiếp tục hoàn chỉnh các cơ chế, chính sách nhằm giúp các Tổng
công ty ổn định phát triển vững chắc.
3- Rà soát và sắp xếp lại các công trình đầu tư trọng điểm thuộc những ngành
kinh tế mũi nhọn, kể cả các công trình thuộc nguồn vốn tín dụng, để tập
trung vốn đầu tư, sớm phát huy hiệu quả. Kiên quyết khắc phục việc bố trí
công trình mới khi chưa có nguồn vốn hoặc chưa tạo được vùng nguyên liệu bảo
đảm; xem xét có thể đình chỉ hoặc tạm hoãn một số công trình chưa thật cấp
thiết. Vốn đầu tư phát triển phải được quan tâm trong quá trình điều hành
ngân sách nhà nước, bảo đảm việc cấp phát vốn kịp thời, đúng tiến độ, tránh
để dồn vào cuối năm. Đồng thời, sớm nghiên cứu cải tiến cơ chế quản lý, kể
cả chế độ đấu thầu chặt chẽ, tránh cho được sự lãng phí, thất thoát lớn hiện
nay.
Đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo các ngành, các cấp tiến hành kiểm tra,
tổng hợp xác định chính xác số liệu về tình hình thực hiện khối lượng đầu tư
xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn tín dụng đầu tư
của Nhà nước đến năm 1996, để có sự phân loại cụ thể và hướng dẫn xử lý
thích hợp, có giải pháp tích cực tìm nguồn giải quyết thanh toán trong năm
1997 và không để tình trạng này lặp lại trong những năm sau. Trong quá trình
xử lý tồn tại năm 1996 và bảo đảm nhiệm vụ xây dựng cơ bản năm 1997, cần có
sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, nhất là kế hoạch - đầu tư, tài chính và
ngân hàng để tránh ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ và cân đối ngân
sách nhà nước năm 1997.
Mặt khác, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan hữu quan hàng năm cần có
biện pháp theo dõi sát sao, tổng hợp và đánh giá đầy đủ số công trình đã
hoàn thành đưa vào sử dụng và năng lực sản xuất mới tăng thêm trong năm, để
từ đó xác định rõ hiệu quả vốn đầu tư trong thực tế. Ủy ban chúng tôi đề
nghị có sự rà soát lại các công trình chuyển tiếp sang năm 1997, cần ưu tiên
bố trí vốn cho những công trình xét thấy thật sự có hiệu quả, có khả năng
bảo đảm tiến độ hoàn thành dứt điểm trong năm; việc bố trí danh mục công
trình mới khởi công năm 1997 cần tập trung, bảo đảm đúng đối tượng đã được
quy định, tránh dàn trải, nhất là các công trình thuộc nhóm B và C, nhằm sớm
phát huy hiệu quả, hạn chế tối đa lãng phí, thất thoát.
4- Kế hoạch thu ngân sách nhà nước năm 1997 là 67.120 tỷ đồng, tăng 6,48% so
với số thu thực tế năm 1996. Đây là tốc độ tăng thu ngân sách thấp nhất
trong mấy năm gần đây. Tuy nhiên, để thực hiện được chỉ tiêu này mà biện
pháp cơ bản là phải trên cơ sở thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển,
phải có sự quan tâm phối hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp trong việc tạo
nguồn thu, bồi dưỡng nguồn thu, triệt để chống thất thu cho ngân sách nhà
nước, đặc biệt, trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu, kinh tế ngoài quốc doanh,
nhà đất, các doanh nghiệp có khả năng tạo nguồn thu lớn. Đồng thời với việc
khẩn trương tiến hành cải cách bước II hệ thống chính sách thuế, cần phải
kiên quyết lập lại trật tự trong quản lý tài chính, mọi khoản thu chi Nhà
nước phải được thể hiện qua ngân sách nhà nước, chấp hành nghiêm chỉnh chế
độ hạch toán kế toán,chứng từ hóa đơn trong nền kinh tế, xử phạt nghiêm minh
trong việc không thực hiện Pháp lệnh kế toán và thống kê để trốn lậu thuế.
Ủy ban chúng tôi thấy rằng, trong tình hình ngân sách nhà nước còn nhiều khó
khăn, việc điều hành ngân sách phải hết sức chặt chẽ, bảo đảm chi tiêu vốn
ngân sách đúng mục đích, có hiệu quả; cần tăng cường kiểm soát của Kho bạc
Nhà nước trước khi xuất quỹ ngân sách, kiểm tra tài chính, kiểm toán nhà
nước. Điều có ý nghĩa quyết định là cần sớm ban hành các cơ chế chính sách
vĩ mô huy động bằng được các nguồn lực của đất nước và sử dụng các nguồn lực
đó cho đầu tư phát triển, bảo đảm sao cho có hiệu quả, chống được lãng phí,
thất thoát. Mặt khác đòi hỏi các Bộ, ngành và địa phương phải hết sức tiết
kiệm, phấn đấu tạo nguồn thu, tăng cường chống thất thu, chống buôn lậu để
phấn đấu tăng thu thêm, tạo nguồn bổ sung để đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi cần
tăng lên trong quá trình thực hiện, nhất là cho việc khắc phục hậu quả thiên
tai, cho việc chia tách tỉnh... Kiên quyết thực hiện nguyên tắc nếu không
thu được thì giảm chi tương ứng. Đối với các chương trình mục tiêu quốc gia
cần có tổng kết, đánh giá để có hướng tiếp tục đầu tư trong thời gian tới,
trước mắt cần sắp xếp lại đầu mối quản lý cho hợp lý, bảo đảm chi đúng mục
đích, đúng đối tượng và có hiệu quả thật sự. Chi cho đầu tư phát triển cũng
cần ưu tiên có trọng điểm, quan tâm đến vùng còn nhiều khó khăn; tránh dàn
đều, điều hành phù hợp với khả năng và thực tế thu ngân sách nhà nước.
5- Tình hình hoạt động tiền tệ - tín dụng và ngân hàng đang là vấn đề nổi
lên được toàn xã hội quan tâm. Do vậy năm 1997, cùng với việc triển khai kế
hoạch cung ứng tiền theo kế hoạch được duyệt, cần sử dụng linh hoạt và nâng
cao hiệu quả các công cụ quản lý vĩ mô trong quá trình điều hành và thực
hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia. Trước mắt, cần đẩy mạnh triển
khai các giải pháp huy động vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển và hoạt
động sản xuất - kinh doanh cho các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, nhất là nhu cầu vốn đầu tư trung và dài hạn. Mặt khác, cần tập
trung chấn chỉnh hoạt động ngân hàng trước hết trong lĩnh vực kế toán tài
chính và nâng cao chất lượng tín dụng như việc phân loại xử lý và thu hồi nợ
quá hạn, bổ sung và điều chỉnh quy chế về thế chấp, bảo lãnh. Thực hiện
chính sách quản lý ngoại hối, tăng cường quản lý việc vay thương mại nước
ngoài, việc mở L/C vay nhập hàng trả chậm. Đồng thời, tránh mọi biểu hiện
kiềm chế quá mức tín dụng gây ứ đọng vốn trong các ngân hàng thương mại quốc
doanh, cần tiếp tục thực hiện giảm lãi suất cho vay theo Nghị quyết của Quốc
hội để góp phần thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển. Tiếp tục thực
hiện điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt theo quan hệ cung cầu, thu hẹp
chênh lệch tỷ giá giữa chỉ số công bố chính thức của Ngân hàng Nhà nước và
thị trường xã hội. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của
các cơ quan quản lý nhà nước nhằm kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm khắc,
dứt điểm những vụ việc vi phạm trong hoạt động tiền tệ - tín dụng và ngân
hàng, lập lại kỷ cương trong kinh doanh tiền tệ, ngăn chặn kịp thời tình
trạng làm thất thoát, mất vốn lớn như vừa qua.
6- Tiếp tục ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát một cách hợp lý theo hướng
chỉ số tăng giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 1997 ở mức dưới 10% như
nghị quyết của Quốc hội. Cần dự kiến các yếu tố có khả năng tác động làm
tăng giá để có những biện pháp xử lý kịp thời, tạo mặt bằng giá hợp lý, vừa
tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển, vừa bảo đảm đời sống nhân dân.
Cần tính toán kỹ, thận trọng, có bước đi thích hợp trong việc điều chỉnh giá
một số mặt hàng như điện, xăng dầu..., quan tâm đến giá và tổ chức thu mua
nông sản cho dân (trước hết là lúa gạo) để tạo điều kiện phát triển sản xuất
nông nghiệp, bảo đảm thu nhập và đời sống nông dân. Kiên quyết ngăn chặn và
xử lý nghiêm minh các trường hợp độc quyền, đầu cơ nâng giá thu lợi bất
chính. Cần xây dựng và tổ chức lại mạng lưới thương nghiệp với sự tham gia
của các thành phần kinh tế, trong đó thương nghiệp quốc doanh phải chủ động
chi phối thị trường cả nước gắn với đặc thù của từng vùng kinh tế. Tiếp tục
có các biện pháp kiểm soát và điều tiết tổng phương tiện thanh toán, việc sử
dụng tiền cung ứng tăng thêm cho mua ngoại tệ bổ sung Quỹ điều hòa cũng cần
cân nhắc thận trọng.
7- Đẩy mạnh kinh tế đối ngoại. Tiếp tục tìm hiểu và mở rộng thị trường xuất
khẩu. Thực hiện các biện pháp có hiệu quả theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu,
nhất là tăng các mặt hàng đã qua chế biến để tăng giá trị xuất khẩu, khuyến
khích dùng hàng trong nước đã sản xuất được với chất lượng tương ứng và giá
cả hợp lý, triệt để chống buôn lậu để giảm bớt mức nhập siêu còn quá lớn như
hiện nay. Rút kinh nghiệm trong điều hành vừa qua, cần tăng cường sự phối
kết hợp chặt chẽ giữa các ngành liên quan trong việc thanh toán khả năng sản
xuất và cung - cầu thị trường trong nước để điều hành chặt chẽ việc nhập
khẩu, nhất là đối với các hàng hóa vật tư quan trọng, hạn chế tối đa việc
nhập những mặt hàng mà đã sản xuất đủ đáp ứng nhu cầu trong nước nhằm tạo
điều kiện cho sản xuất phát triển, ổn định giá cả tiêu dùng và đời sống nhân
dân.
8- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước, từng bước hoàn chỉnh
hệ thống pháp luật về kinh tế, bảo đảm đồng bộ nhất quán để tạo môi trường
pháp lý ổn định và thuận lợi cho sản xuất - kinh doanh. Đồng thời, khẩn
trương ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các luật, pháp lệnh đã ban
hành và ban hành các văn bản pháp quy khác để điều chỉnh những lĩnh vực chưa
có quy định. Cần rà soát, phát hiện kịp thời những văn bản quy phạm pháp
luật không còn phù hợp hoặc chồng chéo, trùng lắp, mâu thuẫn nhau để kịp
thời sửa đổi.
Trong cải cách thủ tục hành chính, tập trung giải quyết bằng được một số
khâu ách tắc như: trình tự, thủ tục xét duyệt dự án đầu tư, kể cả đầu tư
bằng vốn trong nước và đầu tư có vốn nước ngoài (FDI, ODA), cấp đất, chuyển
quyền sử dụng đất, cấp phép xây dựng, cấp Quota hoặc cấp giấy phép xuất nhập
khẩu... Nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm về việc thí điểm quản lý hành
chính theo mô hình “một cửa” để có thể nhân ra diện rộng. Tiếp tục đẩy mạnh
cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu, chống lãng phí, thực hành
tiết kiệm, trước hết là trong các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước.
*
* *
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên đây là một số ý kiến của Ủy ban kinh tế và ngân sách về đánh giá bổ
sung tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế và ngân sách nhà nước năm 1996 và
các biện pháp thực hiện nhiệm vụ kinh tế và ngân sách nhà nước năm 1997;
kính trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội