(Do
Phó Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải
trình bày tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá IX, ngày 02-4-1997)
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Kính thưa các vị khách quý,
Tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội (tháng 10-1996), Chính phủ đã đánh giá sơ
bộ tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 1996 và
trình bày những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của kế hoạch năm 1997. Sau
kỳ họp đó, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp nhằm khắc phục
những hiện tượng không lành mạnh trong sự phát triển kinh tế, xã hội mà
Quốc hội đã lưu ý, thúc đẩy các lĩnh vực sản xuất, xây dựng, lưu thông
hàng hóa, thu ngân sách phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch
năm 1996 và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh như khắc phục hậu quả
của thiên tai, chia tách một số tỉnh...; đồng thời, khẩn trương triển
khai thực hiện nhiệm vụ năm 1997 theo nghị quyết của Quốc hội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính, thay mặt Chính phủ đã gửi báo cáo
tới các đại biểu Quốc hội, nêu cụ thể tình hình thực hiện kế hoạch năm
1996, bổ sung cho báo cáo trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 10 năm 1996,
và tình hình triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội
năm 1997. Trong Báo cáo này, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, tôi xin trình
bày một số nét chủ yếu về tình hình kinh tế, xã hội năm 1996, đầu năm
1997 và những vấn đề lớn cần tập trung chỉ đạo nhằm thực hiện thắng lợi
nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1997.
I- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 1996
VÀ QUÝ I NĂM 1997
Mấy nét bổ sung tình hình thực hiện kế hoạch năm 1996
Kết thúc năm 1996, tình hình diễn biến và kết quả thực hiện những nhiệm
vụ, mục tiêu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng
và an ninh, trật tự xã hội, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối
ngoại, về căn bản phù hợp với những nhận định mà Thủ tướng Chính phủ đã
trình bày trong báo cáo tại kỳ họp Quốc hội tháng 10 năm 1996.
Tôi xin phép không nêu lại toàn bộ tình hình mà chỉ bổ sung những nét
mới và những con số đã được xác định lại khi kết thúc cả năm về kết quả
thực hiện kế hoạch, chủ yếu là về kinh tế.
Nhìn tổng quát tình hình năm 1996, những nét nổi bật là: hầu hết các chỉ
tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội đều đạt và vượt kế hoạch;
nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao; chỉ số giá tiêu
dùng được kìm giữ ở mức thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây; kinh tế
đối ngoại tiếp tục phát triển; các mặt văn hóa, xã hội có một số chuyển
biến tốt; quốc phòng, an ninh và sự ổn định chính trị được củng cố.
Những thành tựu đó đạt được trong tình hình lũ lụt và thiên tai xảy ra
trên hầu hết các vùng, gây thiệt hại rất nặng nề về người và của, cả về
cơ sở hạ tầng cũng như tính mạng và tài sản của nhân dân. Chính phủ đã
chỉ đạo các cấp, các ngành khẩn trương khắc phục hậu quả, ổn định đời
sống, khôi phục sản xuất. Song, những tổn thất này sẽ còn ảnh hưởng đến
sản xuất, môi trường sinh thái và đời sống nhân dân trong thời gian tới.
So với số liệu ước tính trong báo cáo trình Quốc hội tháng 10 năm 1996
(dưới đây được ghi trong ngoặc), các chỉ tiêu tổng hợp về tăng trưởng
kinh tế được đánh giá lại không có sự thay đổi lớn. GDP tăng 9,3%
(9,5%), sản xuất công nghiệp tăng 14,1% (14%), sản xuất nông nghiệp tăng
4,8% (4,8 - 5%), sản lượng lương thực đạt 29,14 triệu tấn (28,5 triệu
tấn).
Trên một số mặt cụ thể, tình hình diễn biến và kết quả thực hiện kế
hoạch cả năm có những nét mới, xin được trình bày rõ thêm:
- Về xuất khẩu và nhập khẩu:
Trong những tháng cuối năm 1996, Chính phủ đã tăng cường chỉ đạo đẩy
mạnh xuất khẩu và kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu. Tình hình xuất, nhập
khẩu đã có một số chuyển biến tích cực.
Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 7.256 triệu USD, tăng 256 triệu USD so với
số ước tính trong báo cáo tháng 10, tập trung vào một số sản phẩm như
dầu thô, than đá, giày da, hàng dệt may. Đặc biệt, xuất khẩu gạo đạt
trên 3 triệu tấn, cao nhất từ trước tới nay, song hiệu quả thấp và chưa
bảo đảm được lợi ích của nông dân vùng lúa xuất khẩu.
Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 11.144 triệu USD (bao gồm cả cước vận
chuyển và phí bảo hiểm), cao hơn 144 triệu USD so với dự báo trước đây.
Nhập siêu 3,9 tỷ USD (trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
nhập siêu 1,25 tỷ USD), không cao hơn số ước tính trong báo cáo tháng 10
nhưng vượt mức dự kiến kế hoạch tới 1,1 tỷ USD; mức nhập siêu bằng 16%
GDP là một tỷ lệ không bình thường, làm tăng gánh nặng trả nợ vốn đã lớn
đối với nền kinh tế nước ta. Tuy một phần quan trọng mức nhập siêu được
trang trải bằng nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và nguồn
vốn tài trợ phát triển (ODA), song, cần phải phân tích và xử lý tình
trạng nhập khẩu tràn lan bằng hình thức mua hàng trả tiền chậm không
được kiểm soát chặt chẽ hoặc bảo lãnh không đúng quy định, trong cơ cấu
nhập khẩu, tỷ lệ hàng tiêu dùng theo phương pháp thống kê hiện nay chỉ
chiếm 11,6%, nhưng trong những thứ được tính vào vật tư, nguyên liệu, có
một bộ phận không nhỏ thực chất là để tiêu dùng trong nước, không tạo ra
khả năng trả nợ.
- Về thu hút nguồn vốn nước ngoài:
Năm 1996, đã cấp giấy phép cho 365 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số
vốn đăng ký trên 8,6 tỷ USD, tăng 31% so với năm 1995; tỷ lệ các dự án
đầu tư vào lĩnh vực sản xuất chiếm 80%, cao hơn các năm trước; trong đó,
có một số dự án quy mô lớn đầu tư vào nông nghiệp, công nghiệp chế biến,
xây dựng cơ sở hạ tầng. Tính đến hết năm 1996, đã có 1.969 dự án đầu tư
nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 27,4 tỷ USD,
trong đó vốn thực hiện đạt gần 8 tỷ USD.
Nguồn vốn tài trợ phát triển (ODA) tiếp tục tăng. Năm 1996, các nhà tài
trợ đã cam kết dành cho Việt Nam trên 2,4 tỷ USD. Tính đến cuối năm
1996, tổng số vốn được cam kết là 8,5 tỷ USD, trong đó 6,1 tỷ USD đã ký
được hiệp định hợp thức hóa và đã giải ngân được 2,8 tỷ USD. Năm 1996,
giải ngân được 900 triệu USD, tuy khá hơn trước nhưng còn chậm.
- Về ngân sách nhà nước:
Trước tình hình thu ngân sách có khả năng đạt thấp so với dự toán đầu
năm, ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách, trong những
tháng cuối năm 1996, Chính phủ đã tập trung giải quyết những khó khăn,
vướng mắc về tài chính, về vốn để đẩy mạnh sản xuất, tạo nguồn thu, nhất
là đối với những ngành và sản phẩm quan trọng, có số thu lớn cho ngân
sách; đồng thời, tăng cường chỉ đạo công tác chống thất thu, thanh tra,
kiểm tra, kiểm toán và xử lý các khoản thu tồn đọng để tăng tiến độ thu
ngân sách. Đến nay, đánh giá lại, tổng số thu ngân sách thực tế đạt
61,870 tỷ đồng, tăng 15,9% so với thực hiện năm 1995, và đạt 99,8% kế
hoạch. So với số ước tính trong báo cáo tháng 10 năm 1996, thì thu thực
tế cao hơn 2.060 tỷ đồng, mặc dù số thu về thuế xuất, nhập khẩu thấp hơn
973 tỷ đồng, do thực hiện chủ trương hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng
trong những tháng cuối năm và còn do công tác chống buôn lậu, chống thất
thu thuế thực hiện chưa tốt. Tuy nhiên, tình trạng thất thu thuế còn
lớn, nhất là trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và xí nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, tình trạng nợ đọng tiền thuế trong các doanh nghiệp
Nhà nước còn khá phổ biến. Đây là vấn đề Chính phủ tiếp tục tập trung
giải quyết để bảo đảm thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật, phấn
đấu hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách năm 1997 Quốc hội đã giao.
Trong những tháng cuối năm 1996, do phải bổ sung các khoản chi cho những
nhu cầu cấp thiết mới phát sinh như khắc phục hậu quả lũ, lụt, chi cho
việc chia tách một số tỉnh, huyện kể cả việc bầu cử bổ sung Hội đồng
nhân dân... Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, địa phương sắp xếp hợp lý các
khoản chi. Tổng số chi ngân sách cả năm là 70.270 tỷ đồng, bằng 99,8% dự
toán đầu năm, tăng 2.060 tỷ đồng so với số đã báo cáo tháng 10, bảo đảm
được các yêu cầu chi theo dự toán đầu năm, trong đó chi đầu tư phát
triển vượt 5,2%. Công tác quản lý, kiểm soát chi ngân sách tuy có một số
tiến bộ, nhưng tình trạng chi tiêu lãng phí, kém hiệu quả vẫn còn khá
phổ biến trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp và các doanh nghiệp nhà
nước.
Bội chi ngân sách 8.400 tỷ đồng, bằng 3,2% GDP, không vượt mức Quốc hội
cho phép. Đây là một nỗ lực lớn của Chính phủ và của các cấp, các ngành
trong việc thực hiện nhiệm vụ ngân sách nhà nước 1996.
- Về tình hình giá cả:
Trong báo cáo trình Quốc hội tháng 10 năm 1996, Chính phủ dự báo chỉ số
giá tiêu dùng cả năm 1996 tăng 6-7% so với cuối năm 1995. Đến nay đánh
giá lại, chỉ số giá chỉ tăng 4,5%, là mức tăng giá thấp nhất so với
nhiều năm trước đây. Lạm phát được đẩy lùi đã tác động tích cực đến việc
ổn định kinh tế, xã hội, tạo niềm tin cho nhân dân. Tuy nhiên, từ tháng
5 đến tháng 8 năm 1996, chỉ số giá tiêu dùng giảm liên tục hàng tháng ở
mức -0,5%, -0,5%, -0,7% và -0,4% có ảnh hưởng không tốt đến sản xuất,
kinh doanh. Trước tình hình đó, Chính phủ đã thực hiện một số biện pháp
về tài chính, tiền tệ và điều hành lưu thông hàng hóa nhằm giữ lạm phát
ở mức hợp lý, thúc đẩy sản xuất phát triển và ổn định đời sống nhân dân.
- Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội:
Chính phủ đã chỉ đạo tiến hành một số việc mới: tổng kết hoạt động khoa
học - công nghệ - môi trường thời kỳ 1991 - 1995; xác định các chương
trình khoa học, công nghệ và khoa học xã hội thời kỳ 1996-2000; đánh giá
thực trạng tình hình giáo dục và đào tạo qua 10 năm đổi mới, từ đó, chỉ
đạo việc xây dựng đề án định hướng phát triển giáo dục, đào tạo giai
đoạn 1996-2000 và 2010; hoạch định “Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe của nhân dân thời kỳ 1996-2000, và chính sách quốc gia về thuốc
Việt Nam”, bước đầu hình thành chủ trương, chính sách khám chữa bệnh cho
người nghèo.
Mấy nét lớn về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội quý I năm
1997
Kế hoạch năm 1997 đã được giao cho các Bộ, ngành, địa phương và các tổng
công ty lớn ngay từ những ngày cuối năm 1996 và đầu năm 1997. Đồng thời,
Chính phủ đã ban hành các quy định mới về cơ chế điều hành thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm
1997. Vào đầu năm, Chính phủ đã triệu tập hội nghị lãnh đạo các tỉnh,
thành phố trong cả nước để bàn biện pháp triển khai thực hiện.
Trong quý I năm 1997, Chính phủ tập trung chỉ đạo việc khắc phục hậu quả
thiên tai, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tháo gỡ những khó khăn để duy
trì và đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, bảo đảm lưu thông hàng hóa và ổn
định giá cả trong dịp Tết. Đây là năm thứ 2 liên tiếp chúng ta tạo được
đà triển khai thực hiện kế hoạch ngay từ đầu năm và ổn định được kinh tế
vĩ mô trong mấy tháng trước và sau Tết.
Có thể đánh giá sơ bộ tình hình thực hiện những mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch năm 1997 trong quý I so với cùng kỳ năm trước như sau:
Sản xuất nông nghiệp,
nhờ khắc phục kịp thời những hậu quả của bão lụt, thay đổi cơ cấu mùa
vụ, nên vẫn bảo đảm tiến độ gieo trồng. Lúa đang ở giai đoạn phát triển
tốt. Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đang bước vào thu hoạch vụ Đông -
Xuân mới, có triển vọng được mùa lớn. Chính phủ đang chỉ đạo sát sao
việc thực hiện các biện pháp bảo đảm mua kịp thời với giá hợp lý toàn bộ
lương thực hàng hóa của nông dân.
Sản xuất công nghiệp
tăng 14% (trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 12,5%, khu vực
ngoài quốc doanh tăng 10,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng
20,7%). Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng tiếp tục tăng khá, như:
điện phát ra tăng 9,7%, dầu thô tăng 20,6%, thép cán tăng 13,4%, thiếc
thỏi tăng 68,3%, xi măng tăng 19,5%, vải lụa tăng 8,3%, xà phòng, bột
giặt tăng 14,8%... Một số ngành giảm sản lượng so với quý I năm 1996
như: giấy giảm 1,8%, phân hóa học giảm 4,8%, thuốc trừ sâu giảm 37,7%,
xút giảm 27,4%, than giảm 6,6%, quạt điện giảm 78,5%, sữa hộp giảm
24,3%..., chủ yếu là do sản phẩm tiêu thụ chậm, còn tồn đọng nhiều.
Kim ngạch xuất khẩu
ước đạt 1.788 triệu USD, tăng 22,5%; trong đó các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài xuất khẩu trực tiếp 160 triệu USD, tăng 83,9%. Một số
mặt hàng xuất khẩu tăng khá là: cao su tăng 80,2%, cà phê 207,7%, chè
68%, dệt may 28,5%, giầy dép 46,2%. Tuy nhiên, có một số mặt hàng nông
sản xuất khẩu giảm so cùng kỳ 1996, như gạo giảm 37,4%, lạc nhân giảm
86,3%...
Kim ngạch nhập khẩu
ước đạt 2.723 triệu USD, tăng 10,7% và bằng 20,6% kế hoạch năm 1997;
trong đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp nhập khẩu
572 triệu USD, tăng 36,2%. Một số mặt hàng giảm nhập khẩu là: ô tô giảm
30%, xe máy giảm 2,1%, thép giảm 59%, xi măng đen giảm 44%. Tuy nhiên,
nhập siêu vẫn còn lớn.
Về thu, chi ngân sách:
Tổng thu ngân sách ước đạt 19,1% kế hoạch năm, tăng 9,7% so cùng kỳ năm
1996. Tổng chi ngân sách đạt 18,6% kế hoạch năm, tăng 7,4% so cùng kỳ
năm 1996. Bội chi ngân sách bằng 12,9% tổng chi, chủ yếu là về chi
thường xuyên, còn chi cho xây dựng cơ bản đạt thấp (2 tháng đầu năm, chi
đầu tư xây dựng cơ bản mới đạt 5,2% kế hoạch năm).
Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
Từ đầu năm đến ngày 15 tháng 3 năm 1997, đã cấp giấy phép cho 65 dự án
FDI, tăng 41% so cùng kỳ năm 1996, với tổng số vốn đăng ký là 776,2
triệu USD. Trong quý I năm 1997, đã ký một số hiệp định để thực hiện các
dự án bằng nguồn vốn ODA với tổng giá trị là 922,8 triệu USD.
Về thương mại, giá cả:
tình hình lưu thông hàng hóa và giá cả quý I năm 1997 vẫn trong xu thế
ổn định. Tính chung quý I năm 1997, chỉ số giá cả hàng hóa dịch vụ tăng
2,1%; đây là mức tăng thấp nhất từ nhiều năm nay.
Tết năm nay hàng hóa phong phú, giá cả ổn định, đi lại thuận tiện, hoạt
động văn hóa có một số hình thức mới, trật tự an toàn giao thông có tiến
bộ, các gia đình có công với nước và các hộ nghèo được quan tâm trợ giúp
khá hơn và là Tết thực hiện việc cấm đốt pháo nghiêm túc nhất trong ba
năm qua. Sinh hoạt thoải mái và không khí phấn khởi của nhân dân trong
những ngày vui Tết là một nét thể hiện những chuyển biến và tiến bộ của
tình hình đất nước.
Có thể đánh giá chung là, tình hình kinh tế, xã hội trong những tháng
đầu năm vẫn đang nối tiếp theo chiều hướng tích cực đà phát triển của
các năm trước.
Tuy nhiên, trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội hiện
nay, bên cạnh những vấn đề có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, đang nổi lên một
số tình hình và hiện tượng đã xuất hiện từ thời gian trước và đang còn
tiếp diễn, trực tiếp tác động xấu đến việc thực hiện nhiệm vụ năm 1997.
Một là,
sản xuất, kinh doanh có dấu hiệu chững lại ở một số ngành và lĩnh vực,
đặc biệt là trong công nghiệp chế biến. Có nhiều nguyên nhân, trong đó
nổi lên vấn đề cơ bản là hàng hóa sản xuất trong nước kém sức cạnh tranh
cả về giá cả và chất lượng, lại yếu về tiếp thị nên nhiều sản phẩm khó
tiêu thụ; năng suất, chất lượng và hiệu quả của các doanh nghiệp và đơn
vị sản xuất, của từng ngành, lĩnh vực và của cả nền kinh tế còn rất
thấp.
Sự phát triển của công nghiệp chế biến là yếu tố quan trọng hàng đầu của
tiến trình công nghiệp hóa. Hiệu quả kinh tế tạo nguồn chủ yếu cho đầu
tư phát triển. Vì vậy, nếu không có giải pháp khắc phục thực trạng nêu
trên thì sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế không những cho năm
1997 mà còn cho các năm sau.
Hai là,
nhập siêu tăng nhanh, vượt quá giới hạn an toàn. Trong những tháng cuối
năm 1996, đầu năm 1997, đã thực hiện một số biện pháp kiểm soát và hạn
chế, nhất là đối với hàng tiêu dùng và hình thức nhập trả tiền chậm,
nhưng mức nhập siêu trong quý I vẫn cao. Để khắc phục tình hình này, bên
cạnh những biện pháp trước mắt về quản lý nhập khẩu, chống buôn lậu, bảo
hộ thích đáng sản xuất trong nước, cần phải có giải pháp cơ bản thúc đẩy
xuất khẩu đạt nhịp độ tăng trưởng cao hơn nhập khẩu, tạo được chuyển
biến bước đầu theo hướng đó ngay từ việc thực hiện kế hoạch năm 1997.
Phải nghiên cứu xác định giới hạn nhập siêu đi đôi với cơ chế quản lý
chặt chẽ nợ nước ngoài để bảo đảm an toàn cho sự phát triển bền vững của
nền kinh tế.
Ba là,
đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn tập trung của Nhà nước (kể cả vốn
tín dụng) chưa thoát khỏi tình trạng triển khai thực hiện và cấp phát
vốn chậm, không những ảnh hưởng nhiều đến tiến độ xây dựng các công
trình mà còn gây nhiều lãng phí, tiêu cực. Một trong những nguyên nhân
chủ yếu cần phải sớm khắc phục là việc triển khai kế hoạch của các Bộ,
ngành, địa phương chậm, lại không thực hiện đúng quy chế quản lý đầu tư;
việc chuẩn bị dự án của các chủ đầu tư không đáp ứng yêu cầu về chất
lượng và thời gian, cùng với sự chậm trễ giải phóng mặt bằng là những
nguyên nhân trực tiếp cản trở tiến độ thực hiện kế hoạch đầu tư và ảnh
hưởng tới nhịp độ tăng trưởng kinh tế.
Bốn là,
tài chính, tiền tệ chưa lành mạnh. Cân đối ngân sách vẫn căng thẳng.
Đáng lưu ý là hoạt động tín dụng yếu cả về huy động vốn và cho vay, tỷ
lệ nợ quá hạn lớn (điều này có liên quan đến hiệu quả kinh tế thấp trong
hoạt động của các doanh nghiệp và các biểu hiện tiêu cực trong một số
ngân hàng); tỷ giá hối đoái biến động cao hơn mức bình thường.
Trước tình hình tiền tệ, tín dụng đang tác động đến hoạt động của các
ngân hàng và các doanh nghiệp, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện một số
biện pháp giải quyết tình thế như: áp dụng phương thức điều chỉnh nhẹ
nhàng và hợp lý tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu và kiềm chế nhập
khẩu; phân loại nợ quá hạn để có biện pháp xử lý thích hợp với từng
loại; can thiệp khi cần thiết vào khả năng thanh toán của ngân hàng,
nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động của các ngân hàng, kể cả ngân hàng cổ
phần, không gây biến động xấu trong việc huy động vốn và công tác tín
dụng cũng như hoạt động bình thường của các doanh nghiệp trong sản xuất
và lưu thông hàng hóa. Đây là một vấn đề nhạy cảm, dễ gây tác động dây
chuyền không chỉ trong quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, nên tinh
thần chỉ đạo của Chính phủ là phải giải quyết một cách khẩn trương nhưng
thận trọng, tránh những biến động bất lợi trong hoạt động kinh tế và tâm
lý xã hội.
Thủ tướng Chính phủ đã cho thanh tra các ngân hàng thương mại, lập ban
chỉ đạo xử lý những vụ tiêu cực và các hậu quả nảy sinh và yêu cầu lãnh
đạo ngân hàng kiểm điểm nghiêm khắc. Đi đôi với những biện pháp trước
mắt nhằm khắc phục những mặt yếu kém, sơ hở trong công tác tín dụng, xử
lý những biến động về tỷ giá, Chính phủ đang chỉ đạo nghiên cứu đổi mới
thể chế và các chủ trương, giải pháp tạo chuyển biến cơ bản về tổ chức
và hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Năm là,
công cuộc cải cách bộ máy nhà nước nói chung, hệ thống hành chính nói
riêng và khu vực kinh tế nhà nước tiến triển chậm. Sự yếu kém về năng
lực cùng với tình trạng lỏng lẻo về kỷ luật và nhất là tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân tiếp diễn nghiêm trọng làm cho bộ
máy hành chính kém hiệu lực, giảm tín nhiệm với nhân dân. Tình trạng này
đang cản trở việc phát huy sức dân, gây khó khăn và làm nản chí các nhà
đầu tư nước ngoài, kìm hãm công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, tác
động trực tiếp đến việc thực hiện nhiệm vụ năm 1997.
Một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu và đổi mới cơ
chế, chuyển sang giai đoạn phát triển mới, khó tránh khỏi những trục
trặc trên con đường đổi mới và phát triển. Điều quan trọng là phải kịp
thời phát hiện, đánh giá và phân tích những hiện tượng mới nảy sinh,
những diễn biến khác mức bình thường để có chủ trương, biện pháp khắc
phục và rút ra bài học kinh nghiệm để ngăn ngừa sự tái diễn. Với tinh
thần đó, Chính phủ đã phân tích, xử lý một số tình hình và hiện tượng
nêu trên và tiếp tục chỉ đạo giải quyết trong việc thực hiện nhiệm vụ
năm 1997.
II- MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP LỚN ĐỂ
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 1997
Trong báo cáo tại kỳ họp Quốc hội tháng 10 năm 1996, Thủ tướng Chính phủ
đã nêu những giải pháp lớn nhằm phát huy sức mạnh toàn dân thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu hoàn thành tốt kế hoạch năm
1997. Qua những diễn biến mới của tình hình kinh tế, xã hội, tôi xin tập
trung trình bày một số vấn đề chủ yếu cần được phân tích rõ để tăng thêm
sự nhất trí và quyết tâm trong việc thực hiện các chủ trương, biện pháp
bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ năm 1997 theo Nghị quyết của Quốc hội. Các
biện pháp cụ thể đã được giải trình trong báo cáo bổ sung của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính gửi tới các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp
này.
1. Nâng cao hiệu quả của nền kinh tế và khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, đẩy mạnh sản xuất hướng về xuất khẩu
Đất nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới trong bối cảnh quốc tế diễn
biến mau lẹ và phức tạp; cuộc chạy đua về kinh tế và công nghệ đang lôi
cuốn mọi quốc gia và diễn ra sôi động trong khu vực. Nếu như lâu nay,
mối quan tâm của chúng ta hướng chính vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế để
ra khỏi khủng hoảng và suy thoái, thì nay, bước vào giai đoạn mới, sự
phát triển lại đòi hỏi phải chú trọng chất lượng của sự tăng trưởng, thể
hiện chủ yếu ở hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Những yếu tố
đó quyết định nhịp độ và tính bền vững của sự phát triển, song đó lại
chính là chỗ yếu của nền kinh tế nước ta hiện nay.
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đạt được nhịp độ tăng trưởng
khá, nhưng hiệu quả còn thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm nội địa còn
yếu. Trong công nghiệp, máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu chậm được
đổi mới; giá thành nhiều sản phẩm chủ yếu cao hơn giá quốc tế; sản xuất
còn nặng về thay thế nhập khẩu hơn là hướng về xuất khẩu (kể cả các
doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư trực tiếp); nhiều doanh nghiệp nhà
nước hoạt động kém hiệu quả, không ít doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Sản
xuất nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực, tuy tăng khá, nhưng kỹ
thuật và công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch còn lạc hậu, làm
giảm chất lượng và giá trị; cơ chế lưu thông và xuất khẩu còn nhiều
vướng mắc, gây thiệt thòi cho nông dân. Trong xuất khẩu, sản phẩm chưa
qua chế biến và hàng gia công còn chiếm tỷ trọng lớn.
Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, hướng mạnh về xuất
khẩu là một phương hướng chiến lược đã được Đại hội VIII của Đảng xác
định. Phương hướng đó phải được thấu suốt trong tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và đặt ra nhiều vấn đề phải nghiên cứu, giải quyết
từng bước. Trước hết, nó phải trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả
các cấp, các ngành, các đơn vị kinh tế và phải được thể hiện nhất quán
trong các quy hoạch phát triển, kế hoạch sản xuất, dự án đầu tư cũng như
các chính sách, cơ chế quản lý có liên quan.
Ngay trong năm 1997, cần triển khai thực hiện một số giải pháp nhằm tạo
một bước chuyển biến theo hướng đó:
Thứ nhất,
các ngành và các doanh nghiệp phải có sự đánh giá, phân tích đúng thực
chất hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và tiêu thụ của sản phẩm do
mình sản xuất cả trên thị trường nội địa và thị trường ngoài nước. Trên
cơ sở đó, soát xét lại và điều chỉnh quy hoạch phát triển và kế hoạch
đầu tư, đồng thời đẩy mạnh việc thực hiện các chủ trương, chính sách đã
ban hành về cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước (phân loại, sắp xếp
lại, cổ phần hóa, đổi mới tổ chức và quản lý, đặc biệt là quản lý tài
chính). Xác định rõ và thực hiện đúng nguyên tắc: các doanh nghiệp nhà
nước hoạt động theo cơ chế kinh doanh chỉ có thể tồn tại và phát triển
trên cơ sở làm ăn có hiệu quả; nếu thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh
toán thì phải xử lý theo Luật phá sản. Đối với các doanh nghiệp nhà nước
phục vụ công ích, Nhà nước có cơ chế riêng, song cũng phải giảm xuống
mức thấp nhất các hình thức tài trợ của Nhà nước mang tính bao cấp. Đây
là một chủ trương lớn, có nhiều vấn đề phải giải quyết về thể chế, chính
sách cụ thể, phải có kế hoạch tiến hành từng bước và phải hướng dẫn,
kiểm tra việc thực hiện một cách sát sao trong nhiều năm liền để khu vực
doanh nghiệp nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo bằng thực lực và
chất lượng, hiệu quả kinh doanh của chính mình.
Thứ hai,
đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa
phù hợp với lợi thế của từng vùng và với nhu cầu của thị trường; xác
định bước đi và cách làm thích hợp để từng bước công nghiệp hóa nông
nghiệp và nông thôn một cách có hiệu quả; áp dụng các biện pháp kiên
quyết để bảo vệ, phát triển và khai thác tốt tài nguyên rừng và biển,
cải thiện môi trường sinh thái; đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế và xã hội ở nông thôn bằng sức dân và các nguồn lực tại chỗ với
sự hướng dẫn và trợ giúp của Nhà nước.
Theo hướng đó, từ năm 1997, cùng với việc triển khai xây dựng các công
trình thủy lợi đã được đưa vào kế hoạch, Chính phủ đang chỉ đạo các
ngành, các cấp xây dựng và thực hiện các phương án, giải pháp phòng
tránh thiên tai một cách chủ động hơn. Chính phủ đã lập các ban chỉ đạo
thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã
hội ở ba vùng: đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc;
trong đó, tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (đặc biệt là thủy
lợi, giao thông, khu dân cư...) nhằm khai thác các thế mạnh và tiềm năng
dồi dào, phát triển và bảo vệ sản xuất, né tránh và hạn chế tối đa những
thiệt hại do thiên tai gây ra, từng bước ổn định và cải thiện đời sống,
phát triển văn hóa, xã hội ở các vùng này.
Tiếp tục tạo điều kiện và có chính sách khuyến khích mạnh việc nghiên
cứu và đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là về sinh học, vào nông
nghiệp, kể cả kỹ thuật phơi sấy, bảo quản, chế biến các loại nông, lâm,
hải sản nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, trước hết là sản
phẩm có ưu thế xuất khẩu.
Trước mắt cũng như lâu dài, sản xuất lương thực vẫn đóng vai trò cực kỳ
quan trọng đối với nước ta. Công tác quản lý nhà nước đối với các thành
phần kinh tế cũng như việc sử dụng lực lượng kinh tế nhà nước trong lĩnh
vực sản xuất và lưu thông lương thực phải tiếp tục được đổi mới nhằm kết
hợp hài hòa các lợi ích, bảo đảm lợi ích thỏa đáng cho người trồng lúa;
tăng năng suất, sản lượng lương thực một cách vững chắc đi đôi với nâng
cao chất lượng bảo quản, chuyển biến sau thu hoạch; tiêu thụ kịp thời
toàn bộ lúa hàng hóa cho nông dân; bảo đảm an toàn lương thực quốc gia
trong mọi tình huống; giao lưu thông suốt lương thực trong nước và tạo
thị trường ổn định ở nước ngoài, nâng cao hiệu quả xuất khẩu; kết hợp
việc kinh doanh lúa, gạo với cung ứng phân bón và các dịch vụ khác cho
sản xuất nông nghiệp. Năm 1997, Chính phủ điều chỉnh một bước cơ chế
xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón theo hướng tăng trách nhiệm và quyền
hạn cho các địa phương; chấn chỉnh các mặt tiêu cực và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các doanh nghiệp làm chức năng xuất khẩu gạo và nhập khẩu
phân bón nhằm bảo đảm tốt hơn lợi ích của nông dân.
Thứ ba,
xác định rõ chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, có tác dụng
giúp đỡ và thúc đẩy các doanh nghiệp vươn lên, chống thói quen ỷ lại và
phù hợp với tiến trình tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA; đồng thời,
thực hiện triệt để hơn các biện pháp chống hàng nhập lậu. Phải coi việc
tạo điều kiện và giúp đỡ cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, công
nghệ và quản lý để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm là cách bảo hộ
tích cực và hiệu quả nhất. Sức cạnh tranh của một ngành sản xuất hay một
doanh nghiệp không chỉ do nội lực của ngành hay doanh nghiệp đó mà còn
phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh tổng thể của các khâu từ khai thác
nguyên liệu đến sản xuất, vận tải, lưu thông và hoạt động tín dụng,
thanh toán của nền kinh tế. Những yếu tố đó đòi hỏi Nhà nước phải đẩy
mạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng, lành mạnh hóa hệ thống tài chính -
tiền tệ, có chính sách ưu đãi đi đôi với tạo điều kiện thuận lợi cho các
cơ sở sản xuất, nhất là về vốn, đất kinh doanh, công nghệ, đào tạo lao
động và năng lực tiếp thị.
Thứ tư,
bổ sung đồng bộ chính sách khuyến khích mạnh việc sản xuất hàng xuất
khẩu; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp làm hàng xuất
khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế đi đôi với đổi mới chính sách, thể chế
và thủ tục hành chính để các doanh nghiệp có đủ điều kiện được xuất,
nhập khẩu trực tiếp và tiếp cận với bạn hàng nước ngoài. Tiếp tục hoàn
thiện và tăng cường hiệu lực các công cụ quản lý vĩ mô; thu hẹp dần diện
mặt hàng xuất, nhập khẩu theo hạn ngạch áp dụng từng bước phương thức
đấu thầu công khai thay cho cách phân bổ hạn ngạch theo lối hành chính.
Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các hiệp hội xuất, nhập
khẩu theo ngành hàng nhằm bảo đảm quyền lợi cho cả người sản xuất và
người kinh doanh xuất, nhập khẩu. Từng bước hình thành quỹ hỗ trợ xuất
khẩu đối với một số ngành hàng chủ yếu; mở rộng các hình thức bảo hiểm
hàng hóa trong sản xuất, kinh doanh. Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu; sử
dụng có hiệu quả công cụ thuế để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không
thiết yếu, hàng xa xỉ không phù hợp với mức sống chung hiện nay, hoặc
những mặt hàng cần bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước.
2. Phát huy mạnh mẽ các nguồn đầu tư trong và ngoài nước
Chúng ta đều thấy rõ nhu cầu rất lớn và ngày càng tăng về vốn đầu tư để
bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội từ nay đến năm
2000. Năm 1997, nguồn vốn đầu tư phát triển có khả năng huy động được
trong toàn bộ nền kinh tế (kể cả vốn thu hút từ bên ngoài) dự kiến đạt
khoảng 93.000 tỷ đồng, bằng khoảng 29% GDP và tăng 29% so với năm 1996,
trong đó nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước chiếm 19-20%. Tiềm
năng về vốn và các nguồn lực khác trong nước còn khá lớn, nhưng nhiều
ngành và địa phương vẫn hướng nhiều hơn vào việc tranh thủ và thu hút
nguồn vốn nước ngoài. Chúng ta khẳng định tầm quan trọng và cần thiết
của nguồn vốn nước ngoài, nhất là trong thời kỳ đầu phát triển, song
cũng cần nhận rõ hầu hết vốn bên ngoài đưa vào nước ta, dù dưới hình
thức nào, cuối cùng thì nền kinh tế cũng phải trả. Vì vậy, chúng ta cần
khai thác tối đa mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển song phải thật sự
thấu suốt tư tưởng chỉ đạo của Đảng “vốn trong nước là quyết định, vốn
bên ngoài là quan trọng”. Theo tinh thần đó, năm 1997, cần thực thi một
số giải pháp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất,
khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư trực tiếp để phát
triển sản xuất, kinh doanh, nhất là đầu tư vào những vùng và lĩnh vực
cần ưu tiên. Bổ sung, sửa đổi chính sách khuyến khích đầu tư trong nước,
đơn giản hóa các thủ tục thành lập doanh nghiệp, tạo môi trường thuận
lợi và ổn định để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh. Ban hành quy chế đầu tư trong nước
theo hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) để tạo khuôn
khổ pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế góp vốn
đầu tư xây dựng những công trình cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội có khả
năng thu phí, hoàn vốn và có lãi (như đường giao thông, nhà ga, bến
cảng, sân bay, nhà máy nước, mạng lưới điện hạ thế, công trình vệ sinh,
trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí, v.v..). Các doanh nghiệp
được hưởng chế độ ưu đãi về thuế và các điều kiện thuận lợi khác khi
thực hiện dự án BOT.
Ban hành các văn bản pháp quy khuyến khích các địa phương tạo vốn đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội từ các nguồn như: tiền cho thuê
đất, tiền bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, thuế tài nguyên rừng, thuế sử
dụng đất nông nghiệp trồng lúa, thu về xổ số...
Thứ hai,
mở rộng nhiều hình thức huy động vốn, chuyển mọi khoản tiền nhàn rỗi
thành vốn hoạt động sinh lời; phát triển thị trường vốn trung và dài
hạn; đa dạng hóa và có cơ chế sử dụng nguồn vốn từ các quỹ bảo hiểm,
khuyến khích các hình thức bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm mùa màng, bảo
hiểm tài sản ... Tiếp tục phát hành trái phiếu công trình đối với một số
chương trình có khả năng thu hồi vốn, tập trung trước hết cho sản xuất
điện, xi măng và xây dựng công trình giao thông. Xúc tiến thành lập cơ
sở giao dịch chứng khoán với quy mô phù hợp, qua đó, rút kinh nghiệm để
mở rộng và nâng cao dần thị trường chứng khoán.
Khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng từ nhiều
nguồn đóng góp; việc quản lý, sử dụng quỹ phải chặt chẽ, công khai và có
hiệu quả.
Thứ ba,
huy động sức dân thông qua chế độ lao động công ích để xây dựng các công
trình cơ sở hạ tầng, trước hết là công trình giao thông, thủy lợi. Chính
phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh huy động lao động
nghĩa vụ, quy định cụ thể phương thức huy động, quản lý và sử dụng sức
dân đóng góp bằng công lao động hoặc thay bằng tiền, bảo đảm công bằng,
có hiệu quả, tránh tùy tiện, lãng phí.
Thứ tư,
đẩy mạnh tiến độ thực hiện và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nước ngoài.
Đối với nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA), cần phải khắc phục sự yếu
kém, chậm trễ trong việc chuẩn bị và thẩm định dự án và đấu thầu, giải
phóng mặt bằng... nhằm đẩy nhanh quá trình giải ngân và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn. Cụ thể, cần tăng cường công tác quy hoạch, kế hoạch,
nâng cao chất lượng xây dựng các công trình, dự án ODA để chủ động bố
trí nguồn vốn đối ứng trong nước; xây dựng quy chế thống nhất về đền bù,
giải phóng mặt bằng; giảm các thủ tục không cần thiết gây chậm trễ trong
khâu hình thành, thẩm định, phê duyệt dự án, rút vốn, mua sắm thiết
bị...; sửa đổi cơ chế tài chính đối với các dự án vay vốn ODA, công bố
quy trình rút vốn và mức phí dịch vụ, quy định khung lãi suất và thời
hạn cho vay lại; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan trong việc quản lý, điều phối và sử dụng vốn ODA theo nguyên tắc
một cửa; bồi dưỡng nghiệp vụ xây dựng, thẩm định dự án và tăng cường cán
bộ có phẩm chất, đủ trình độ tham gia quản lý dự án ODA.
Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cần khẩn trương triển khai
thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi) và Nghị định
hướng dẫn mới ban hành; hết sức quan tâm cải thiện môi trường đầu tư bao
gồm cả môi trường kinh tế vĩ mô và các điều kiện cần thiết cho hoạt động
đầu tư; khắc phục các thiếu sót và những quy định không hợp lý gây khó
khăn, phiền hà cho các nhà đầu tư, nhất là về thủ tục và quan hệ làm
việc của các cơ quan nhà nước có trách nhiệm; kịp thời xây dựng và công
bố danh mục các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh công tác
xúc tiến đầu tư. Đồng thời, phải chú trọng nhiều hơn tới hai khâu sau
khi cấp giấy phép: tiến độ thực hiện dự án và quản lý nhà nước đối với
các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động. Tổng kết hai
khâu này để bổ sung các biện pháp giúp đỡ các nhà đầu tư triển khai hoạt
động được thuận lợi, đồng thời đòi hỏi các nhà đầu tư chấp hành luật
pháp và thực hiện đúng các cam kết về chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi
trường, bảo đảm tỷ lệ hàng xuất khẩu; khi cần thiết, sử dụng chủ trương
tư vấn quốc tế để kiểm tra chất lượng và giá thiết bị, vật tư nhập khẩu
theo dự án; đánh giá thực trạng và có biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, thay
thế cán bộ tham gia quản lý dự án liên doanh với nước ngoài.
3. Triển khai thực hiện tốt Luật ngân sách nhà nước, phấn đấu hoàn thành
dự toán thu, chi ngân sách năm 1997 đã được Quốc hội thông qua
Luật ngân sách nhà nước bắt đầu áp dụng từ năm nay đã phân định rõ và ổn
định nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa Trung ương và chính quyền địa phương,
tăng cường thêm quyền chủ động của địa phương trong việc cân đối ngân
sách, khuyến khích địa phương tích cực khai thác nguồn thu và quản lý,
sử dụng tốt nhất ngân sách của mình. Trong năm đầu tiên áp dụng Luật
mới, các ngành, các cấp cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt. Qua
thực tiễn, chúng ta cần rút kinh nghiệm và tiếp tục nghiên cứu theo
hướng tiến tới phát huy đầy đủ chức năng và thẩm quyền của Quốc hội và
Hội đồng nhân dân trong việc quyết định ngân sách của từng cấp.
Rút kinh nghiệm các năm trước, để bảo đảm tính vững chắc, hạn chế tình
trạng bị động trong điều hành ngân sách, dự toán thu ngân sách năm 1997
được Quốc hội thông qua chỉ tăng 12,2% so với số thu ước thực hiện năm
1996. Đó là mức tăng thấp nhất kể từ năm 1991. So với số thu thực tế năm
1996, mức tăng còn thấp hơn (10,8%). Trong khi GDP dự kiến tăng 9-10% và
chỉ số giá tiêu dùng dưới 10% thì mức thu này không cao và phải được xác
định là mức tối thiểu. Các ngành, các cấp cần tích cực triển khai thực
hiện đồng bộ ngay từ đầu năm các biện pháp quản lý thu, tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, chống thất thu, chống trốn lậu thuế,
bảo đảm thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật, phấn đấu thu đạt
và vượt dự toán để cho thêm nguồn thực hiện các nhiệm vụ chi; trước hết,
cần tập trung vào những lĩnh vực có số thu lớn, những lĩnh vực còn thất
thu và còn nhiều tiềm năng.
Trong khu vực kinh tế quốc doanh, hiệu quả hoạt động của nhiều doanh
nghiệp còn thấp, công tác quản lý tài chính bị buông lỏng, tình trạng
chi tiêu sai chế độ, lãng phí, nợ đọng tiền thuế khá phổ biến. Năm 1996,
qua kiểm toán 11 công ty nhà nước, đã phát hiện nhiều trường hợp hạch
toán và chi sai chế độ, thu về cho ngân sách 153 tỷ đồng. Biện pháp cơ
bản và lâu dài để tăng thu từ khu vực này là nâng cao hiệu quả sản xuất,
kinh doanh, bồi dưỡng nguồn thu đi đôi với tăng cường kỷ luật tài chính,
trước mắt cần kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc về vốn, tài chính để
tạo điều kiện cho doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, đồng thời
khẩn trương xử lý quyết toán năm 1996 của các doanh nghiệp và đôn đốc
nộp kịp thời các khoản thu tồn đọng vào ngân sách.
Đối với khu vực ngoài quốc doanh, phương thức quản lý thu thuế chưa được
đổi mới mạnh mẽ, vai trò giám sát của các cơ quan nhà nước và của nhân
dân đối với hoạt động của khu vực này còn hạn chế, thất thu thuế còn
lớn. Các công ty tư nhân, các hộ kinh doanh phát triển nhanh nhưng mức
thu thuế đạt thấp. Ở nhiều địa phương, tỷ lệ hộ kinh doanh chưa được
quản lý thu thuế còn cao; doanh thu tính thuế cũng chưa được điều chỉnh
kịp thời cho sát thực tế, làm thất thu ngân sách. Thu từ khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh mấy năm qua không đạt kế hoạch là một khuyết điểm mà
ngành Thuế và cơ quan chính quyền các cấp phải khắc phục ngay trong năm
1997 bằng các biện pháp kiên quyết, đồng bộ.
Phải khắc phục tình trạng buôn lậu hàng hóa, gian lận thương mại và nợ
đọng thuế xuất, nhập khẩu. Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, trong năm
1996, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu qua biên giới thất thu khoảng
30-40%. Từ năm nay, sẽ không xét miễn, giảm hoặc hoãn nộp thuế đối với
các doanh nghiệp tự kinh doanh hàng nhập khẩu bị lỗ.
Tiếp tục xúc tiến chương trình cải cách chính sách thuế theo hướng đơn
giản, dễ thực hiện và dễ kiểm tra, ổn định, động viên hợp lý, công bằng
nhằm bảo đảm thu ngân sách, thúc đẩy thực hành tiết kiệm, tạo điều kiện
cho doanh nghiệp tích tụ vốn đầu tư phát triển. Chuẩn bị khẩn trương các
điều kiện để áp dụng thuế trị giá gia tăng thay cho thuế doanh thu, thuế
thu nhập công ty thay cho thuế lợi tức với chính sách ưu đãi có tác dụng
khuyến khích mạnh hơn đối với đầu tư phát triển, có phân biệt theo ngành
và vùng nhưng áp dụng thống nhất đối với các thành phần kinh tế trong
nước; điều chỉnh thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo yêu cầu đổi mới cơ
chế, chính sách xuất, nhập khẩu, chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong
nước và phù hợp với tiến trình Việt Nam tham gia AFTA cũng như chuẩn bị
gia nhập WTO. Triển khai thực hiện pháp lệnh về chế độ sổ sách, chứng từ
kế toán trong các đơn vị kinh doanh, đồng thời, mở rộng từng bước việc
áp dụng phương thức các đơn vị tự kê khai và nộp thuế, cơ quan thuế kiểm
tra những trường hợp nghi vấn và xử lý nếu có vi phạm luật thuế.
Về chi ngân sách, phải chấp hành nghiêm chỉnh quy định của Luật ngân
sách nhà nước, bảo đảm chi kịp thời, đúng chế độ, đúng dự toán. Chính
phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí của công và Pháp lệnh chống tham nhũng; đồng thời,
khẩn trương nghiên cứu ban hành các tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi
tiêu phù hợp với khả năng ngân sách; ban hành tiêu chuẩn sử dụng xe ô tô
con đối với từng cấp. Các cơ quan phải có chương trình cụ thể, thiết
thực để triển khai thực hiện chủ trương tiết kiệm. Ngành Tài chính phải
thông qua công tác quản lý chi tiêu ngân sách để kiểm tra, phát hiện và
xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm chế độ tài chính. Nâng cao vị
trí và kiện toàn cơ quan Kiểm toán nhà nước để tăng cường kiểm tra việc
quản lý, sử dụng tài sản và tài chính công.
4. Tăng cường quản lý nhà nước, đẩy mạnh các hoạt động khoa học - công
nghệ, giáo dục, văn hóa, xã hội
Trong năm 1997, Chính phủ tập trung chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ và
công tác chính dưới đây:
Một là,
triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 về khoa học - công nghệ và
giáo dục, trước hết là cụ thể hóa và thể chế hóa các chủ trương của Đảng
về các lĩnh vực này thành các chính sách, cơ chế quản lý và giải pháp tổ
chức thực hiện.
a) Nghiên cứu đổi mới và hoàn thiện bộ máy, cơ chế quản lý nhà nước về
giáo dục và đào tạo, xác định rõ trách nhiệm và thẩm quyền của
từng cấp chính quyền theo hướng phân cấp mạnh hơn cho Ủy ban nhân dân
các cấp. Hoàn thiện dự thảo Luật giáo dục để có thể trình Quốc hội trong
năm 1997. Xây dựng khung pháp lý cho việc thực hiện xã hội hóa giáo dục,
đào tạo. Sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ về học phí và học bổng;
lương và phụ cấp giáo viên; ngân sách và tín dụng cho giáo dục và đào
tạo. Ngoài kinh phí bảo đảm cho hoạt động thường xuyên của ngành giáo
dục và đào tạo, năm 1997, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo và tăng cường
đầu tư cho các trường sư phạm địa phương, các trường đại học trọng điểm,
đặc biệt là củng cố hệ thống đào tạo công nhân, cán bộ kỹ thuật.
Tăng cường chỉ đạo thực hiện và thanh tra việc chấp hành thể chế, lập
lại trật tự, kỷ cương trong giáo dục và đào tạo; giải quyết dứt điểm
trong năm 1997 tình trạng buông lỏng kỷ cương trong thi cử, tuyển sinh,
cấp bằng, công nhận học hàm, học vị; công khai hóa chế độ thu và các
khoản thu của trường, chấm dứt tình trạng thu tiền tùy tiện sai chế độ.
b) Xây dựng chiến lược khoa học và công nghệ đến năm 2010, 2020;
soạn thảo Dự Luật khoa học và công nghệ; xây dựng đề án hoàn thiện thể
chế và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về khoa học - công nghệ và môi
trường; tiếp tục sắp xếp lại các cơ quan, cơ sở nghiên cứu khoa học -
công nghệ; trong đó có các đơn vị nghiên cứu triển khai trong các doanh
nghiệp; bổ sung cơ chế hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ
ngoài quốc doanh.
Xác định rõ quan điểm coi kết quả nghiên cứu khoa học - công nghệ là
loại sản phẩm dịch vụ có giá trị cao, phải được trả giá xứng đáng, tương
ứng với hiệu quả thực tế. Hoàn chỉnh và thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp
về bảo hộ sở hữu trí tuệ. Đặt nền kinh tế trong môi trường cạnh tranh
lành mạnh và sôi động, tạo sức ép khách quan buộc các đơn vị sản xuất -
kinh doanh phải tìm đến khoa học và công nghệ để nâng cao sức cạnh
tranh. Trên cơ sở đó, đổi mới cơ chế hoạt động và bảo đảm kinh phí, cải
tiến chế độ tiền lương và thu nhập của cán bộ khoa học; thực hiện cơ chế
nhận đề tài và kinh phí nghiên cứu thông qua đặt hàng và đấu thầu, kể cả
các đề tài nghiên cứu cơ bản do Nhà nước đặt hàng và cấp kinh phí. Thu
nhập của các tổ chức và cán bộ khoa học phụ thuộc vào kết quả nghiên
cứu, không phân phối bình quân và không hạn chế mức tối đa. Xã hội và
Nhà nước tôn vinh và tạo điều kiện cho các nhà khoa học có thu nhập và
mức sống cao nhờ những cống hiến có hiệu quả của mình.
Hai là,
đẩy mạnh xã hội hóa và thực hiện công bằng xã hội trong các hoạt động
giáo dục, y tế, văn hóa.
Việc xã hội hóa các lĩnh vực này hướng vào xây dựng cộng đồng trách
nhiệm của các tổ chức và cá nhân, đi đôi với đa dạng hóa các nguồn đầu
tư, các hình thức hoạt động, tạo cơ hội cho các tầng lớp nhân dân được
tham gia một cách chủ động và bình đẳng vào các hoạt động văn hóa, xã
hội, thực hiện công bằng xã hội cả về mặt đóng góp, cống hiến và hưởng
thụ, đồng thời, thực hiện chính sách ưu đãi người có công, trợ giúp
người nghèo, vùng nghèo. Đẩy mạnh xã hội hóa đi liền với việc tăng dần
phần ngân sách nhà nước đầu tư cho các lĩnh vực này. Đó là một chính
sách lớn, lâu dài của Đảng và Nhà nước ta.
Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, cần đẩy mạnh cuộc vận động nâng cao ý
thức trách nhiệm và sự tham gia của toàn xã hội, của mỗi người đối với
sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Chính phủ sẽ quy định
khuôn khổ pháp lý cho việc đa dạng hóa các loại hình giáo dục và đào
tạo, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các trường
lớp bán công, dân lập và trường lớp tư thục ở một số bậc học, ngành học
phù hợp trên cơ sở bảo đảm sự quản lý của Nhà nước và chất lượng đào
tạo; quy định nguyên tắc chung về các khoản đóng góp của gia đình học
sinh, về chế độ học phí, học bổng, trợ cấp xã hội và tín dụng đào tạo để
các địa phương vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế; quy định các hình
thức và nghĩa vụ đóng góp của các doanh nghiệp cho sự nghiệp giáo dục,
đào tạo.
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và bảo vệ sức khỏe của nhân dân, nội
dung xã hội hóa hướng vào động viên và tổ chức tốt sự tham gia đóng góp
tích cực, chủ động của cả cộng đồng, tăng cường sự phối hợp liên ngành
và củng cố vai trò nòng cốt của ngành Y tế; đa dạng hóa các loại hình cơ
sở dịch vụ chăm sóc sức khỏe (các cơ sở của Nhà nước, tập thể, dân lập,
tư nhân, các bệnh viện có vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên
doanh hoặc đầu tư 100% vốn, các xí nghiệp dược phẩm tư nhân hoặc cổ
phần...), trong đó y tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, Nhà nước quản lý
thống nhất bằng thể chế. Phát triển các phong trào nhân dân tự giác tham
gia vào các hoạt động chăm sóc sức khỏe, vệ sinh môi trường.
Sửa đổi chế độ viện phí, chế độ bảo hiểm y tế bao gồm cả phương thức
thanh toán; đồng thời, có cơ chế bảo đảm cho người nghèo được khám và
chữa bệnh một cách bình đẳng.
Lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể thao có nhiều loại hình hoạt động; chủ
trương xã hội hóa cần phải nghiên cứu quy định cụ thể phù hợp với từng
loại hình, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các lĩnh vực
hoạt động này, vừa bảo đảm sự quản lý của Nhà nước. Khuyến khích nhân
dân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh doanh, các hiệp hội, câu
lạc bộ, v.v., góp vốn xây dựng các cơ sở và tài trợ các hoạt động văn
hóa, thể thao. Đối với các lĩnh vực hoạt động tác động tới tư tưởng, tâm
lý xã hội, việc thực hiện chủ trương xã hội hóa phải bảo đảm nguyên tắc
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa theo quan điểm, đường lối của Đảng,
không tạo cơ hội cho việc truyền bá những nội dung văn hóa độc hại.
Ba là,
thực hiện tốt chương trình xóa đói, giảm nghèo, lồng ghép với các
chương trình quốc gia khác (chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc,
chương trình giải quyết việc làm, chương trình nước sạch nông thôn, các
chương trình về y tế, giáo dục ...).
Mục tiêu năm 1997 là giảm được 300 nghìn hộ đói nghèo, tập trung chủ yếu
vào các vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ưu tiên
xây dựng các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội ở các xã
thuộc các vùng này.
Chính phủ đã đề ra chính sách, biện pháp và tăng thêm vốn (kể cả vốn tín
dụng ưu đãi) cho việc thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo năm 1997.
Các tỉnh phải xác định cụ thể mục tiêu xóa đói, giảm nghèo trên từng địa
bàn, sử dụng tốt các nguồn tài trợ của Trung ương và huy động thêm các
nguồn lực tại địa phương để thực hiện cho được mục tiêu đề ra.
Bốn là,
đẩy mạnh việc phòng và chống các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma túy trong
thanh niên và học sinh.
Công tác phòng và chống tệ nạn xã hội tuy đã đạt được một số kết quả
tích cực, song tệ nạn xã hội vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, chuyển
sang các hình thức kín đáo, trá hình.
Đặc biệt nghiêm trọng là nạn ma túy đã xâm nhập vào trường học từ phổ
thông cơ sở tới đại học; trong tổng số người nghiện có tới 80% là thanh
thiếu niên. Đã phát hiện một số cán bộ, nhân viên nhà nước tham gia buôn
bán ma túy.
Dư luận xã hội đòi hỏi bức bách Đảng và Nhà nước ta, các cấp, các ngành
và toàn xã hội phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để phòng chống có
hiệu quả các tệ nạn xã hội.
Phương châm cơ bản và lâu dài phải lấy phòng ngừa là chính, xây dựng môi
trường xã hội lành mạnh, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng xã, phường,
trường học không có tệ nạn xã hội, xây dựng các gia đình và cộng đồng
dân cư sống có văn hóa, coi đó là một công tác quan trọng thường xuyên
của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã
hội. Trong việc xây dựng nếp sống văn hóa trên cơ sở phát huy những giá
trị truyền thống quý báu của dân tộc, phải đặc biệt quan tâm tới gia
đình là tế bào của xã hội, tạo nền tảng bền vững để ngăn ngừa và loại
trừ các tệ nạn xã hội. Đây là nhiệm vụ của toàn xã hội, song trước hết
là của mỗi gia đình, của Hội Liên hiệp Phụ nữ, của từng cộng đồng dân
cư.
Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số chương, điều trong Bộ
luật hình sự để có cơ sở pháp lý trừng phạt đích đáng những kẻ chủ mưu
gây ra các tệ nạn xã hội, đặc biệt là những kẻ buôn bán, lôi kéo gây
nghiện ma túy.
Để chặn đứng tình trạng học sinh, sinh viên và thanh thiếu niên nghiện
ma túy, phải triển khai nghiêm túc kế hoạch liên ngành giữa các cơ quan
chính quyền có trách nhiệm trực tiếp, cùng với Đoàn Thanh niên, Hội Liên
hiệp Phụ nữ, các đoàn thể xã hội, nhà trường, hội cha mẹ học sinh, các
cơ quan báo chí, hình thành cơ chế tuyên truyền, giáo dục, kiểm tra giám
sát thường xuyên, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm khắc những vi
phạm.
Tổng kết những cách làm tốt ở các địa phương để tăng cường và nâng cao
hiệu quả chữa trị, giáo dục và tái hòa nhập cộng đồng những người nghiện
ma túy, người hành nghề mại dâm.
5. Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước và đổi mới công tác chỉ
đạo, điều hành
Công cuộc cải cách hành chính với khâu đột phá là cải cách thủ tục hành
chính được tiến hành mấy năm nay, tuy thu được một số kết quả, nhưng
chưa tạo được chuyển biến rõ nét và còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của
nhân dân. Cuộc sống cho thấy rõ nếu không cải cách một bước cơ bản nền
hành chính thì không thể đẩy mạnh công cuộc đổi mới và phát triển đất
nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Cải
cách hành chính trong năm 1997 và nối tiếp trong nhiệm kỳ mới của Quốc
hội và Chính phủ nhằm vào mấy hướng chính dưới đây:
Một là,
phải phát huy quyền làm chủ thực sự và huy động sự tham gia của nhân dân
vào việc cải cách nền hành chính nhà nước. Công khai hóa hoạt động quản
lý, điều hành để nhân dân giám sát Nhà nước và thực sự trở thành người
làm chủ chính quyền. Chính phủ sẽ xúc tiến việc ban hành quy chế cung
cấp thông tin cho dân biết về các hoạt động nhà nước không thuộc phạm vi
bí mật. Quy định rõ những loại quyết định và thủ tục hành chính cần được
niêm yết công khai tại các công sở hoặc phải công bố trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Mặt khác, cần định ra chế độ định kỳ hoặc bất
thường, thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước, doanh nghiệp và đơn
vị sự nghiệp báo cáo công khai tài chính cho cán bộ, công nhân, viên
chức trong cơ quan, đơn vị mình.
Hai là,
nền hành chính nhà nước phải hướng mạnh hơn nữa vào việc phục vụ yêu cầu
đổi mới và phát triển kinh tế, bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp
luật, bảo hộ các lợi ích hợp pháp của người kinh doanh đi đôi với thiết
lập trật tự, kỷ cương theo pháp luật trong đời sống kinh tế, xã hội.
Hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy sự hình thành và phát triển đồng bộ
các yếu tố của kinh tế thị trường, tạo lập môi trường cạnh tranh lành
mạnh và nâng cao hiệu lực xử lý các tranh chấp kinh doanh. Các thủ tục
đầu tư, lập nghiệp, thủ tục kinh doanh của dân và doanh nghiệp sẽ tiếp
tục được đơn giản hóa, rút gọn; tổng kết và mở rộng việc thực hiện cơ
chế “một cửa” trong việc giải quyết công việc cho dân.
Ba là,
đối với bộ máy hành chính cấp Trung ương, trọng tâm cải cách hướng vào
việc làm rõ chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ và các Bộ trong
kinh tế thị trường và hoàn thiện cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước đối
với tài sản công và các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước.
Thủ tướng và tập thể Chính phủ tiếp tục chuyển mạnh sang giải quyết các
vấn đề cơ bản trong công tác quản lý vĩ mô; trách nhiệm và thẩm quyền
điều hành, giải quyết vụ việc chủ yếu sẽ giao cho các Bộ trưởng và Chủ
tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đảm nhận.
Bốn là,
chăm lo kiện toàn chính quyền địa phương trên cơ sở phân cấp rõ ràng,
mạnh mẽ về thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, trước hết
là giữa Trung ương và cấp tỉnh.
Nhiệm vụ chính của Trung ương và các Bộ là chăm lo xây dựng thể chế, quy
hoạch, chiến lược phát triển chung cho toàn quốc và điều phối quy hoạch
phát triển vùng, đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm, hướng dẫn,
hỗ trợ và giám sát, thanh tra chính quyền địa phương thi hành thể chế;
việc tổ chức thực hiện thể chế chủ yếu thuộc trách nhiệm của chính quyền
địa phương. Chính phủ và các Bộ sẽ chuyển mạnh sang phương thức điều
hành và chỉ đạo công tác chủ yếu thông qua việc ban hành thể chế, hạn
chế can thiệp vào vụ việc cụ thể thuộc thẩm quyền của chính quyền địa
phương.
Trên cơ sở được phân công rành rọt về trách nhiệm và thẩm quyền với
nguồn tài chính đã được phân cấp một bước cơ bản theo Luật ngân sách,
chính quyền địa phương có được sự chủ động cần thiết để chăm lo phát
triển kinh tế, xã hội và bảo đảm trật tự trị an trên địa bàn. Cần đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp để
Hội đồng nhân dân thực sự quyết định được các kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội do Ủy ban nhân dân trình, nhất là các kế hoạch đầu tư bằng
nguồn vốn thuộc ngân sách địa phương.
Năm là,
kiện toàn chính quyền cấp cơ sở với những biện pháp đổi mới thực sự
trong tổ chức và hoạt động, coi đó là khâu trực tiếp phát huy quyền làm
chủ của dân và khơi dậy sức dân.
Phù hợp với tinh thần phân cấp nói trên, sẽ tiếp tục xem xét việc bố trí
lại nguồn thu cho cấp xã tương ứng với vai trò và nhiệm vụ mới. Đồng
thời, để thúc đẩy quá trình xã hội hóa các hoạt động y tế, giáo dục...,
cần phát triển các loại quỹ tự quản ở cơ sở như quỹ khuyến học, quỹ cứu
trợ xã hội..., nhằm huy động sự đóng góp của nhân dân và sự tài trợ của
những người hảo tâm; Nhà nước sẽ tài trợ một phần theo quy định chung.
Ngân sách xã và các quỹ này cần được đặt dưới sự giám sát công khai của
nhân dân. Việc phát triển các quỹ nói trên cần gắn chặt với việc phục
hồi và phát huy truyền thống quản lý làng xã Việt Nam bằng hương ước của
cha ông ta.
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Qua 10 năm đổi mới và tổng kết công tác của Chính phủ trong nhiệm kỳ
Quốc hội khóa IX, Thủ tướng cùng với tập thể Chính phủ nhận thức sâu sắc
bài học thành công quan trọng nhất là dựa vào dân, phát huy mạnh mẽ sức
dân trên cơ sở thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của dân. Đó cũng là tinh
thần xuyên suốt các chủ trương, giải pháp bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ
năm 1997 theo nghị quyết của Quốc hội.
Chính phủ mong rằng các ngành, các cấp chính quyền, phối hợp chặt chẽ
với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, thấu suốt tinh thần đó
trong các chương trình, kế hoạch cụ thể để tổ chức thực hiện tốt các chủ
trương, biện pháp đã nêu trên, với số vốn có hạn nhưng làm được nhiều
việc, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu đã đề ra cho năm 1997 và tạo đà
cho những năm sau.
Xin cảm ơn sự chú ý của các đại biểu.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội