VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 4 1996-1997


BÁO CÁO  CỦA ỦY BAN VĂN HÓA, GIÁO DỤC, THANH NIÊN, THIẾU NIÊN VÀ NHI ĐỒNG CỦA QUỐC HỘI
VỀ DỰ ÁN LUẬT GIÁO DỤC

(Do bà Trần Thị Tâm Đan, Chủ nhiệm Uỷ ban văn hóa, giáo dục,
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội đọc tại
kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX, ngày 21-4-1997)

Kính thưa Quốc hội,

Theo sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội chịu trách nhiệm theo dõi, xem xét và chủ trì thẩm tra Dự án Luật giáo dục.

Để thực hiện nhiệm vụ được giao, Thường trực Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng đã làm việc nhiều lần với Ban soạn thảo và lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo để nghe báo cáo và đóng góp ý kiến cụ thể vào Dự thảo Luật; Thường trực Ủy ban cũng đã tổ chức cuộc trao đổi, tọa đàm với một số nhà khoa học, nhà sư phạm tiêu biểu để thu thập ý kiến đóng góp cho Dự thảo Luật.

Khi Chính phủ có Tờ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội về Dự án Luật giáo dục, Thường trực Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng và Thường trực Ủy ban pháp luật đã họp ngày 19 tháng 3 năm 1997 để xem xét Dự án Luật lần thứ 19.

Tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 25 tháng 3 năm 1997, Thường trực Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng đã phát biểu ý kiến về Dự án Luật giáo dục. Sau khi Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về Dự án Luật giáo dục, Ban soạn thảo đã tiếp thu, chỉnh lý thành Dự thảo thứ 20 trình Quốc hội.

Trong hai ngày 30-31 tháng 3 năm 1997, Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng đã họp phiên toàn thể để nghe Ban soạn thảo báo cáo Dự án Luật giáo dục và tiến hành xem xét toàn diện và cụ thể Dự án Luật.

Dự thảo Luật giáo dục trình Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11, về cơ bản đã thể hiện những nội dung của Điều 35, Điều 36 Hiến pháp năm 1992, sáu tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, những chủ trương, chính sách của Nhà nước ta về giáo dục trên cơ sở những kinh nghiệm rút ra từ hoạt động giáo dục trong 50 năm qua.

Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng xin phát biểu  một số ý kiến về Dự án Luật giáo dục.

I- VỀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG LUẬT GIÁO DỤC

  Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng tán thành những lý do nêu trong tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết phải xây dựng Luật giáo dục. Chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm ba ý:

Một là, Điều 35 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”; Điều 36 quy định “Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng”. Những điều quy định về giáo dục trong Hiến pháp cần phải được cụ thể hóa bằng Luật giáo dục để tăng cường công tác quản lý giáo dục bằng pháp luật.

Hai là, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII đã ra Nghị quyết 02 về “Định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Việc thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng và những nội dung cơ bản của Nghị quyết đòi hỏi sớm ban hành Luật giáo dục tạo điều kiện để phát triển sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Ba là, công tác giáo dục trong thực tiễn đời sống đang đặt ra nhiều vấn đề cần được luật hóa để phát triển ổn định và đúng hướng.

II- VỀ NỘI DUNG CỦA DỰ LUẬT

Về cơ bản Ủy ban chúng tôi tán thành nội dung của Dự Luật, xin chỉ phát biểu một số ý kiến nhằm bổ sung, hoàn chỉnh Dự Luật.

1. Về tên gọi của Luật:

Có ý kiến đề nghị gọi tên là Luật giáo dục - đào tạo vì trong Hiến pháp và Nghị quyết Trung ương 2 đều ghi giáo dục và đào tạo. Hiện nay, tên Bộ cũng là Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hơn nữa, chúng ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nên cần nhấn mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực, do đó, cần đưa hai từ “đào tạo” vào tên Luật. Ủy ban chúng tôi cho rằng gọi là Luật giáo dục vừa gọn và đã đủ nghĩa, bởi vì, với nghĩa tổng quát trong giáo dục đã bao hàm cả đào tạo. Hiện nay trên thế giới, các nước đã ban hành Luật giáo dục thì phần lớn đều ghi là Luật giáo dục và tên gọi của Luật không nhất thiết phải giống như tên gọi của Bộ.

2. Về phạm vi điều chỉnh của Dự Luật:

Trong quá trình chuẩn bị Dự Luật có hai loại ý kiến: Một là, ra một luật khung, sau đó sẽ ra những luật cụ thể như Luật giáo viên, Luật giáo dục phổ thông, Luật giáo dục chuyên nghiệp, Luật giáo dục đại học… Hai là, ra một bộ luật bao gồm tất cả những lĩnh vực của giáo dục một cách chi tiết. Theo phương án một thì trong tình hình xây dựng pháp luật của nước ta hiện nay chưa có điều kiện để xây dựng nhiều luật cho một lĩnh vực, dù là lĩnh vực rộng lớn và có tầm quan trọng như giáo dục. Theo phương án hai thì có một thực tế là sự nghiệp giáo dục của nước ta đang trong quá trình đổi mới, những việc làm được cũng như chưa làm được đang cần một sự tổng kết, đánh giá nghiêm túc, rút kinh nghiệm từ thực tiễn để lựa chọn những vấn đề cần được luật hóa. Do đó, Ủy ban chúng tôi tán thành với Dự thảo Luật là một luật tương đối cụ thể, thể hiện những vấn đề cơ bản của giáo dục.

Luật này điều chỉnh chủ yếu đối với hệ thống giáo dục quốc dân, còn đối với các trường trong lực lượng vũ trang, các trường của tổ chức chính trị - xã hội, Đảng và đoàn thể thì Chính phủ căn cứ vào Luật giáo dục để có những quy định cụ thể. Luật này chủ yếu điều chỉnh  về giáo dục học đường và có đề cập ở những mức độ nhất định về giáo dục gia đình, giáo dục xã hội trong mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình, xã hội. Ủy ban chúng tôi tán thành phạm vi điều chỉnh trong Dự Luật.

3. Về nội dung giáo dục:

Điều 20, Chương II về giáo dục mầm non; Điều 24, Chương III về giáo dục phổ thông; Điều 31, Chương IV về giáo dục chuyên nghiệp; Điều 37, Chương V về giáo dục đại học và sau đại học có quy định một số điểm về nội dung và phương pháp giáo dục.Việc thể hiện trong Dự Luật theo hướng liệt kê các phương pháp giáo dục dẫn đến tình trạng không kể hết được, hoặc chỉ nhấn mạnh một số phương pháp sẽ dẫn đến sự hiểu và vận dụng không chính xác khi áp dụng luật. Ủy ban chúng tôi cho rằng, nên tiếp tục nghiên cứu để tìm cách trình bày nội dung và phương pháp theo hướng tổng quát, thể hiện được tính pháp lý cho việc xây dựng nội dung chương trình, xác định phương pháp giáo dục. Những quy định về nội dung, chương trình,phương pháp giảng dạy phải bảo đảm phù hợp với tâm lý lứa tuổi, bảo đảm những kiến thức cần thiết, hiện đại, thiết thực, tăng khả năng thực hành và khả năng vận dụng kiến thức, ứng dụng vào thực tế sản xuất và đời sống để giáo dục đáp ứng được sự phát triển của đất nước và từng bước đưa trình độ giáo dục, đào tạo nước ta ngang tầm với trình độ khu vực và thế giới.

Về mục tiêu giáo dục - đào tạo đối với từng bậc học, cấp học cũng cần rà soát lại để thể hiện đầy đủ và chính xác, như Điều 35 quy định, cấp thạc sĩ là đào tạo chuyên gia vững vàng về lý thuyết và thực hành; cấp tiến sĩ đào tạo chuyên gia giỏi. Cấp tiến sĩ được đào tạo 4 năm đối với người có bằng đại học. Người  học lấy bằng tiến sĩ được nâng cao về trình độ lý thuyết, đi sâu nghiên cứu một vấn đề để hoàn thành luận án, qua đó, nắm vững phương pháp nghiên cứu khoa học tạo khả năng độc lập nghiên cứu, còn việc có trở thành chuyên gia giỏi hay không sẽ phụ thuộc vào kết quả nghiên cứu, mức độ đóng góp cho khoa học cũng như khả năng giải quyết các vấn đề đặt ra của thực tế. Một số ít người có thể đã bộc lộ được như là một chuyên gia giỏi ngay sau khi bảo vệ luận án, còn với nhiều người thì thường phải qua nhiều năm thực hiện nhiều công trình nghiên cứu, nhiều công trình khoa học sau khi đã có học vị tiến sĩ thì mới có thể trở thành chuyên gia giỏi. Vì vậy, cũng nên xem xét chuyên gia giỏi có phải là chuẩn chung cho cấp đào tạo tiến sĩ không.

4. Về hệ thống giáo dục:

Điều 10 quy định hệ thống giáo dục nhằm xác định bậc học, cấp học như trong Dự Luật là hợp lý. Khoản 2, Điều 10 về giáo dục phổ thông đã đưa ra hai phương án đều thể hiện được rõ giáo dục phổ thông gồm ba cấp học: Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông (phương án 1) tương ứng với phổ thông cấp I, phổ thông cấp II và phổ thông cấp III (phương án 2) chỉ khác nhau về tên gọi. Thực tế trong những năm qua, tên gọi của các cấp học này đã thay đổi hai lần, dẫn đến thay đổi về tổ chức nhà trường và xây dựng lại trường sở.  Hiện nay, đã hình thành ba loại trường phổ thông tương ứng với ba cấp học này.Vấn đề còn lại chỉ là tìm một tên gọi sao cho đơn giản, dễ hiểu, phản ánh được tính hệ thống về bậc học, cấp học của giáo dục phổ thông. Hiện cả hai phương án về tên gọi đều có những điều chưa thỏa đáng. Vấn đề này nên để sau khi Quốc hội cho ý kiến và sau  khi tổ chức lấy ý kiến nhân dân cũng như trong ngành Giáo dục về Dự thảo Luật, Ban soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc lựa chọn tên gọi cho phù hợp để sử dụng lâu dài, ổn định. Hơn nữa, yêu cầu chính đáng đối với giáo dục, đào tạo cũng là vấn đề đáng quan tâm và phải được xác định chính xác, khoa học.

Về giáo dục sau đại học, tại khoản 4, Điều 10, Chương I chưa có xác định về cấp học nhưng ở Chương XII về “thi và văn bằng” có ghi bằng thạc sĩ và bằng tiến sĩ là những văn bằng dành cho cấp học thạc sĩ và cấp tiến sĩ. Để bảo đảm yêu cầu nhất quán của Luật, đồng thời, xuất phát từ vị trí quan trọng của 2 cấp học này, Ủy ban chúng tôi đề nghị cần thiết đưa cấp thạc sĩ và cấp tiến sĩ vào Điều 10 quy định về hệ thống giáo dục.

5. Về nhà trường:

a) Về chức năng, nhiệm vụ của nhà trường:

Chương VII quy định về nhà trường được trình bày theo cách quy định chung cho các loại nhà trường, bên cạnh đó, có một số điều nói riêng về trường Đại học, trường chuyên nghiệp. Có ý kiến cho rằng, xuất phát từ đặc điểm rất khác nhau về mục tiêu đào tạo, về cơ chế quản lý, về phương thức  tổ chức giáo dục - đào tạo giữa giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông với giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học. Cho nên, cần phân ra thành ba mục quy định riêng cho nhà trường phổ thông bao gồm cả giáo dục mầm non, cho nhà trường giáo dục chuyên nghiệp và cho nhà trường đại học, cao đẳng. Như vậy, sẽ sát hợp với đặc điểm của từng loại trường của ba lĩnh vực này và khi áp dụng, thi hành  Luật thuận lợi hơn. Ủy ban chúng tôi cho rằng rất đáng quan tâm nghiên cứu phương án này.

Về trường sư phạm được đề cập trong Dự Luật ở Điều 55 với nội dung : “Chính phủ ban hành điều lệ riêng cho trường sư phạm” là hoàn toàn chưa đủ. Cần bổ sung những nội dung đối với hệ thống trường sư phạm thể hiện được tinh thần mà Nghị quyết Trung ương 2 đã nêu “củng cố, tập trung đầu tư, nâng cấp các trường sư phạm, xây dựng một số trường sư phạm trọng điểm để vừa đào tạo giáo viên có chất lượng cao vừa nghiên cứu khoa học giáo dục đạt trình độ tiên tiến”.

b) Về mô hình tổ chức trường đại học:

Trong Dự Luật đưa ra hai loại hình “viện Đại học” và “trường Đại học”. Tiêu chuẩn để phân loại là “đa lĩnh vực” và “đơn lĩnh vực”; có trường thành viên hay không có trường thành viên. Tổ chức trường đại học hiện nay nhìn chung theo chuyên môn thì có trường - khoa - tổ bộ môn. Việc đào tạo các ngành chuyên môn được tổ chức theo khoa. Chương trình của một ngành học gồm những môn học, mỗi môn học được thực hiện do tổ bộ môn bao gồm những nhà giáo có cùng chuyên môn một môn học.Vì vậy, tổ bộ môn là một tổ chức cơ bản của nhà trường để thực hiện công tác giảng dạy cũng như nghiên cứu khoa học. Trong cả hai mô hình tổ chức viện Đại học và trường Đại học đều không đề cập tổ bộ môn. Theo quy định trong dự luật thì “viện Đại học” hình  như là to hơn “trường Đại học”. Trong  thời gian qua do sắp xếp một số trường đại học thành trường đại học lớn hơn, những trường này có các trường thành viên, đào tạo những ngành thuộc những lĩnh vực khác nhau được tổ chức theo mô hình trường - trường thành viên - khoa - tổ bộ môn và được gọi là đại học quốc gia và đại học vùng; và nay theo Dự Luật sẽ được gọi là “viện Đại học”. Do lịch sử quá trình hình thành nhà trường, chúng tôi cho rằng có thể chấp nhận mô hình tổ chức có trường thành viên.

Về quy mô, mô hình tổ chức và cơ chế quản lý của nhà trường thường phụ thuộc vào nhu cầu đào tạo, lịch sử hình thành. Đất nước ta dài, cần có mạng lưới các trường đại học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, miền trong phạm vi cả nước. Để bảo đảm yêu cầu chất lượng hiệu quả và tiết kiệm chi phí đào tạo, có những trường đại học quy mô không lớn, có số ngành đào tạo không nhiều nhưng lại thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng vẫn phù hợp với tổ chức theo mô hình trường - khoa - tổ bộ môn. Như vậy, tuy đa lĩnh vực nhưng không có yêu cầu phải hình thành thêm một cấp hành chính là trường thành viên như trường Đại học Tây Nguyên, trường Đại học Cần Thơ, trường Đại học Đà Lạt. Còn trường Đại học Bách khoa Hà Nội, trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội là những trường lớn có truyền thống, có đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ cao, có uy tín đang đào tạo những ngành thuộc khối kỹ thuật, khối kinh tế, khối nông nghiệp bao gồm những lĩnh vực khác nhau nhưng vẫn đang hoạt động theo mô hình tổ chức trường - khoa - tổ bộ môn, mà không có trường thành viên. Như vậy, ngay cả đối với các trường đại học lớn, đa lĩnh vực không nhất thiết tất cả phải tổ chức theo một mô hình là trường đại học - trường thành viên - khoa - tổ bộ môn mà vẫn hoạt động có hiệu quả theo mô hình trường -khoa - tổ bộ môn. Do đó, mô hình trường đại học - trường thành viên - khoa - tổ bộ môn không nên coi là một mô hình duy nhất đối với các trường đại học lớn, đa lĩnh vực.

Để phát huy tiềm lực khoa học của nhà trường, các trường đại học được tổ chức nhiều hệ như trường đại học có thể đào tạo hệ cao đẳng, có thể hình thành các tổ chức để triển khai công tác nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ dẫn đến mô hình tổ chức nhà trường rất đa dạng, quy mô nhà trường to, nhỏ khác nhau, chủ trương đầu tư trọng điểm đối với từng trường, bậc lương cho lãnh đạo nhà trường có thể khác nhau. Tất cả những điều này đều có thể giải quyết bằng công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Còn sự khác nhau về mô hình tổ chức, có thể được điều chỉnh bằng  điều lệ và quy chế của từng trường. Do đó, nếu chỉ dùng một tên là trường Đại học để áp dụng cho các cơ sở giáo dục đại học khác nhau cũng không gặp trở ngại gì. Vì vậy, ý kiến của tuyệt đại đa số Ủy ban chúng tôi là, không có nhu cầu thì không nhất thiết phải thêm ra một tên gọi “viện Đại học”, để rồi có thể lại nảy sinh những phức tạp không đáng có khi tổ chức thực hiện.

c) Về tổ chức tiến trình đào tạo ở đại học:

Trong Dự Luật, Điều 35 quy định “Thời gian quy định tại các khoản 1, 2, 3 của Điều này có tính định hướng. Người học có thể lựa chọn tiến trình học tập ngắn hơn hoặc dài hơn thời gian định hướng tùy theo năng lực, hoàn cảnh của bản thân và điều kiện tổ chức của nhà trường”. Nội dung quy định này chính là thực hiện chủ trương  tổ chức tiến trình học tập theo phương pháp tín chỉ nhưng trong Tờ trình của Chính phủ không giải trình rõ vấn đề này.

Tiến trình đào tạo ở các trường đại học của nước ta từ trước đến nay được tổ chức theo năm học. Việc tổ chức học tập và sinh hoạt của sinh viên được tổ chức theo đơn vị lớp của từng năm học. Những sinh viên trong cùng một năm học được bố trí học tập cùng một chương trình trong cùng một thời gian và kết thúc theo năm học. Như vậy, sinh viên trong một lớp cùng thực hiện thời gian học tập và nghỉ ngơi theo một thời gian biểu. Tuy nhiên, đối với sinh viên có khả năng, hoặc có hoàn cảnh riêng biệt được phép học với thời gian ngắn hoặc dài hơn, nhưng đây chỉ là giải pháp bổ sung nhằm tạo điều kiện cho một số ít sinh viên với điều kiện đặc biệt, còn tuyệt đại bộ phận sinh viên vẫn học tập theo tiến trình năm học. Phương pháp này đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý. Việc học tập, rèn luyện của sinh viên được triển khai từ trường đến khoa, đến lớp theo năm học. Tổ chức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội sinh viên cũng được triển khai theo lớp tạo thuận lợi cho hoạt động và sinh hoạt.

Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo một số trường đại học thực hiện theo phương pháp tín chỉ để tổ chức tiến trình học tập của sinh viên trong một khóa học. Tín chỉ là đơn vị xác định khối lượng kiến thức giảng dạy - học tập tương đương với 15 tiết học lý thuyết. Mỗi môn học gồm từ một đến nhiều tín chỉ. Chương  trình học tập của toàn khóa học đại học từ 4 đến 5 năm, số tín chỉ cần tích lũy là từ 130 đến 160. Sinh viên nào  hoàn thành đủ số tín chỉ quy định thì được cấp bằng tốt nghiệp, không nhất thiết theo thời gian quy định của khóa học. Điều cốt lõi của phương pháp này, là từng sinh viên được chọn một tiến trình học tập theo ý nguyện của mình; học môn nào trước, môn nào sau, tiến độ thực hiện chương trình do người học quyết định. Do đó, sinh viên trong cùng một lớp học không có cùng thời gian biểu học tập và cũng không giống nhau về nội dung học tập. Phương pháp này tạo điều kiện cho việc phát huy khả năng của  từng người học, do đó, mỗi sinh viên kết thúc chương trình học với thời gian khác nhau. Một số sinh viên giỏi có thể học hai chương trình để lấy hai bằng trong cùng một thời gian đối với những ngành học có nhiều tín chỉ trùng nhau.

Cách tổ chức học tập theo tiến trình trên dẫn đến tổ chức lớp học lỏng lẻo, theo đó tổ chức sinh hoạt Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh theo lớp cũng khó thực hiện vì mỗi sinh viên có một tiến trình học tập riêng. Để thực hiện theo tiến trình này đòi hỏi cao tính tích cực, tự giác, ý thức tự rèn luyện của sinh viên cũng như trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm, thái độ công bằng, vô tư, khách quan của nhà giáo trong việc đánh giá trình độ của người học và nhà trường phải có đủ trang thiết bị, giáo trình, tài liệu tham khảo đáp ứng cho từng sinh viên. Đặc biệt quan trọng là phải có một phương pháp đánh giá chính xác kết quả học tập của sinh viên. Mặt khác, phải có biện pháp quản lý phù hợp để kiểm soát được quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên và hướng được họ tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục khác thông qua sinh hoạt tập thể, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao. Những vấn đề trên đây hiện là những khó khăn, vướng mắc của nhà trường đang đặt ra phải tìm biện pháp giải quyết. Vì vậy, có luật hóa được chủ trương này hay không phải làm rõ hai vấn đề sau: Một là, những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện chủ trương này  đã giải quyết được đến đâu và có giải quyết được không trong tình hình của trường đại học hiện nay. Hai là, nếu áp dụng phương pháp tín chỉ, thì có bao nhiêu trường đại học có thể thực hiện được tốt mục tiêu giáo dục, đào tạo, bao nhiêu trường không đáp ứng được. Trên cơ sở đó mới có thể xem xét cụ thể nội dung vấn đề này quy định trong Dự Luật. Điều cần thiết là, khi áp dụng một phương pháp tổ chức cho việc dạy và học cần phải có một hệ thống biện pháp đồng bộ, khả thi để giải quyết các yêu cầu giáo dục mà mục tiêu giáo dục - đào tạo đã đặt ra.

6. Về thi  và văn bằng:

Thi và văn bằng có liên quan thiết thực đến quyền và trách nhiệm của người học; là biện pháp quan trọng để quản lý chất lượng giáo dục. Vì vậy, Ủy ban chúng tôi tán thành đưa những quy định về thi và văn bằng vào Luật.

Về thi, trong Dự Luật có đề cập hai loại kỳ thi, đó là thi quốc gia và thi nhà trường. Chúng tôi thấy chỉ nên dùng một khái niệm “kỳ thi” áp dụng cho mọi trường hợp thi, vì về thi, thì kỳ thi nào cũng bao gồm những công việc như: Ra đề thi, coi thi, chấm thi và xét kết quả. Do đó, cần quy định rõ trong Luật tất cả các kỳ thi mà người học phải thực hiện đối với các cấp học, bậc học và trách nhiệm của người dự thi cũng như của các cấp quản lý giáo dục và nhà giáo đối với kỳ thi.

Về văn bằng, chứng chỉ, Ủy ban chúng tôi tán thành các loại văn bằng ghi trong Luật, nhưng không nên để cụm từ “Nhân viên kỹ thuật” sau cụm từ “Bằng công nhân kỹ thuật” ở Điều 109, vì bằng trung học chuyên nghiệp điều chỉnh đối với nhân viên kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ. Còn về chứng chỉ, có hai phương án: Không đưa vào Luật mà để Chính phủ quy định, hoặc đưa vào Luật. Để giảm số lần  Chính phủ quy định và tránh sự  tùy tiện trong việc cấp chứng chỉ có thể đưa chứng chỉ vào Luật nhưng phải quy định rõ chứng chỉ cấp cho những trường hợp nào và do ai cấp. Đối với giáo dục dạy nghề, trong Dự Luật quy định dạy nghề ngắn hạn (dưới 1 năm), thì cấp chứng chỉ, còn dạy nghề dài hạn (từ 1 năm đến 2 năm) thì cấp bằng. Quy định như vậy sẽ không áp dụng được đối với một số trường hợp trong thực tế hiện nay, ở một số ngành có trường bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề nghiệp với thời gian 18 tháng nhưng cũng chỉ cấp chứng chỉ và cấp chứng chỉ là thỏa đáng. Nên quy định theo hướng cấp chứng chỉ cho dạy nghề phổ thông và bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề. Điều 108, khoản 2 quy định “Chứng chỉ xác nhận kết quả học tập, trình độ của người học đối với một môn học, một khóa học,một phần chương trình đào tạo.  Chúng tôi thấy không nên dùng khái niệm  “một phần chương trình đào tạo” làm chuẩn để cấp chứng chỉ. Do đó, trong Dự Luật cần bỏ cụm từ này. Tán thành cấp chứng chỉ cho môn học, khóa học, nhưng cần quy định rõ khóa học này là khóa học bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, cập nhật kiến thức để tránh lẫn với khóa học  đang dùng trong các nhà trường khi nói về thời gian đào tạo của bậc học, cấp học.

Thi, văn bằng, chứng chỉ được quy định trong Dự Luật thành một chương, nhưng vấn đề này còn được quy định trong các chương III, IV, V về giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học. Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc phương án có nên đưa thi, văn bằng, chứng chỉ quy định ngay ở các chương này không. Hay là chuyển các quy định của những chương này cho Chương thi và văn bằng  để không bị trùng lặp và tăng thêm tính hệ thống toàn diện của các chương.

7. Về quản lý giáo dục:

Ủy ban chúng tôi tán thành trong Luật cần quy định rõ nội dung quản lý và phân cấp quản lý. Có điều cần lưu ý là, phải quy định rõ nội dung cụ thể về quản lý giáo dục của Bộ Giáo dục và đào tạo, không nên để Chính phủ quy định. Hiện nay, có những trường do Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cấp quản lý giáo dục trực tiếp quản lý, nhưng không ít cơ sở giáo dục do các Bộ khác, các tổ chức trực tiếp quản lý.

Đối với giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề hiện nay có cơ sở dạy nghề do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Liên đoàn Lao động, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, các tổng công ty quản lý trực tiếp. Cho nên rất cần quy định rõ về sự phân công quản lý nhà trường giữa Bộ Giáo dục - Đào tạo và các Bộ, các tổ chức quản lý trực tiếp nhà trường. Sự phân công nên theo hướng, Bộ giáo dục - Đào tạo phối hợp với các Bộ, các tổ chức có trường thực hiện chức năng “Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên,quy chế thi cử và hệ thống văn bằng” như Điều 35, Hiến pháp năm 1992 quy định; còn các Bộ, các tổ chức trực tiếp quản lý nhà trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với nhà trường toàn diện về tài chính, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, bảo đảm các điều kiện cho dạy và học, chỉ đạo kiểm tra việc tổ chức thực hiện về các hoạt động của nhà trường, về thực hiện nội dung, chương trình, kế hoạch và phương pháp giảng dạy. Do đó, cần có một số điều quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý nhà trường:

- Về Hội đồng quốc gia giáo dục:

Đối với lĩnh vực rộng lớn, quan trọng như giáo dục - đào tạo thì việc có Hội đồng quốc gia giáo dục là cần thiết. Song cần làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thành phần của Hội đồng dù đó là Hội đồng tư vấn; còn nếu là Hội đồng chỉ đạo, quản lý, điều hành thì phải làm rõ vị trí pháp lý của Hội đồng này trong hệ thống hành pháp của Nhà nước và phải sửa Luật tổ chức Chính phủ. Chúng tôi đề nghị Hội đồng này là Hội đồng tư vấn cho Thủ tướng trong nhiệm vụ quyền hạn của Thủ tướng, do Thủ tướng quyết định thành lập và quy định quy chế hoạt động.

- Về Thanh tra giáo dục:

Chúng tôi cho rằng đây là loại Thanh tra đặc thù, Thanh tra chuyên ngành, vì vậy, nên quy định xây dựng hệ thống thanh tra giáo dục, ghi rõ quyền hạn, trách nhiệm của Thanh tra, Thanh tra viên; trách nhiệm của tổ chức và cá nhân bị thanh tra, quyền khiếu nại của tổ chức, cá nhân về kết luận của Thanh tra và quyền khiếu nại, tố cáo của công dân về việc vi phạm pháp luật thanh tra.

Trong Dự Luật, tại một số điều có dùng những cụm từ “ưu tiên; khuyến khích” “ưu đãi”. Chúng tôi đề nghị có thể vẫn phải dùng, nhưng điều nào có thể cụ thể hóa được thì cũng nên quy định cụ thể, như : Số năm công tác theo sự phân công của Nhà nước đối với những người học sau khi tốt nghiệp; dành đất cho nhà trường trong quy hoạch sử dụng đất của các địa phương; cho thuê đất, cho vay vốn với lãi suất thấp đối với các trường dân lập, tư thục; cho phép các doanh nghiệp được trích quỹ phát triển sản xuất đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động của mình, được tính vào giá thành sản phẩm vì những doanh nghiệp này có thể mở trường, lớp tự đào tạo hay ký hợp đồng với các trường đại học để đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật cao cho tổ chức của mình thường là những tổng công ty lớn mà chi phí đào tạo chiếm tỷ lệ không đáng kể trong giá thành và có thể thực hiện được.

III- MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ

1. Sau khi Quốc hội cho ý kiến về Dự thảo Luật giáo dục, Ban soạn thảo Dự án Luật cần khẩn trương tổ chức nghiên cứu tiếp thu chỉnh lý Dự thảo Luật. Thường trực Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội tham gia cùng Ban soạn thảo chỉnh lý, bổ sung hoàn chỉnh Dự án Luật.

2. Đây là một Dự án Luật có liên quan đến toàn dân, đến mọi gia đình, mọi người, cho nên Dự thảo Luật giáo dục cần được tổ chức lấy ý kiến nhân dân, còn hình thức, mức độ lấy ý kiến, đề nghị Quốc hội giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.

Kính thưa Quốc hội,

Trên đây là một số ý kiến của Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội phát biểu về Dự thảo Luật giáo dục xin trình Quốc hội.

 

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội