LỊCH SỬ QUỐC HỘI VIỆT NAM Tập 2 (1960 - 1976)

 

QUỐC HỘI NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ KHOÁ III (1964-1971)

 

I. BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHOÁ III.
 QUỐC HỘI BẦU CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC

 Bốn năm hoạt động của Quốc hội khóa II là một chặng đường lịch sự phát triển mới về mặt tổ chức nhà nước, về vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo Hiến pháp năm 1959 và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tháng 9-1960 nhằm đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.

Vào những tháng cuối nhiệm kỳ của Quốc hội khóa II, tình hình cách mạng Việt Nam đang có những biến chuyển mạnh mẽ. Miền Bắc đang đẩy mạnh thi đua thực hiện kế hoạch năm thứ 4 của kế hoạch kinh tế 5 năm lần thứ nhất. Việc xây dựng kinh tế và văn hóa đạt được những thành tựu to lớn, đời sống của nhân dân về mọi mặt được nâng lên rõ rệt. Xã hội miền Bắc là xã hội của những người lao động làm chủ, nêu cao tinh thần cần, kiệm, tự lực xây dựng chế độ mới, cuộc sống mới. Miền Bắc tiếp tục phát huy vai trò của căn cứ địa, hậu phương chiến lược của chiến tranh cách mạng miền Nam. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" lên những bước cao mới. Sau khi kế hoạch Xtalây-Taylo bị phá sản, Mỹ đề ra kế hoạch Giônxơn-Mác Namara, một kế hoạch bình định miền Nam có trọng điểm. Song, càng đẩy mạnh chiến tranh, Mỹ càng thất bại nặng nề, và lao sâu vào "đường hầm không lối thoát". Trong bối cảnh đó, nhân dân miền Bắc đẩy mạnh phong trào thi đua "mỗi người làm việc bằng hai", xây dựng miền Bắc, chi viện cho miền Nam, tiến tới kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và bầu cử Quốc hội khóa III.

1. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 26- 4-1964

Ngày 24-2-1964, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định cụ thể về ngày bầu cử, số đại biểu được bầu, số đại biểu dành cho các dân tộc thiểu số, số đơn vị bầu cử ở từng địa phương, thành lập Hội đồng bầu cử Trung ương. Cuối tháng 3-1964, tại cuộc Hội nghị chính trị đặc biệt họp ở Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ cần "tăng cường không ngừng chính quyền nhân dân. Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước. Cần tiến hành tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá III sắp tới"[1].

Việc chuẩn bị và vận động bầu cử được triển khai rộng khắp, chu đáo và đúng pháp luật. Danh sách cử tri và các vị ứng cử đại biểu Quốc hội đã được niêm yết. Các cuộc tiếp xúc với đại biểu cử tri của các vị ứng cử đại biểu Quốc hội được tổ chức ở khắp các đơn vị bầu cử.

Tối ngày 14-4-1964, Uỷ ban hành chính và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hà Nội đã tổ chức Đại hội nhân dân toàn thành phố Hà Nội hoan nghênh các vị ứng cử đại biểu Quốc hội khóa III ở Hà Nội. Hơn 7.000 đại biểu nhân dân Thủ đô đến dự. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và đông đủ các ửng cử viên đại biểu Quốc hội khóa III đến tiếp xúc với đại biểu cử tri tại đại hội. Phát biểu với Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Lá phiếu của người cử tri tuy khuôn khổ nó bé nhỏ nhưng giá trị của nó thì vô cùng to lớn. Nhân dân ta đã trải qua biết bao gian khổ, hy sinh biết bao xương máu trong cuộc cách mạng đánh đổ thực dân và phong kiến mới giành được nó. Nó chứng tỏ chế độ dân chủ và tự do của Nhà nước ta và quyền làm chủ thật sự của mỗi người công dân ta. Vì vậy, đi bỏ phiếu trong cuộc tổng tuyển cử vừa là quyền lợi quý báu, vừa là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người cử tri"[2].

Ngày 26-4-1964, cuộc bầu cử Quốc hội khóa III được tiến hành trên toàn miền Bắc. Đây là một ngày hội lớn, ngày hội dân chủ của nhân dân. Tuyệt đại đa số cử tri đi bỏ phiếu. Ở Vĩnh Linh, tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối diện với miền Nam, đồng bào Vĩnh Linh đi bầu cử không chỉ thực hiện quyền làm chủ riêng của mình mà còn trực tiếp vì đồng bào miền Nam đang đấu tranh giành lại quyền độc lập dân tộc, quyền dân chủ tự do của nhân dân, của con người. Ở nhiều đơn vị bầu cử, có nhiều cử tri cao tuổi, tự mình chống gậy đến địa điểm bầu cử, tự tay mình bỏ phiếu vào hòm phiếu như cụ Lăng Văn Ta, 98 tuổi ở hợp tác xã Đại Tài, Tam Dương, Vĩnh Phúc; cụ Vũ Thị Cúc, 104 tuổi, khu phố Trưng Vương thị xã Thái Nguyên. Ở Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu A24 trụ sở Bộ Nông nghiệp, phố Ngọc Hà, Ba Đình. Sau đó, Người đi thăm một số khu vực bỏ phiếu ở Thủ đô như C29 Đống Đa; xã Xuân La và Nhật Tân huyện Từ Liêm.

Theo công bố chính thức của Hội đồng Bầu cử Trung ương, trong tổng số 59 đơn vị bầu cử đã có 8.580.002 cử tri trên tổng số 8.775.002 cử tri ghi trong danh sách đã đi bầu cử, đạt tỷ lệ 97,77%. Có nhiều khu vực bỏ phiếu, số cử tri đi bầu đạt tỷ lệ 100%. Ở Hà Nội, có 634 khu vực bỏ phiếu, thì 433 khu vực đạt 100%. Ở thị xã Ninh Bình, 100% cử tri đi bỏ phiếu. Trong số 31 tỉnh, khu, thành phố ở miền Bắc, thì tám địa phương có trên 99%, sáu địa phương có trên 98%, tám địa phương có trên 97%, sáu địa phương có trên 96%, hai địa phương có trên 95% và một địa phương có trên 93% cử tri đi bỏ phiếu. Ở các các vùng đồng bào theo đạo Thiên chúa và ở các tỉnh miền núi, nhiều nơi có 100% cử tri đi bỏ phiếu. Ngày 11-5-1964 Hội đồng bầu cử đã tổng kết và công bố kết quả bầu cử:

1. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa III ở tất cả các địa phương đã được tiến hành theo đúng luật, bảo đảm tính chất thật sự dân chủ của cuộc bầu cử. Các cơ quan nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi công dân đều có thể sử dụng đầy đủ quyền bầu cử và ứng cử của mình. Tất cả những người có quyền bầu cử đều được ghi tên vào danh sách cử tri. Những người làm công tác bầu cử đều có tinh thần trách nhiệm và nghiêm chỉnh chấp hành Luật Bầu cử. Việc vận động bầu cử được tiến hành hoàn toàn tự do và đúng pháp luật.

2. Cuộc bầu cử được toàn thể nhân dân nhiệt liệt tham gia. Tuyệt đại đa số cử tri đi bỏ phiếu. Cuộc bầu cử diễn ra trong không khí phấn khởi và có trật tự. Nhân dân biểu thị rõ rệt tinh thần làm chủ và ý thức trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn và bầu những đại biểu xứng đáng vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.

3. Ở tất cả các đơn vị bầu cử, số phiếu bầu đều quá nửa số cử tri ghi trong danh sách; số đại biểu trúng cử đều đủ số quy định cho mỗi đơn vị, không có đơn vị nào phải bầu lại hoặc bầu thêm.

4. Kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá III tỏ rõ sự nhất trí về chính trị và tinh thần của xã hội miền Bắc, sự tín nhiệm của nhân dân đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đối với sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tổng số đại biểu trúng cử là 366, trong đó có: 60 đại biểu là các tộc thiểu số. Về đại biểu các tộc thiểu số, lần này Quốc hội có thêm đại biểu của các tộc Lô Lô, Sán Chỉ, Puộc, mà trước đây chưa có, 62 đại biểu là phụ nữ, 71 đại biểu từ 21 đến 31 tuổi, 71 đại biểu là công nhân, 90 đại biểu là nông dân, ba đại biểu là tư sản dân tộc, 18 đại biểu là quân nhân, 98 đại biểu làm công tác khoa học kỹ thuật, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tám đại biểu là người lãnh đạo của các tôn giáo. Số đại biểu tôn giáo lần này của Quốc hội có thêm đại biểu của Cao Đài, Hoà Hảo và Tin Lành.

Trong số 366 đại biểu Quốc hội khóa III, thì: Hà Nội 36 đại biểu, Hải Phòng 22 đạt biểu, Lai Châu năm đại biểu, Sơn La sáu đại biểu, Nghĩa Lộ 3 đại biểu, Hà Giang 5 đại biểu, Tuyên Quang bốn đại biểu, Thái Nguyên chín đại biểu, Cao Bằng sáu đại biểu, Bắc Cạn ba đại biểu, Lạng Sơn  năm đại biểu, Lào Cai bốn đại biểu, Yên Bái bốn đại biểu, Hoà bình sáu đại biểu, Phú Thọ 11 đại biểu, Sơn Tây tám đại biểu, Vĩnh Phúc 10 đại biểu, Hà Bắc 18 đại biểu, Quảng Ninh 11 đại biểu, Hải Dương 17 đại biểu, Hưng Yên 12 đại biểu, Hà Đông 16 đại biểu, Hà Nam 11 đại biểu, Thái Bình 23 đại biểu, Nam Định 22 đại biểu, Ninh Bình 9 đại biểu, Thanh Hóa 32 đại biểu, Nghệ An 25 đại biểu, Hà Tĩnh 14 đại biểu, Quảng Bình bảy đại biểu, Vĩnh Linh ba đại biểu. Ngoài 366 đại biểu được bầu còn có 89 đại biểu Quốc hội khóa I thuộc các tỉnh miền Nam vĩ tuyến 17 được kéo dài nhiệm kỳ, Quốc hội khóa III có 455 đại biểu thay mặt cho nhân dân cả nước phấn đấu để xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, dân chủ và giàu mạnh.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, với sự ủng hộ và giám sát thường xuyên của nhân dân, Quốc hội khoá III ra sức phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử cao cả của mình.

2. Quốc hội (khoá III) họp bầu các cơ quan lãnh đạo nhà nước

Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa III khai mạc sáng ngày 27-6-1964 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội.

Về dự kỳ họp này có 429/455 đại biểu. Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh đọc diễn văn khai mạc.Thay mặt Quốc hội, Chủ tịch nhiệt liệt chúc mừng các vị đại hiểu, các vị khách và các bạn quốc tế đến tham dự buổi khai mạc kỳ họp. Chủ tịch trình bày các vấn đề mà Quốc hội sẽ thảo luận và thông qua các báo cáo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, báo cáo của Chính phủ, bầu lại các chức vụ và các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước: Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước và các thành viên trong Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ và các thành viên trong Hội đồng Chính phủ, Hội đồng Quốc phòng, v.v..

Tiếp đó, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Hoàng Văn Hoan đọc báo cáo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình và kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa III.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Hội đồng Chính phủ, đọc báo cáo của Chính phủ. Thủ tướng nêu lên tình hình các địa phương, những tiến bộ to lớn của nông thôn miền Bắc từ khi có phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Thủ tướng phân tích những khả năng to lớn của nền nông nghiệp miền Bắc nước ta thể hiện qua các vùng đồng bằng, trung du, miền núi, ven biển và những công việc phải làm để khai thác những khả năng to lớn đó. Thủ tướng cũng nêu lên những thành tựu của công nghiệp và những phương hướng cần phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo của công nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân. Thủ tướng dành phần thứ tư của báo cáo để nêu lên những thất bại của Mỹ và tay sai ở miền Nam Việt Nam. Để tìm lối thoát, chúng tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa chiến tranh xâm lược ở miền Nam, tăng cường can thiệp vào Lào và Campuchia. Thủ tướng nhắc lại quan điểm của Chính phủ ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu tại Hội nghị Chính trị đặc biệt:

1. Chính phủ Mỹ cũng như Chính phủ mọi nước tham gia Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương phải làm đúng lời cam kết của mình: tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Cũng như Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính quyền miền Nam Việt Nam phải thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản trọng yếu về mặt quân sự trong Hiệp nghị Giơnevơ: không tham gia liên minh với nước ngoài, không cho nước ngoài lập căn cứ quân sự, không cho nhân viên quân sự nước ngoài vào đất mình.

2. Chính phủ Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, phải rút quân đội và vũ khí Mỹ ra khỏi miền Nam, công việc nội bộ miền Nam Việt Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết theo chương trình của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

3. Vấn đề hòa bình, thống nhất nước Việt Nam là công việc của dân tộc Việt Nam. Vấn đề đó sẽ được giải quyết theo tinh thần bản Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chương trình của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

Quốc hội cũng nghe Phó Thủ tướng Chính Phủ Lê Thanh Nghị, thay mặt Hội đồng Chính phủ báo cáo về phong trào thi đua yêu nước. Phó Thủ tướng nêu rõ: từ trong kháng chiến chống Pháp cũng như khi hòa bình được lập lại, Đảng và Chính Phủ hết sức chú trọng đến việc phát triển phong trào thi đua yêu nước khơi dậy từ tháng 6-1948 đã có tác động rất lớn trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt và trong sự nghiệp khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, cải thiện đời sống nhân dân. Phong trào thi đua yêu nước của nhân dân ta ở miền Bắc ngày càng phát triển mạnh mẽ, phong trào thi đua yêu nước của đồng bào miền Nam ngày càng mở rộng. Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta nhất định sẽ thành công.

Chủ nhiệm Uỷ ban Thống nhất của Chính Phủ Nguyễn Văn Vịnh, thay mặt Hội đồng Chính phủ báo cáo về tình hình miền Nam và tình hình đấu tranh thống nhất nước nhà. Tổng Thư kí Uỷ banThường vụ Quốc hội Tôn Quang Phiệt trình bày dự án thành lập Uỷ ban Văn hóa xã hội của Quốc hội.

Thay mặt Uỷ ban Thẩm tra tư cách đại biểu, Hà Thị Quế báo cáo trước Quốc hội kết quả công việc thẩm tra. Uỷ ban đã nghiên cứu báo cáo tổng kết của Hội đồng Bầu cử, đối chiếu với 59 biên bản sơ kết của các ban bầu cử, và đã đi đến kết luận: cuộc bầu cử Quốc hội khoá III ngày 26-4-1964 ở 59 đơn vị bầu cử là hoàn toàn hợp pháp. Quốc hội đã xác nhận tư cách đại biểu của 366 đại biểu trúng cử theo biên bản tổng kết của Hội đồng Bầu cử.

Ngày 3-7-1964, Quốc hội khóa III đã tiến hành bầu các vị lãnh đạo Nhà nước và thành lập Chính phủ mới.

 

Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước Việt Nam
 Dân chủ Cộng hoà

 

Chủ tịch:                                     Hồ Chí Minh

Phó Chủ tịch:                              Tôn Đức Thắng


 

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

 

Chủ tịch:                                     Trường Chinh

Phó Chủ tịch:                                       Hoàng Văn Hoan

Nguyễn Xiển

Trần Đăng Khoa

                                                  Nguyễn Thị Thập

Chu Văn Tấn

Nguyễn Văn Hưởng

Tổng Thư ký:                             Tôn Quang Phiệt

 Ủy viên:                                     Trần Xuân Bách

Hồ Đắc Di

Nguyễn Xuân Nguyên

Y Ngông Niêk Đăm

Linh mục Hồ Thành Biên

Pháp sư Thích Trí Độ

Lò Văn Hạc

Nguyễn Khoa Diệu Hồng

                               Nguyễn Hữu Khiếu

Trần Huy Liệu

Trương Tấn Phát

Vũ Quang

Trần Danh Tuyên

Trần Đình Tri

Nguyễn Tấn Gi Trọng

 Ủy viên dự khuyết:                     Nguyễn Văn Chi

Bồ Xuân Luật

Bùi Hưng Gia

 

Hội đồng Chính phủ

 

Thủ tướng Chính phủ:                          Phạm Văn Đồng

Phó Thủ tướng:                                    Phạm Hùng

Võ Nguyên Giáp

Phan Kế Toại

Nguyễn Duy Trinh

Lê Thanh Nghị

 

Chủ nhiệm Văn phòng Thủ tướng

 

Văn phòng Nông nghiệp:             Trần Hữu Dực

Văn phòng Công nghiệp:             Lê Thanh Nghị

Văn phòng Tài chính -

thương nghiệp:                                      Phạm Hùng

Văn phòng Nội chính:                           Trần Quốc Hoàn

Văn phòng Văn giáo:                            Lê Liêm

 

Bộ trưởng các bộ, Chủ nhiệm các Uỷ ban nhà nước và
 thủ trưởng các cơ quan ngang bộ

Bộ trưởng các Bộ

 

Bộ Nội vụ:                                 Ung Văn Khiêm

Bộ Ngoại giao:                                     Xuân Thủy

Bộ Quốc phòng:                         Võ Nguyên Giáp

Bộ Công an:                               Trần Quốc Hoàn

Bộ Nông nghiệp:                         Dương Quốc Chính

Bộ Nông trường:                         Nghiêm Xuân Yêm

Bộ Thủy lợi:                               Hà Kế Tấn

Bộ Công nghiệp nặng:                          Nguyễn Văn Trân

Bộ Công nghiệp nhẹ:                            Kha Vạng Cân

Bộ Kiến trúc:                              Bùi Quang Tạo

Bộ Giao thông vận tải:                          Phan Trọng Tuệ

Bộ Lao động:                                       Nguyễn Văn Tạo

Bộ Tài chính:                              Hoàng Anh

Bộ Nội thương:                                     Nguyễn Thanh Bình

Bộ Ngoại thương:                        Phan Anh

Bộ Văn hóa:                               Hoàng Minh Giám

Bộ Giáo dục:                              Nguyễn Văn Huyên

Bộ Y tế:                                               Phạm Ngọc Thạch


 

Chủ nhiệm các Uỷ  ban

 

Uỷ ban Kế hoạch nhà nước:                  Nguyễn Duy Trinh

Uỷ ban Khoa học nhà nước:                  Nguyễn Duy Trinh

Uỷ ban Dân tộc:                                    Lê Quảng Ba

Uỷ banThống nhất:                               Nguyễn Văn Vinh

Uỷ ban Kiến thiết cơ bản nhà nước:       Trần Đại Nghĩa

Tổng thanh tra Uỷ ban Thanh tra

của Chính phủ:                                     Nguyễn Lương Bằng

Tổng Giám đốc Ngân hàng

nhà nước Việt Nam:                              Tạ Hoàng Cơ

 

Hội đồng quốc phòng

 

Chủ tịch:                                     Hồ Chí Minh

Phó Chủ tịch:                                       Phạm Văn Đồng

Võ Nguyên Giáp

Ủy viên:                                      Nguyễn Chí Thanh

Nguyễn Duy Trinh

Văn Tiến Dũng

Trần Quốc Hoàn

Nguyễn Văn Trân

Chu Văn Tấn

Song Hào

 

Chủ nhiệm các Uỷ ban của Quốc hội

 

Uỷ ban Dự án pháp luật:              Hoàng Văn Hoan

Uỷ ban Kế hoạch và ngân sách:   Trần Danh Tuyên

Uỷ ban Dân tộc:                          Chu Văn Tấn

Uỷ ban Thống nhất:                              Trần Huy Liệu

Uỷ ban Văn hóa xã hội:               Nguyễn Văn Hưởng

Quốc hội đã thông qua:

- Nghị quyết của Quốc hội về Báo cáo chính trị của Hội đồng Chính phủ.

- Bản Tuyên bố của Quốc hội về tình hình miền Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt các vị lãnh đạo nhà nước phát biểu ý kiến. Người cảm ơn Quốc hội đã tỏ lòng tín nhiệm và hứa với Quốc hội: "Vì Tổ quốc, vì nhân dân, chúng tôi sẽ luôn luôn cố gắng làm tròn trách nhiệm của mình, quyết không phụ lòng tin cậy của đồng bào và Quốc hội”[3]. Người nói những cố gắng và những thành tích to lớn của nhân dân ta về mọi mặt đã đạt được thật đáng phấn khởi: "Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp cực kỳ vẻ vang, nhưng phải lâu dài và gian khổ. Nhân dân ta cần phải có tinh thần phấn đấu bền bỉ, quyết tâm vượt mọi khó khăn để giành lấy những thắng lợi mới rực rỡ hơn nữa"[4]. Người đề nghị: "Các đại biểu Quốc hội sẽ động viên mạnh mẽ và sâu rộng toàn dân ta thấm nhuần tinh thần làm chủ tập thể, hăng hái thi đua hoàn thành tốt kế hoạch nhà nước năm 1964, quyết giành một vụ mùa thắng lợi lớn và ra sức chuẩn bị tốt để sang năm 1965, hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất"[5]. Người đề nghị Quốc hội: "nhiệt liệt hoan hô đồng bào miền Nam anh hùng, nhiệt liệt hoan hô các chiến sĩ miền Nam anh dũng"[6].

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vạch trần bản chất và các thủ đoạn xâm lược của đế quốc Mỹ đối với Việt Nam. Người nói: "Tổng thống Mỹ Giônxơn thường rêu rao "hòa bình và tự do". Tôi hỏi ông: quân đội Mỹ, chó ngao Mỹ, bom đạn Mỹ, thuốc độc Mỹ đã đưa sang giết hại nhân dân miền Nam Việt Nam, phải chăng đó là hòa bình? Phá hoại Hiệp định Giơnevơ, can thiệp vào nội bộ của Việt Nam, ủng hộ bọn buôn dân bán nước hòng chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam, phải chăng đó là tự do? Chính sách xâm lược của các ông là trái với chính nghĩa, trái với nhân đạo, trái với Hiến pháp của nước Hoa Kỳ. Ông hãy trả lời câu hỏi đó trước nhân dân Việt Nam, nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới.

Những lời đe dọa của đế quốc Mỹ chỉ làm cho nhân dân miền Bắc nước ta càng thêm căm thù chúng, càng nâng cao cảnh giác và sẵn sàng đập tan một hành động khiêu khích và phá hoại của chúng để bảo vệ Tổ quốc chúng ta"[7].
 

II. QUỐC HỘI VỚI SỰ NGHIỆP TIẾP TỤC XÂY DỰNG
 CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC TRONG THỜI CHIẾN

 1. Quyết định các kế hoạch kinh tế thời chiến

Đế quốc Mỹ ngày càng bị thất bại nặng nề. Cuối năm 1964 đầu năm 1965 chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ đã bị phá sản về căn bản. Quân đội của Chính quyền Sài Gòn, công cụ chủ yếu của chiến tranh đặc biệt đang đứng trước nguy cơ tan rã hoàn toàn. Sau chiến thắng ấp Bắc, quân và dân ta đã nhanh chóng tiến lên đánh lớn. Đầu năm 1965, ta giành thắng lợi vang dội ở Bình Giã, tiêu diệt gọn cả trung đoàn và tiểu đoàn của địch. "Ấp chiến lược" xương sống của Chiến tranh đặc biệt cũng bị phá sản về căn bản, 4/5 đất đai miền Nam đã được giải phóng.

Ở thành thị phong trào đấu tranh chính trị sôi sục thu hút hàng triệu người, tiêu biểu nhất là Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn cũng làm cho hậu phương của Chính quyền Sài Gòn hỗn loạn.

Để cứu vãn tình thế, ngày 5-8-1964 Mỹ gây ra "sự kiện Vịnh Bắc Bộ" để lấy cớ ném bom miền Bắc, và từ ngày 7-2-1965 lấy cớ "trả đũa", chúng dùng không quân và hải quân ồ ạt ném bom miền Bắc, tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đối với miền Bắc nước ta. Ở miền Nam, chúng chuẩn bị đưa quân Mỹ vào để chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" - một hình thức cao của chiến tranh thực dân kiểu mới. Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra cả hai miền Nam Bắc nước ta, leo những nấc thang cực kỳ nguy hiểm, đe dọa nghiêm trọng cả hòa bình và an ninh thế giới.

Giữa bối cảnh đó, từ ngày 25 đến 27-3-1965, Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III đã họp và quyết nghị về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt của Đảng, Nhà nước và toàn dân Việt Nam. Nghị quyết nêu rõ: "với những âm mưu và hành động mới của đế quốc Mỹ, tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hòa bình đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền; trong cuộc chiến tranh cách mạng yêu nước của nhân dân cả nước chống đế quốc Mỹ, miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn nhưng nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam "... [8]

"Nhiệm vụ cấp bách của ta ở miền Bắc lúc này là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho hợp với tình hình mới và để cho miền Bắc có đủ sức mạnh nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu bảo vệ miền Bắc, chống lại các cuộc ném bom bắn phá và phong tỏa của địch; nhằm sẵn sàng đối phó với khả năng địch mở rộng chiến tranh ở bất cứ mức độ nào ở miền Nam, miền Bắc cũng như ở Lào; nhằm đáp ứng yêu cầu chi viện to lớn cho cách mạng miền Nam trong tình hình mới, đồng thời vẫn đáp ứng yêu cầu tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Khẩu hiệu chung của miền Bắc là: xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam". [9]

Ngày 10-4-1965, phát biểu trước Kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa III, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Nhân dân ta đang sống trong một thời kỳ lịch sử vô cùng oanh liệt. Nước ta có vinh dự lớn là một tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa và của các dân tộc trên thế giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới.

Nhân dân ta chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập riêng của mình mà còn vì tự do, độc lập chung của các dân tộc và hòa bình trên thế giới...

Lúc này chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận dân tộc giải phóng, người đại diện chân chính và duy nhất của nhân dân miền Nam, đồng bào và chiến sĩ miền Nam anh hùng đang tiến lên giành những thắng lợi ngày càng to lớn để giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc.

Quân và dân ta ở miền Bắc vừa hăng hái thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa anh dũng chiến đấu bảo vệ miền Bắc, vừa hết lòng ủng hộ miền Nam...".[10]

Người kêu gọi đồng bào và chiến sĩ ta:

"Hãy luôn luôn nâng cao chí khí anh hùng cách mạng, tinh thần cảnh giác và chiến đấu!...

"Tất cả chúng ta hãy đoàn kết nhất trí, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!"

"Vì tương lai của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, đồng bào và chiến sĩ cả nước anh dũng tiến lên!”[11].

Nhằm bảo đảm cho hoạt động của Nhà nước ta thích ứng với tình hình của thời chiến, theo đề nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ và căn cứ vào các Điều 45, Điều 50 và Điều 53 của Hiến pháp, ngày 10- 4-1965 Quốc hội đã thông qua nghị quyết giao thêm cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội một số quyền hạn sau:

- Xét và quyết định việc triệu tập Quốc hội vào lúc thuận tiện trong trường hợp Quốc hội không thể họp thường lệ;

- Quyết định kế hoạch kinh tế nhà nước; xét duyệt và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách của Nhà nước:

- Ấn định các thứ thuế;

- Phê chuẩn việc phân vạch địa giới các tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc Trung ương.

Từ năm 1965 trở đi, các nhiệm vụ lớn của Nhà nước được quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội kịp thời giải quyết.

Ngày 10-8-1965, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết thông qua kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân năm 1965 của Hội đồng Chính phủ.

Ngày 16-4-1966, trong bản Báo cáo chính trị của Hội đồng Chính phủ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình đọc tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 3 của Quốc hội đã nêu rõ công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của miền Bắc phải giải quyết ba yêu cầu:

- Ra sức động viên mọi lực lượng, phát huy khả năng tiềm tàng, bảo đảm yêu cầu của chiến tranh để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

- Bảo đảm các nhu cầu thiết yếu về đời sống, bồi dưỡng sức dân để sản xuất và chiến đấu lâu dài.

- Qua sản xuất và chiến đấu, làm cho nền kinh tế của ta càng thêm mạnh.

Cùng ngày 16-4-1966, Nguyễn Côn, Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch nhà nước[12] đọc Báo cáo của Hội đồng Chính phủ về phương hướng,  nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế hai năm 1966-1967 và kế hoạch nhà nước năm 1966.

Từ thực tiễn thắng lợi của việc thực hiện kế hoạch năm 1965 và hoàn thành thắng lợi những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965) Hội đồng Chính phủ khẳng định: "Miền Bắc nước ta có đủ sức đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,  phối hợp với đồng bào miền Nam để bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam, nhân dân cả nước ta có đủ sức để đánh bại hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược trong mọi tình thế để tiến tới thống nhất Tổ quốc"[13].

Báo cáo trình bày kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế trong hai năm 1966-1967 có những nhiệm vụ sau:

1. Ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp địa phương, tăng cường năng lực kinh tế do các địa phương quản lý, nâng cao mức tự cung, tự cấp, hết sức cố gắng giải quyết các nhu cầu về ăn, mặc, trang bị và sửa chữa, nhu cầu về một số nguyên liệu và các hàng tiêu dùng để đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu, bảo đảm đời sống nhân dân ở từng tỉnh, từng vùng.

Tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp do các Bộ quản lý, tận dụng công suất của các xí nghiệp, đẩy mạnh sản xuất để giải quyết nhu cầu thiết bị, nguyên liệu, vật liệu và hàng tiêu dùng mà trung ương phải phụ trách, tập trung sức giúp đỡ cho việc xây dựng, phát triển kinh tế địa phương.

2. Kiên quyết bảo đảm giao thông, thực hiện tốt cả ba mặt: bảo vệ, sửa chữa và vận tải, chú trọng tăng cường ngành vận tải thủy và vận tải thô sơ, tích cực cải tiến tổ chức và quản lý, phục vụ tích cực các yêu cầu vận tải giữa Trung ương và các địa phương, giữa trong nước và nước ngoài. Cần phát triển có trọng điểm hệ thống vận tải ở miền núi và hết sức phát triển giao thông, vận tải ở nông thôn.

3. Tăng cường công tác thương nghiệp, tài chính và giá cả, đề cao tiết kiệm, nâng cao mức động viên tổ chức và cung cấp hợp lý, cố gắng bảo đảm xuất khẩu, quản lý tốt nhập khẩu, tích cực phục vụ sản xuất, chiến đấu, đời sống của nhân dân, chú trọng tăng thêm dự trữ các vật tư và hàng hóa thiết yếu.

4. Ra sức tăng năng suất lao động, trên cơ sở tiến hành rộng rãi cải tiến công cụ và trang bị kỹ thuật mới, thực hiện từng bước cách mạng kỹ thuật trong các ngành, động viên các nguồn nhân lực dự trữ, sắp xếp và sử dụng hợp lý lực lượng lao động, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật.

5. Tiến hành công tác điều tra, thăm dò, khảo sát, thiết kế, chú trọng tăng cường lực lượng kỹ thuật, xúc tiến việc nghiên cứu kế hoạch dài hạn đế chuẩn bị cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa sau này [14].

Báo cáo cũng trình bày phương hướng, nhiệm vụ cụ thể của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, vận tải, xây dựng cơ bản, lưu thông, phân phối, lao động, cán bộ và công nhân kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, y tế.

Là hậu phương lớn, miền Bắc có vị trí quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc ta. Vì vậy những nhiệm vụ đề ra trong kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế hai năm 1966-1967 đều thấu suốt tinh thần bảo đảm cho nhân dân làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn trong cuộc chiến đấu và chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Đó là một kế hoạch chống Mỹ và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trên cơ sở nghiên cứu Báo cáo của Hội đồng Chính phủ nêu trên và nghe thuyết trình của Uỷ ban Kế hoạch và ngân sách của Quốc hội, tham luận của các đại biểu, ngày 22-4-1966 Quốc hội quyết nghị:

1. Nhất trí tán thành sự đánh giá của Chính phủ về việc thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).

2. Thông qua phương hướng và nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế trong hai năm 1966-1967 và kế hoạch nhà nước năm 1966 do Chính phủ trình bày trước Quốc hội.

3. Giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội căn cứ vào đề nghị của Chính phủ mà xét duyệt các chỉ tiêu kế hoạch nhà nước năm 1966.

Ngày 7-11-1966, căn cứ vào đề nghị của Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết thông qua những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1966 và đến ngày 9-5-1967 thông qua phương hướng, nhiệm vụ và những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1967.

Từ năm 1965 trở đi, các kế hoạch nhà nước hàng năm về phát triển kinh tế và văn hóa đều là những kế hoạch thời chiến nhằm thực hiện ba nhiệm vụ chủ yếu:

1. Động viên cao độ lực lượng về mọi mặt để chiến đấu và chiến thắng, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam.

2. Giữ vững và phát triển sản xuất hợp với hoàn cảnh chiến tranh nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt đồng thời chuẩn bị lâu dài mai sau.

3. Bảo đảm những nhu cầu cần thiết của đời sống về ăn, ở, mặc, đi lại, bảo vệ sức khỏe và học hành.

Phương hướng, nhiệm vụ và những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1968 được Uỷ ban Thường vụ quốc hội nhất trí thông qua tại phiên họp của Uỷ ban ngày 25-3-1968.

Báo cáo bổ sung kế hoạch nhà nước năm 1968 của Nguyễn Côn[15], Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban kế hoạch nhà nước trình bày trước Quốc hội ngày 20-5-1968 đã nêu năm nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch như sau:

a. Tập trung sức lực để bảo đảm cho chiến đấu và chiến thắng

b. Tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tích cực bảo vệ và đẩy mạnh sản xuất, triệt để thực hành tiết kiệm.

c. Bảo đảm đời sống nhân dân.

d. Tăng cường chỉ đạo và quản lý kinh tế, động viên mạnh mẽ lực lượng nhân dân.

e. Thiết thực chuẩn bị cho những năm sau.

Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa III ra Nghị quyết hoàn toàn nhất trí với bản Báo cáo chính trị của Hội đồng Chính phủ và phê chuẩn Nghị quyết ngày 25-3-1968 của Uỷ ban Thường vụ về kế hoạch nhà nước năm 1968.

Với tinh thần "tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" nhân dân miền Bắc đã ra sức thi đua thực hiện tốt nhất các kế hoạch kinh tế nhà nước, chi viện tích cực cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh Mỹ, đã giành thắng lợi ngày càng to lớn. Thắng lợi ở cả hai miền Nam - Bắc, nhất là thắng lợi chiến lược của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 đã làm thất bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Ngày 1-11-1968 Giôn xơn tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom, bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chấp nhận họp hội nghị Pari để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam, thừa nhận đại diện Chính phủ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong hội nghị.

Trong hoàn cảnh ngừng chiến tranh phá hoại của Mỹ, miền Bắc đã tranh thủ những thuận lợi mới, ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục khẩn trương xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Kế hoạch Nhà nước năm 1969 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội  thông qua ngày 26-3-1969 và được Quốc hội phê chuẩn ngày 5-6-1970.

Năm 1970 là năm công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở miền Bắc được chuyển theo hướng mới để giải quyết một bước những vấn đề kinh tế sau chiến tranh, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo đảm các yêu cầu ngày càng tăng của tiền tuyến lớn.

Ngày 31-3-1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết về kế hoạch Nhà nước năm 1970. Nguyễn Côn, Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước đã đệ trình với Quốc hội những nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch Nhà nước năm 1970 như sau:

- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng, đây là nhiệm vụ chủ yếu nhất.

- Trên cơ sở khôi phục và phát triển sản xuất ra sức động viên sức người, sức của, bảo đảm đầy đủ và kịp thời các yêu cầu của tiền tuyến lớn.

- Giải quyết tốt hơn những vấn đề cấp bách trong đời sống nhân dân.

- Tích cực chuẩn bị một cách thiết thực cho việc khôi phục và phát triển kinh tế trong những năm sau, chú trọng các công tác điều tra cơ bản, phân vùng, quy hoạch, làm kế hoạch dài hạn.

Để thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước năm 1970, “Chính phủ chủ trương phát động phong trào lao động sản xuất nhằm động viên mọi lực lượng lao động của xã hội, phát huy đến mức cao nhất khả năng lao động của mỗi người, bảo đảm mọi người làm việc với năng xuất lao động và hiệu xuất công tác cao, tăng nhanh sản phẩm xã hội”[16].

Quốc hội đã nhất trí tán thành và đã phê chuẩn Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ ngày 31-3-1970 về kế hoạch Nhà nước năm 1970.

Thắng lợi của việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước năm 1970 cũng như các kế hoạch Nhà nước từ năm 1965 đến năm 1970 chứng tỏ sự đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời và nhanh chóng chuyển hướng toàn bộ sinh hoạt của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến. Chúng ta vừa chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vừa tích cực kịp thời làm tròn nghĩa vụ thiêng liêng của miền Bắc đối với miền Nam anh hùng, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, giữ vững và phát triển nền kinh tế quốc dân hợp với nhu cầu và điều kiện thời chiến, bảo đảm đời sống bình thường của nhân dân. Kẻ thù đã thực hiện mọi âm mưu đánh phá thâm độc, dữ dội, quyết “đẩy lùi miền Bắc Việt Nam về thời đại đồ đá!”, nhưng chúng đã thất bại, miền Bắc đã vượt qua thử thách, đứng vững và lớn mạnh toàn diện.

Trước tình hình và nhiệm vụ mới, đầu năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 19. Hội nghị nhấn mạnh phải kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đề ra phương hướng kinh tế trong thời gian trước mắt là phải tập trung lực lượng, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng, đồng thời ra sức đẩy mạnh sản xuất một số ngành công nghiệp nặng chủ chốt, đẩy mạnh xây dựng cơ bản, ra sức tăng cường và cải tiến quản lý kinh tế, bảo đảm tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, cố gắng từng bước giải quyết tốt hơn các vấn đề ăn, mặc, ở, học tập, bảo vệ  sức khỏe của nhân dân. 

Căn cứ Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 19 và dựa trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1970, Thủ tướng Phạm Văn Đồng báo cáo tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa III những mục tiêu phấn đấu của kế hoạch Nhà nước năm 1971 trên các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, xuất khẩu, phân bố và sử dụng hợp lý lực lượng lao động xã hội, quản lý thu và chi, tăng quỹ tích lũy, tổ chức đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, bồi dưỡng sức dân v.v...

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng lần lượt phê chuẩn các hiệp ước về kinh tế, văn hóa giữa Việt Nam với các nước ngoài, thông qua các dự toán ngân sách và tổng quyết toán ngân sách Nhà nước hàng năm.

2. Bổ sung, sửa đổi và ban hành pháp lệnh.

Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, toàn quốc phải dồn sức vào cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, Quốc hội cũng khó có thể họp đúng theo thường lệ, nên việc xây dựng luật pháp cũng không thể thực hiện được. Song Ủy ban Thường vụ Quốc hội với quyền hạn của mình cũng đã bổ sung, sửa đổi một số luật, ban hành một số pháp lệnh cần thiết, đáp ứng đòi hỏi trước mắt của nhân dân ta.

Ngày 3-10-1964 Ủy ban Thường vụ đã phê chuẩn việc Hội đồng Chính phủ quy định và ban hành điều lệ tạm thời về chế độ đãi ngộ đối với quân nhân ốm đau, bị thương, mất sức lao động, về hưu hoặc đã chết, đối với nữ quân nhân mang thai hoặc hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.

Ngày 20-11-1964, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết cụ thể hóa Điều 53 và Điều 64 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc phê chuẩn hoặc bác bỏ hiệp ước đối với nước ngoài; Nghị quyết sửa đổi thuế sát sinh cho phù hợp tình hình mới nhằm khuyến khích việc phát triển chăn nuôi, đảm bảo nghiêm chỉnh nghĩa vụ đóng thuế góp phần tích cực vào việc thu mua của Nhà nước.

Tháng 4-1965, Quốc hội đã thông qua đạo luật sửa đổi và bổ sung Luật nghĩa vụ Quân sự.

Để huy động lực lượng chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đang mở rộng, ngày 21-4-1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định động viên cục bộ nhằm động viên một bộ phận sĩ quan và hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị và một bộ phận công dân thuộc ngành dự bị chưa phục vụ tại ngũ. Quyết định này nhằm tăng cường lực lượng quốc phòng sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của Mỹ và tay sai, bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước.

Ngày 8-1-1966, Ủy ban Thường vụ đã ra Nghị quyết số 200 NQ/TVQH, ấn định thuế công thương đối với các hợp tác xã, tổ chức hợp tác xã và hộ riêng lẻ kinh doanh công thương nghiệp và Nghị quyết 201 NQ/TVQH về việc cho thi hành chủ trương ấn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp trong năm 1966-1967.

Ngày 13-10-1966, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh cấm nấu rượu trái phép bằng gạo, ngô, khoai, sắn, đường và mật đường, cấm sản xuất trái phép các loại men để nấu rượu, nhằm tiết kiệm lương thực, bảo vệ sức khỏe nhân dân và góp phần xây dựng nếp sống mới trong nhân dân. Pháp lệnh ngày 1-4-1967, quy định một số điều về bầu cử và tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp trong thời chiến. Ngày 30-10-1967 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng đã được thông qua. Pháp lệnh này nhằm tăng cường nền chuyên chính dân chủ nhân dân, bảo đảm giành thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngày 18-4-1968, Điều lệ Hội đồng nhân dân khu tự trị Việt Bắc quy định về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình trong khu tự trị Việt Bắc đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

Để củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện và mạnh mẽ, ngày 28-4-1969 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Điều lệ hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (bậc cao).

Ngày 15-1-1970, Ủy ban Thường vụ thông qua:

- Pháp lệnh sửa đổi và bổ sung Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ngày 16-4-1962;

- Pháp lệnh sửa đổi Điều 15 của Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân địa phương ngày 23-3-1961;

- Pháp lệnh đặt các danh hiệu vinh dự Nhà nước: Anh hùng lao động và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Ngày 18-2-1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn Điều lệ quy định việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình trong khu tự trị Tây Bắc.

Ngày 25-4-1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về bộ máy làm việc của Viện cho phù hợp với tình hình mới.

Để bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân, ngày 21-10-1970 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra 2 pháp lệnh quan trọng:

- Pháp lệnh trừng trị tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ pháp lệnh này quán triệt nguyên tắc cơ bản được nêu ở Điều 2 của pháp lệnh: tài sản xã hội chủ nghĩa là thiêng liêng, tuyệt đối không ai được xâm phạm. Mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản đó. Mọi hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh. Nghiêm cấm mọi hành động bao che kẻ phạm tội. Pháp lệnh này thể hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là phải kiên quyết và triệt để bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng, bảo vệ nền văn hóa dân tộc, nâng cao đời sống của nhân dân, bảo đảm giành thắng lợi hoàn toàn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

- Pháp lệnh trừng trị tội xâm phạm tài sản của công dân. Pháp lệnh nêu rõ những tài sản của công dân được Nhà nước bảo hộ. Của cải do sức lao động của công dân làm ra, của cải thu nhập một cách hợp pháp hoặc để giành được như tiền bạc, lương thực, quần áo, nhà ở, gia súc, xe cộ, tư trang, văn hóa phẩm và đồ dùng riêng khác. Mọi hành động xâm phạm tài sản riêng của công dân phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh. Pháp lệnh này có tác dụng tăng cường việc giữ gìn trật tự trị an, bảo đảm điều kiện thuận lợi cho mọi công dân tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đề cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, chống xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Đây là một bước tiến mới trong việc xây dựng pháp luật hình sự của Nhà nước ta. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nêu rõ: “Việc ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân là một bước quan trọng trong việc xây dựng pháp luật hình sự của Nhà nước ta. Nó đáp ứng một đòi hỏi cấp thiết của cách mạng và thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta hiện nay”.[17]

Việc xây dựng 2 pháp lệnh này là một bước quan trọng trong việc xây dựng pháp luật hình sự của Nhà nước ta.

Cũng giống như các kỳ họp của Quốc hội khóa trước, tại các kỳ họp của Quốc hội khóa III, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã báo cáo với Quốc hội về việc giải quyết đơn khiếu nại tố cáo, kiến nghị của nhân dân. Đơn thư khiếu nại tố cáo của nhân dân ngày càng nhiều hơn. Theo các báo cáo của Ủy ban Thường vụ cho biết từ sau kỳ họp thứ 3 đến trước kỳ họp thứ 7 của Quốc hội khóa III có 6.904 đơn thư khiếu tố, trong đó có 1.739 lượt người trực tiếp đưa đơn tại Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chỉ trong 9 tháng từ tháng 6 - 1970 đến tháng 2 - 1971 số đơn đã nhận được nhiều hơn cả năm 1969 là 638 đơn, bình quân mỗi tháng có khoảng 252 đơn. Số người đến trực tiếp trình bày sự việc và nguyện vọng cũng tăng lên rõ rệt, có những vụ có hàng chục người cùng kéo đi khiếu nại và tố cáo về một vấn đề và đi lại rất nhiều lần. Các vấn đề khiếu kiện cũng phức tạp hơn năm trước và có quan hệ với việc chấp hành nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong số đơn nhận được, loại đơn tố cáo và khiếu nại chiếm tỷ lệ cao, trong đó có nhiều đơn giấu tên và nhiều đơn tập thể ký tên.

Qua báo cáo của các cơ quan và địa phương thì những sự việc nêu trong đơn giấu tên và đơn tập thể ký tên phần lớn là đúng. Nghiên cứu đơn khiếu nại, tố cáo, yêu cầu của nhân dân gửi lên Ủy ban thường vụ Quốc hội và qua tiếp xúc với những người đến Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình bày, phần lớn những sự việc nêu lên là đúng. Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội tháng 3 năm 1971 cho biết: Đối tượng bị tố cáo và khiếu nại có cả từ lãnh đạo ở cơ sở hợp tác xã, xã, đến một số cán bộ lãnh đạo và cán bộ thừa hành ở cơ quan, xí nghiệp Nhà nước đã phạm sai lầm như quan liêu, hống hách, độc đoán, chuyên quyền, bè phái, vi phạm các chính sách pháp luật của Nhà nước, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm kém, tham ô, hủ hóa… Có trường hợp nghiêm trọng làm thiệt hại đến đời sống tinh thần, vật chất của cán bộ, nhân dân, đến tài sản của Nhà nước và cá biệt có trường hợp gây thiệt hại đến tính mạng của nhân dân và cán bộ, công nhân.

Thực trạng đó chỉ rõ sự vi phạm hiến pháp của một số cán bộ từ xã đến cán bộ lãnh đạo và cán bộ thừa hành ở các cơ quan, xí nghiệp ngày càng tăng. Mặc dù Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhiều lần nhắc nhở, chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm giải quyết các vấn đề đơn từ khiếu tố, bảo đảm việc chấp  hành đúng chính sách của Đảng và Nhà nước, song các cơ quan trách nhiệm ở Trung ương và địa phương chưa chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị, nghị quyết của Đảng; đã vi phạm Điều 29 của Hiến pháp (1959) của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để đảm bảo việc thi hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của nhân dân, tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội (3 - 1971) Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị với Chính phủ hai điểm sau:

1. Tăng cường việc giáo dục, làm cho cán bộ tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, chủ trương chính sách của Nhà nước, đồng thời tăng cường kiểm tra, đôn đốc các cơ quan ở Trung ương và địa phương để khắc phục tình trạng buông lỏng thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc giải quyết những khiếu nại, tố cáo, yêu cầu, kiến nghị của nhân dân.

2. Xúc tiến việc nghiên cứu xây dựng dự án pháp lệnh quy định trách nhiệm cụ thể của cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết những khiếu nại, tố cáo của nhân dân theo Điều 29 của Hiến pháp.

Trong khi chờ đợi việc ban hành pháp lệnh này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị Chính phủ xét càng sớm càng tốt đến việc ra chỉ thị hay thông tư cần thiết để:

- Tuyệt đối cấm chuyển đơn khiếu tố cho cơ quan hay người bị khiếu tố xét.

- Ngăn ngừa và khi cần, có kỷ luật thích đáng đối với những hành động ngăn cản việc khiếu nại, tố cáo, truy trù người khiếu nại, tố cáo.

- Nghiên cứu xúc tiến việc thành lập ban thanh tra ở những tỉnh, thành chưa thành lập, kiện toàn các tổ chức xét đơn khiếu tố, dân nguyện ở các ngành, các cấp.

3. Điều chỉnh bộ máy, bổ nhiệm cán bộ cấp cao của Nhà nước, điều chỉnh địa giới, khen thưởng.

Trong hoàn cảnh chiến tranh, mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước diễn ra rất khẩn trương. Nhiều yêu cầu mới của kháng chiến đặt ra cấp bách, đòi hỏi phải giải quyết kịp thời. Vì vậy, bộ máy tổ chức của Nhà nước và đội ngũ cán bộ cũng phải có sự điều chỉnh thích hợp.

Về việc điều chỉnh bộ máy tổ chức Nhà nước theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, ngày 11-10-1965 Ủy ban Thường vụ Quốc hội  phê chuẩn việc:

- Thành lập Ủy ban vật giá, cơ quan ngang Bộ có nhiệm vụ giúp Chính phủ nghiên cứu chính sách giá cả, chỉ đạo thống nhất thực hiện giá cả.

- Giải thể Ủy ban Thanh tra của Chính phủ. Công tác thanh tra sẽ giao cho thủ trưởng các cơ quan, các ngành, các cấp phụ trách để gắn liền công tác thanh tra với việc chỉ đạo thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước.

- Tách Bộ Giáo dục thành hai Bộ: Bộ Giáo dục và Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Bộ Giáo dục có trách nhiệm quản lý công tác giáo dục phổ thông và bổ túc văn hóa. Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp có trách nhiệm thống nhất quản lý công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật có trình độ trung học chuyên nghiệp, cán bộ có trình độ đại học và cao hơn đại học.

- Tách Ủy ban khoa học Nhà nước thành hai cơ quan: Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước và Viện Khoa học xã hội. Ủy ban khoa học kỹ thuật có trách nhiệm quản lý toàn bộ công tác khoa học và kỹ thuật. Viện khoa học xã hội có trách nhiệm nghiên cứu những vấn đề về triết học và về các khoa học xã hội.

- Thành lập Tổng cục Thông tin, trực thuộc Hội đồng Chính phủ nhằm thống nhất quản lý công tác thông tin tuyên truyền và cổ động của Nhà nước.

Từ năm 1960 đến năm 1971 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra những quyết định mới:

- Giải thể Tổng cục Khai hoang và giao nhiệm vụ của Tổng cục cho Bộ Nông nghiệp phụ trách (15-9-1966).

- Tách Nha khí tượng khỏi Phủ Thủ tướng và đặt cơ quan này trực thuộc Hội đồng Chính phủ (8-5-1967).

- Đổi tên Viện khoa học xã hội Việt Nam thành Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (19-7-1967).

- Chia Bộ Công nghiệp nặng thành: Bộ Điện và Than, Bộ Cơ khí và Luyện kim, Tổng cục Hóa chất trực thuộc Hội đồng Chính phủ (11-8-1969).

- Thành lập Bộ Lương thực và Thực phẩm trên cơ sở hợp nhất Tổng cục Lương thực với ngành công nghiệp chế biến thực phẩm tách từ Bộ Công nghiệp nhẹ ra (11-8-1969).

- Thành lập Bộ Vật tư trên cơ sở bộ máy của Tổng cục Vật tư (11-8-1969).

- Thành lập Ủy ban Thanh tra của Chính phủ (11-8-1969).

- Chuyển Ủy ban Thể dục thể thao Trung ương thành Tổng cục Thể dục thể thao trực thuộc Hội đồng Chính phủ (9-1-1971).

Cùng với sự điều chỉnh, thay đổi về mặt tổ chức, Ủy ban Thường vụ cũng lần lượt ra Nghị quyết miễn nhiệm và bổ nhiệm một số cán bộ cấp cao của Nhà nước.

Về Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các Ủy ban, Ủy ban Thường vụ Quốc hội  quyết định:

- Miễn nhiệm chức ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho Nguyễn Hữu Khiếu để chuyển sang nhận nhiệm vụ ở Hội đồng Chính phủ (11-10-1965).

- Trần Danh Tuyên thôi giữ chức Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch và Ngân sách Quốc hội để nhận nhiệm vụ mới ở Hội đồng Chính phủ (22-2-1967).

- Bồ Xuân Luật, Uỷ viên dự khuyết được cử làm Ủy viên chính thức của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (22-2-1967).

- Đoàn Trọng Truyến, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội được giữ chức quyền Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội (22-2-1967).

- Nguyễn Văn Hưởng thôi giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội để nhận nhiệm vụ khác trong Hội đồng Chính phủ (26-3-1969).

- Bùi Hưng Gia, Ủy viên dự khuyết Ủy ban Thường vụ Quốc hội được giữ chức Uỷ viên chính thức.

Về việc bổ nhiệm các chức vụ của Chính phủ, ngày 28-1-1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định miễn nhiệm và bổ nhiệm một số chức vụ sau:

- Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thay Xuân Thủy được nghỉ vì điều kiện sức khỏe.

- Phó Thủ tướng Phạm Hùng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước.

- Hoàng Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp thay Dương Quốc Chính đi nhận nhiệm vụ khác, và kiêm chức Chủ nhiệm Văn phòng Nông nghiệp Phủ Thủ tướng thay Trần Hữu Dực.

- Trần Hữu Dực giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng thay Nguyễn Khang.

- Nguyễn Côn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

- Đặng Việt Châu giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính thay Hoàng Anh.

- Đinh Đức Thiện giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần (17-7-1965).

Ngày 11-10-1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định:

- Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh miễn kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước.

- Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn miễn kiêm chức Chủ nhiệm Văn phòng Nội chính Phủ Thủ tướng.

- Lê Liêm thôi giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Văn giáo Phủ Thủ tướng để nhận nhiệm vụ mới.

- Nguyễn Văn Tạo được miễn chức Bộ trưởng Bộ Lao động để nhận chức Chủ nhiệm Văn phòng Nội chính Phủ Thủ tướng.

- Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

- Trần Đại Nghĩa, Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước.

- Nguyễn Hữu Khiếu giữ chức Bộ trưởng Bộ lao động.

- Nguyễn Văn Vịnh, Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất của Chính phủ kiêm giữ chức Tổng tham mưu Phó Bộ Tổng tham mưu thuộc Bộ Quốc phòng (18-1-1966).

Ngày 3-11-1966, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định:

- Phó Thủ tướng Phạm Hùng thôi kiêm chức Chủ nhiệm Văn phòng Tài chính - Thương nghiệp Phủ Thủ tướng và Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước.

- Nguyễn Thanh Bình, thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương và được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Văn phòng Tài chính - Thương nghiệp Phủ Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước.

Ngày 22-2-1967, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định:

 - Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị được miễn kiêm chức Chủ nhiệm Văn phòng Công nghiệp Phủ Thủ tướng để kiêm chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng.

- Trần Danh Tuyên giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Công nghiệp Phủ Thủ tướng.

- Miễn chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng cho Nguyễn Văn Trân để nhận nhiệm vụ mới.

Ngày 30-10-1967, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định:

- Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị thôi kiêm chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng.

- Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Nguyễn Côn, giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

- Hoàng Anh, Chủ nhiệm Văn phòng Nông nghiệp Phủ Thủ tướng được thôi kiêm chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp.

- Nguyễn Hữu Mai, giữ chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng.

- Nguyễn Văn Lộc, giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp.

- Nguyễn Thanh Bình, Chủ nhiệm Văn phòng Tài chính - Thương nghiệp được thôi kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước.

- Đỗ Mười giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước.

- Hoàng Quốc Thịnh, quyền Bộ trưởng Bộ Nội thương được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nội thương.

 Ngày 15-4-1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định:

- Xuân Thủy giữ chức Bộ trưởng của Chính phủ.

- Trần Quang Huy giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Văn giáo của Chính phủ.

- Nguyễn Văn Hưởng giữ chức Bộ trưởng Bộ Y tế (26-3-1969).

Ngày 11-8-1969, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định:

- Đỗ Mười giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Văn phòng kinh tế Phủ Thủ tướng.

- Trần Danh Tuyên thôi giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Công nghiệp Phủ Thủ tướng để giữ chức Bộ trưởng Bộ Vật tư.

- Nguyễn Thanh Bình thôi giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Tài chính - Thương nghiệp Phủ Thủ tướng để giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Chính phủ.

- Nguyễn Hữu Mai thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng để giữ chức Bộ trưởng Bộ Điện than.

- Đinh Đức Thiện thôi giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần thuộc Bộ Quốc phòng để giữ chức Bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim.

- Ngô Minh Loan giữ chức Bộ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm.

- Nguyễn Lam giữ chức Bộ trưởng Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

- Đặng Thí giữ chức Bộ trưởng Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

- Nguyễn Văn Kha giữ chức Bộ trưởng Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

- Hoàng Anh thôi giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Nông nghiệp Phủ Thủ tướng.

 Việc miễn nhiệm và bổ nhiệm liên tục các chức vụ của cán bộ Nhà nước đã phản ánh những yêu cầu cấp bách và rộng lớn của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Do vậy, Đảng và Nhà nước phải điều động, bố trí đội ngũ cán bộ cấp cao một cách kịp thời mới đáp ứng những đòi hỏi mới của cách mạng và kháng chiến.

Tháng 9-1969, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chuyển sang một thời kỳ mới và công cuộc khôi phục kinh tế ở miền Bắc đang diễn ra khẩn trương thì nhân dân cả nước ta phải chịu một tổn thất vô cùng to lớn - Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời (2-9-1969) - “Dân tộc ta và Đảng ta mất một vị lãnh tụ thiên tài và một người thầy vĩ đại.

Phong trào cộng sản quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả loài người tiến bộ mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết” [18].

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới. “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta” [19]. Người đã để lại cho chúng ta một di sản vô cùng quý báu. “Đó là thời đại Hồ Chí minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[20].

Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, “Nhưng Người luôn luôn dẫn dắt chúng ta. Chúng ta vẫn cảm thấy có Người luôn luôn bên cạnh. Bởi vì chúng ta vẫn đi theo con đường của Người, tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của Người, bởi vì Người vẫn sống mãi với non sông đất nước, tên tuổi và hình ảnh của Người ngày càng khắc sâu trong trái tim, khối óc của mỗi chúng ta” [21].

Ngày 9-9-1969, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, hơn 10 vạn người và 34 đoàn đại biểu quốc tế đã dự lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhân dân ta ở tất cả mọi miền đất nước cũng như kiều bào ta ở nước ngoài vô cùng thương tiếc, và tổ chức lễ tang Người.

Ngày 22-9-1969, Kỳ họp thứ V của Quốc hội là phiên họp đặc biệt để truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh và bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Quốc hội  trang nghiêm truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh đã long trọng đọc diễn văn nói lên lòng thương tiếc vô hạn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận dân tộc thống nhất và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, những nhân tố cơ bản bảo đảm thắng lợi hoàn toàn cho cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề tăng cường và củng cố chính quyền Nhà nước. Giành được chính quyền đã khó, biết tự bảo vệ được chính quyền càng khó hơn. Vì vậy phải ra sức phấn đấu để tăng cường và củng cố chính quyền, phải thực hiện dân chủ và chuyên chính, dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân, kẻ thù của cách mạng, bảo đảm cho chính quyền thật vững mạnh, đáp ứng yêu cầu mới của đất nước trong hoàn cảnh có chiến tranh.

Chính quyền nhân dân càng được củng cố và tăng cường thì Nhà nước ta càng có thêm khả năng động viên lực lượng toàn dân ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đáp ứng mọi yêu cầu của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Các đại biểu Quốc hội đã tích cực hoạt động để thiết thực góp phần vào nhiệm vụ củng cố và tăng cường chính quyền nhân dân, nguyện mãi mãi trung thành và suốt đời phấn đấu dưới lá cờ vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh[22].

Sau phần lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, các Đoàn đại biểu đã họp trao đổi ý kiến và đều nhất trí giới thiệu quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Tôn Đức Thắng để Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch nước và Nguyễn Lương Bằng, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam để Quốc hội bầu giữ chức Phó Chủ tịch nước.

Có 361 vị đại biểu có mặt trên tổng số 442 vị đại biểu của Quốc hội đã tham gia bầu cử.

Kết quả: Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với 100% số phiếu bầu 361/361.

Nguyễn Lương Bằng được bầu làm Phó Chủ tịch nước với 100% số phiếu bầu 361/361.

Chủ tịch Trường Chinh nói: “Cụ Tôn Đức Thắng và đồng chí Nguyễn Lương Bằng là hai chiến sĩ lão thành của cách mạng Việt Nam, những người bạn chiến đấu gần gũi của Hồ Chủ tịch, những người con ưu tú của dân tộc Việt Nam ta. Hai đồng chí được Quốc hội nhất trí tín nhiệm, giao cho trọng trách lãnh đạo Nhà nước ta là xứng đáng. Sự tín nhiệm của Quốc hội là sự tín nhiệm của toàn dân ta”[23].

Chủ tịch Tôn Đức Thắng phát biểu ý kiến, cảm ơn sự tín nhiệm của Quốc hội. Chủ tịch nói: “Được kế tiếp chức vụ của Hồ Chủ tịch là điều rất vinh quang đối với tôi, nhưng cũng là điều mà tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến” và nguyện hết lòng, hết sức đóng góp phần lớn nhất vào toàn bộ sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc, thực hiện lời Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, hết sức làm tròn trách nhiệm mà Quốc hội đã giao phó.

Đến năm 1970, qua các lần thay đổi và bổ sung, các chức vị và các cơ quan  cao nhất của Nhà nước như sau:

 

CHỦ TỊCH VÀ PHÓ CHỦ TỊCH NƯỚC
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

Chủ tịch

Tôn Đức Thắng

Phú Chủ tịch 

Nguyễn Lương Bằng

Ủy ban thường vụ Quốc hội

Chủ tịch        

Trường Chinh

Phó Chủ tịch

Hoàng Văn Hoan

Nguyễn Xiển

Trần Đăng Khoa

Nguyễn Thị Thập

Chu Văn Tấn

Tổng thư ký Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

Tôn Quang Phiệt

Uỷ viên

Trần Xuân Bách

Hồ Đắc Di

Nguyễn Xuân Nguyên

Yngông Niêk Đam

Linh mục Hồ Thành Biên

Pháp sư Thích Trí Độ

Lò Văn Hạc

Nguyễn Khoa Diệu Hồng

Trương Tấn Phát

Vũ Quang

Trần Đình Tri

Nguyễn Tấn Gi Trọng

Bồ Xuân Luật

Bùi Hưng Gia

Uỷ viên dự khuyết

Nguyễn Văn Chi

Hội đồng Chính phủ

Thủ tướng     

Phạm Văn Đồng

Phó Thủ tướng

Phạm Hùng

Nguyễn Duy Trinh

Võ Nguyễn Giáp

Lê Thanh Nghị

Phan Kế Toại

Nguyễn Côn

Đỗ Mười

Các Chủ nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng

Văn phòng kinh tế (gồm: Nông nghiệp, Công nghiệp, Tài chính - Thương nghiệp)

Phó Thủ tướng        Đỗ Mười

Văn phòng Nội chính

Nguyễn Văn Tạo

Văn phòng Văn giáo

Trần Quang Huy

Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm các Ủy ban Nhà nước
và thủ trưởng các cơ quan  ngang Bộ

 

Bộ trưởng các Bộ

Bộ Nội vụ     

Ung Văn Khiêm

Bộ Ngoại giao        

Nguyễn Duy Trinh

Bộ Quốc phòng      

Võ Nguyên Giáp

Bộ Công an  

Trần Quốc Hoàn

Bộ Nông nghiệp

Nguyễn Văn Lộc

Bộ Nông trường

Nghiêm Xuân Yêm

Bộ Điện và Than

Nguyễn Hữu Mai

Bộ Cơ khí và Luyện kim

Đinh Đức Thiện

Bộ Lương thực và Thực phẩm

Ngô Minh Loan

Bộ Vật tư      

Trần Danh Tuyên

Bộ Thủy lợi  

Hà Kế Tấn

Bộ Kiến trúc

Bùi Quang Tạo

Bộ Công nghiệp nhẹ

Kha Vạng Cân

Bộ Giao Thông vận tải

Phan Trọng Tuệ

Bộ Lao động

Nguyễn Hữu Khiếu

Bộ Tài chính 

Đặng Việt Châu

Bộ Nội thương

Hoàng Quốc Thịnh

Bộ Ngoại thương

Phan Anh

Bộ Giáo dục

Nguyễn Văn Huyên

Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp

Tạ Quang Bửu

Bộ Y tế         

Nguyễn Văn Hưởng

Bộ Văn hóa

Hoàng Minh Giám

Chủ nhiệm và Phó Chủ nhiệm các Uỷ ban

Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước

Phó Thủ tướng Nguyễn Côn

Phó Chủ nhiệm Bộ trưởng

Nguyễn Lam

Đặng Thí

Nguyễn Văn Kha

Chủ nhiệm ủy ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước

Trần Đại Nghĩa

Chủ nhiệm ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước

Trần Đại Nghĩa

Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất

Nguyễn Văn Vịnh

Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra

Nguyễn Thanh Bình

Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc

Lê Quảng Ba

Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Tạ Hoàng Cơ

 

Về Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã bổ nhiệm Lê Trung Hà (21-4-1965), Tô Ký (27-7-1965), Thanh Phong (10-8-1965) làm Phó Chánh án.

Vũ Dư (15-6-1966), Đào Duy Khánh (4-11-1966), giữ chức Thẩm phán Tòa án.

Lương Hồng Quyến (tức Lê Phương Hằng) giữ chức Thẩm phán dự khuyết.

Đại tá Nguyễn Đình Tùng giữ chức Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương đồng thời giữ chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Ngô Xuân Hàm (12-3-1968) làm Ủy viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án.

Hoàng Nam Hải và Phan Đình Khang làm thẩm phán.

Vũ Thúy Châu làm thẩm phán dự khuyết (15-1-1970).

Về Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết bổ nhiệm Nguyễn Văn Quảng (tức Hồng Quang), Nguyễn Quang Diệu, Mai Văn Tuân, Phạm Hữu Chi làm kiểm sát viên.

Lê Thị Ban, Nguyễn Đình Khang làm kiểm sát viên dự khuyết (18-1-1966).

Bùi Lâm làm Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (16-3-1967).

Ngày 13-1-1969 đại tá Nguyễn Văn Nam (tức Phạm Luận) giữ chức Viện trưởng Viện Kiểm sát quân sự Trung ương,  đồng thời giữ chức Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Nguyễn Đình Chi, Phạm Hữu Dư, Đoàn Cảnh Duyệt (tức Nguyễn Lịch), Nguyễn Đức Nhuận (tức Vũ Hải), Nguyễn Văn Sắc, Nguyễn Gia Thụy, làm kiểm sát viên dự khuyết.

Về các đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội  quyết định bổ nhiệm:

- Hoàng Lương làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Hungari (21-4-1965).

- Đỗ Phát Quang làm Đại sứ tại nước Cộng hòa nhân dân Ba Lan (23-6-1965).

- Nguyễn Huy Thu làm Đại sứ tại nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ (27-7-1965).

- Ngô Mậu làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Cu Ba (10-8-1965).

- Nguyễn Văn Phát làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Angiêri dân chủ và nhân dân.

- Nguyễn Đức Thiệng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Ghinê, kiêm đại sứ nước Cộng hòa Công Gô (Brazavine).

- Nguyễn Ngọc Vũ làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Mali (18-1-1966),  kiêm Đại sứ tại nước Cộng hòa Hồi giáo Môritani.

- Nguyễn Xuân làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Arập thống nhất, kiêm Đại sứ tại nước Cộng hòa Arập Yêmen (15-6-1966).

- Nguyễn Việt Dũng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa dân chủ Đức (18-6-1966).

- Nguyễn Thọ Chân làm Đại sứ tại Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết (3-11-1966).

- Ngô Minh Loan làm Đại sứ tại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

- Phạm Ngọc Quế làm Đại sứ tại nước Cộng hòa nhân dân Bungari (22-2-1967).

- Phạm Ngọc Quế được kiêm chức Đại sứ tại nước Cộng hòa Arập Xyri và Nguyễn Văn Hồng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Anbani (24-6-1967).

- Nguyễn Thương làm Đại sứ tại Vương quốc Campuchia (26-6-1967).

- Lương Xướng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Arập Xyri thay Phạm Ngọc Quế thôi kiêm chức vụ này (9-11-1967).

- Lương Xướng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa nhân dân Bungari thay Phạm Ngọc Quế và Phạm Ngọc Quế làm Đại sứ tại nước Cộng hòa A rập Xyri thay Lương Xướng (5-10-1968).

- Nguyễn Thọ Chân làm Đại sứ tại Liên Xô kiêm Đại sứ tại Vương quốc Thụy Điển (27-2-1969);

- Ngày 9-7-1969, bổ nhiệm Lê Trang làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Ba Lan thay Đỗ Phát Quang về nước nhận nhiệm vụ mới;

- Nguyễn Hữu Ngô làm Đại sứ tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc thay Phan Văn Sử về nước nhận nhiệm vụ mới;

- Nguyễn Đăng Hành làm Đại sứ tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Rumani thay Hoàng Tú về nước nhận công tác khác;

- Trần Văn Sớ làm Đại sứ Cộng hòa Arập thống nhất thay Nguyễn Xuân:

- Nguyễn Đức Thiệng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Angiêri dân chủ và nhân dân thay Nguyễn Văn Phát về nước nhận công tác khác;

- Vũ Hắc Bồng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Ghinê thay Nguyễn Đức Thiệng;

- Lê Thanh Tâm làm Đại sứ tại nước Cộng hòa thống nhất Tandania;

- Nguyễn Thanh Vân làm Đại sứ tại nước Cộng hòa CôngGô (Brazavine) thay Nguyễn Đức Thiệng trước đây kiêm nhiệm.

- Ngày 13-11-1969, bổ nhiệm Ngô Thuyền làm Đại sứ tại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thay Ngô Minh Loan về nước nhận công tác khác;

- Trần Văn Sớ Đại sứ tại nước Cộng hòa Arập thống nhất, kiêm Đại sứ tại nước Cộng hòa nhân dân Xuđăng, Cộng hòa Arập Yêmen và Cộng hòa nhân dân Nam Yêmen;

- Phạm Ngọc Quế Đại sứ tại nước Cộng hòa Arập Xyri kiêm Đại sứ tại Cộng hòa Irắc;

- Vũ Hắc Bồng Đại sứ tại nước Cộng hòa Ghinê, kiêm Đại sứ tại Cộng hòa Hồi giáo Môritani và Cộng hòa Mali thay Nguyễn Ngọc Vũ về nước nhận công tác khác (13-11-1969);

- Ngày 18-2-1969, bổ nhiệm Nguyễn Song Tùng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa dân chủ Đức thay Nguyễn Việt Dũng về nước nhận công tác khác và Bùi Đình Đồng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên thay Lê Thiết Hùng về nước nhận công tác khác.

- Ngày 1-8-1970, bổ nhiệm Lê Đông làm Đại sứ tại nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên thay Bùi Đình Đồng về nước nhận công tác khác;

- Nguyễn Ngọc Sơn làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Cuba thay Ngô Mậu về nước nhận công tác khác;

- Hoàng Cương làm Đại sứ tại nước Cộng hòa nhân dân Hungari thay Hoàng Lương về nước nhận công tác khác;

- Đỗ Quốc Cường làm Đại sứ tại nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ thay Nguyễn Huy Thu về nước nhận công tác khác;

- Nguyễn Đức Thiệng Đại sứ tại nước Cộng hòa Angiêri dân chủ và nhân dân kiêm Đại sứ tại nước Cộng hòa Xênêgan;

- Lê Thanh Tâm Đại sứ tại nước Cộng hòa thống nhất Tandania kiêm Đại sứ tại nước Cộng hòa Mali.

- Ngày 10-10-1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định bổ nhiệm Hoàng Đức Phong Đại sứ tại nước Cộng hòa Arập Xyri, kiêm Đại sứ tại nước Cộng hòa Irắc thay Phạm Ngọc Quế về nước nhận công tác khác;

- Hoàng Thanh Trai làm Đại sứ tại nước XâyLan;

- Nguyễn Đăng Hành làm Đại sứ tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Rumani, kiêm Đại sứ tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Nam Tư;

- Ngày 9-1-1971, Đinh Ngọc Tảo được bổ nhiệm làm đại sứ nước cộng hòa nhân dân Bungari thay Lương Xướng về nước nhận công tác khác và Nguyễn Văn Thụ làm Đại sứ tại nước Cộng hòa nhân dân Anbani thay Nguyễn Văn Hồng về nước nhận công tác khác.

 Việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ nhiệm các Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại các nước nói trên đã phản ánh một phần quan trọng quan hệ ngoại giao rộng lớn và khẩn trương của chúng ta trong những năm kháng chiến chống Mỹ quyết liệt, anh dũng và thắng lợi ngày càng to lớn của Việt Nam.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về tổ chức các đơn vị hành chính lớn, Ủy ban Thường vụ đã xem xét và phê chuẩn việc sáp nhập một số đơn vị hành chính nhỏ thành đơn vị lớn.

Ngày 21-4-1965, phê chuẩn hợp nhất tỉnh Hà Nam và tỉnh Nam Định thành tỉnh Nam Hà, hợp nhất tỉnh Bắc Cạn và tỉnh Thái Nguyên thành tỉnh Bắc Thái, hợp nhất tỉnh Sơn Tây và tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây, sáp nhập xã An Hòa thuộc huyện Thạch Thất (tỉnh Sơn Tây cũ) vào xã Tiến Xuân thuộc huyện Lương Sơn, Hòa Bình.

Ngày 10-6-1967, phê chuẩn sáp nhập xã Hán Đà vào xã Đại Minh trước thuộc huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ nay vào huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái và sáp nhập xóm Bình Giang thuộc xã Minh Tân, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc vào xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.

Ngày 26-1-1968, phê chuẩn việc hợp nhất tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú và hợp nhất tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét việc thi hành án và kết quả cải tạo các phạm nhân bị giam giữ. Nhân dịp những ngày lễ Quốc khánh 2-9 hàng năm Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xét và ra các nghị quyết về việc tha cho những phạm nhân đã cải tạo tốt và giảm án cho những phạm nhân có nhiều cố gắng cải tạo.

Ủy ban Thường vụ rất coi trọng việc xét để tặng thưởng Huân chương và các danh hiệu vinh dự của Nhà nước cho các đơn vị và cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong chiến đấu và lao động.

Nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1969), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua bản tuyên dương công trạng các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

Ngày 22-6-1967, Ủy ban Thường vụ đã tuyên dương công trạng cho quân và dân miền Bắc nhân dịp bắn rơi 2.000 máy bay của giặc Mỹ.

Theo báo cáo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa III, Uỷ ban đã tặng thưởng danh hiệu Anh hùng cho 140 đơn vị và 114 Anh hùng lực lượng vũ trang; Anh hùng lao động cho 69 cá nhân, Huân chương quân công cho 54 đơn vị và 7.714 cá nhân; Huân chương chiến công cho 30.941 cá nhân; Huân chương kháng chiến và Huân chương lao động cho 7.537 đơn vị và cá nhân; Huân chương chiến công, Huân chương độc lập và Huân chương lao động cho 585 chuyên gia nước ngoài; Huân chương độc lập cho 9 đơn vị và địa phương. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đã truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh hạng nhất và Huân chương quân công hạng nhất cho Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam, đã có nhiều cống hiến vẻ vang cho sự nghiệp cách mạng và kháng chiến của dân tộc.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang cho nhiều cán bộ và chiến sĩ trong quân đội và công an vũ trang về thành tích phục vụ trong các lực lượng vũ trang từ sau tháng 7-1954 trở đi.

Việc tiếp tục khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến chống Pháp phong tặng các danh hiệu cao quý của Nhà nước cho cán bộ và chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang, cho cán bộ, viên chức Nhà nước và nhân dân có thành tích vẻ vang trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và lao động xây dựng đất nước đã góp phần động viên mạnh mẽ ý chí chiến đấu và lao động của cán bộ, của quân và dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

 

III. QUỐC HỘI VỚI SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC,
GIẢI PHÓNG MIỀN NAM,  BẢO VỆ MIỀN BẮC

 

Với việc đưa quân đội viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam và đẩy mạnh cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, đế quốc Mỹ đã gây ra cuộc chiến tranh cục bộ xâm lược nước ta. Chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước. Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày tại Kỳ họp thứ II của Quốc hội (4-1965) đã lên án đế quốc Mỹ xâm lược, nêu cao nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu của nhân dân miền Bắc, ủng hộ miền Nam và vạch trần thủ đoạn “hòa bình” lừa bịp của đế quốc Mỹ. Tại kỳ họp này, Quốc hội đã ra lời kêu gọi gửi đến Quốc hội các nước trên thế giới, tố cáo tội ác xâm lược của đế quốc Mỹ và khẳng định quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Cũng trong thời gian này, ngày 22-3-1965, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra bản tuyên bố, nhấn mạnh quân và dân miền Nam Việt Nam quyết chiến đấu đến lúc không còn “bóng một tên xâm lược Mỹ trên đất nước Việt Nam”. Ngày 20-12-1965, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đã nêu lại những điểm trọng yếu nhất của bản Tuyên bố ngày 22-3-1965, rằng: “Nhân dân miền Nam Việt Nam anh hùng cương quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thực hiện  một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập và tiến tới thống nhất nước nhà.

Nhân dân miền Nam Việt Nam và quân giải phóng miền Nam anh hùng quyết hoàn thành đầy đủ nhất nhiệm vụ thiêng liêng của mình là: đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc”.

Nhân dân miền Nam Việt Nam tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới và tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự giúp đỡ của bè bạn khắp năm châu kể cả vũ khí và dụng cụ chiến tranh[24].

Quốc hội các nước xã hội chủ nghĩa và một số nước trên thế giới đã nhanh chóng và nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Quốc hội nước ta và lần lượt gửi đến Quốc hội Việt Nam những bức thư chí tình và những Nghị quyết kịch liệt lên án đế quốc Mỹ xâm lược, ủng hộ lập trường của Quốc hội và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 20-4-1965 có đoạn viết: “Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng xã hội chủ nghĩa... Theo yêu cầu của nhân dân Việt Nam và theo nhu cầu của cuộc đấu tranh chung chống đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân Trung Quốc đã và sẽ tiếp tục cố gắng hết sức mình để giúp đỡ nhân dân Việt Nam đánh bại hoàn toàn bọn xâm lược Mỹ”[25].

Bản tuyên bố của Xô Viết tối cao Liên Xô ngày 9-12-1965 viết: “Cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, vì tự do độc lập đã nêu một tấm gương về ý chí kiên cường và lòng dũng cảm sắt đá và đang được sự đồng tình sâu sắc và sự ủng hộ hoàn toàn của tất cả các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình, Liên Xô đã, đang và sẽ tiếp tục dành cho nhân dân Việt Nam  mọi sự giúp đỡ và ủng hộ cần thiết trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược”[26].

Các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng đã ra Nghị quyết, tuyên bố hoàn toàn ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam như Tuyên bố ngày 5-5-1965 của phiên họp liên tịch của Chủ tịch đoàn Quốc hội, Ban Thường vụ Quốc hội và Uỷ ban Ngoại giao Quốc hội Bungari; tuyên bố của Chủ tịch đoàn Quốc hội nước Cộng hòa nhân dân Anbani ngày 3-5-1965; Nghị quyết của Quốc hội Triều Tiên ngày 20-5-1965; tuyên bố của Quốc hội Mông Cổ ngày 18-12-1965; Nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ Đức ngày 21-12-1965; Tuyên bố của Quốc hội nước Cộng hòa nhân dân Rumani, v.v... Quốc hội nhiều nước ở Châu Á, Châu Phi, đông đảo nghị sĩ thuộc nhiều chính kiến khác nhau trên thế giới cũng đã lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam. Thư của Chủ tịch Quốc hội Vương quốc Campuchia gửi đến Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam nói rõ sự “nhất trí quyết định kiên quyết ủng hộ lập trường của nhân dân Việt Nam anh hùng”; Thư của Chủ tịch Quốc hội hợp tác nước Cộng hòa Inđônêsia ngày 17-7-1965, nêu rõ tinh thần ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta trên cả hai miền đất nước được nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới ngày càng ủng hộ mạnh mẽ. Chúng ta đã giành thắng lợi ngày càng to lớn. Song, với bản chất ngoan cố, đế quốc Mỹ càng đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược của chúng, ồ ạt mang quân viễn chinh vào nước ta, điên cuồng đánh phá miền Bắc. Trước tình hình đó, ngày 17-7-1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!.

Vì độc lập của Tổ quốc, vì nghĩa vụ đối với các dân tộc đang chống đế quốc Mỹ, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, không sợ hy sinh gian khổ, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”[27].

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”- tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh, là mục tiêu và lẽ sống của mọi người Việt Nam yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, khơi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ của con người Việt Nam, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược vì độc lập của Tổ quốc, vì nghĩa vụ cao cả đối với các dân tộc chống Mỹ, với các nước xã hội chủ nghĩa và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới.

Từ trong phong trào thi đua yêu nước, quân và dân miền Bắc đã tỏ rõ sức mạnh của truyền thống cách mạng, tinh thần lao động cần cù và sáng tạo, chiến đấu thông minh dũng cảm, đã giành thắng lợi to lớn trong lao động xây dựng đất nước, trong chiến đấu và thực hiện nghĩa vụ của hậu phương lớn. Khẩu hiệu hành động chung của nhân dân miền Bắc lúc này là “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, “mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”... Từ năm 1965 đến năm 1968, qua hai tuyến vận tải chiến lược, chủ yếu là qua tuyến đường Trường Sơn, miền Bắc đã đưa vào miền Nam hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tham gia xây dựng kinh tế, văn hóa tại các vùng giải phóng, cùng với hàng vạn tấn vật chất gồm vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực thực phẩm, thuốc men... Tính chung sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào miền Nam trong thời gian này đã tăng gấp 10 lần so với thời kỳ trước, đó là chưa kể hàng vạn chiến sĩ lái xe, lái tàu, công binh, thanh niên xung phong, giao liên làm nhiệm vụ đưa đón trên tuyến đường Trường Sơn[28].

Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thường xuyên nghiên cứu về tình hình quân sự, tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Các kỳ họp của Quốc hội khóa III đã thảo luận kỹ các báo cáo về quân sự, về tình hình miền Nam và vấn đề thống nhất đất nước do Chính phủ trình bày. Quốc hội đã ra nhiều Nghị quyết, nhiều bản Tuyên bố về tội ác và tính chất nham hiểm của các chiến lược “chiến tranh cục bộ”, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, đòi đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân đội Mỹ và quân đội các nước đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, hủy bỏ các căn cứ quân sự của Mỹ ở miền Nam để cho nhân dân Việt Nam tự quyết định lấy công việc nội bộ của mình.

Bị thất bại nặng nề trên cả hai miền đất nước và đứng trước những khó khăn to lớn về nhiều mặt do cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam gây ra, ngày 31-3-1968 Tổng thống Giôn-xơn buộc phải tuyên bố ném bom hạn chế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước tình hình mới, ngày 22-5-1968, Quốc hội nước ta đã ra Lời kêu gọi, trong đó khẳng định: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước có độc lập và chủ quyền”.

Mỹ phải chấm dứt ngay, không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một, bất cứ ở đâu trên đất nước Việt Nam có giặc ngoại xâm thì người Việt Nam phải kề vai sát cánh để đánh đuổi chúng. Cùng nhau đánh đuổi giặc Mỹ xâm lược để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà là nghĩa vụ thiêng liêng của 31 triệu người Việt Nam ở cả hai miền.

Không ai có quyền ngăn cản nhân dân Việt Nam làm nghĩa vụ đó; Đế quốc Mỹ là kẻ xâm lược Việt Nam càng không có quyền đó.

“Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã chuyển sang một thời kỳ mới đầy triển vọng tốt đẹp... Trong giờ phút lịch sử này Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước hãy phát huy thắng lợi to lớn ở cả hai miền nhận rõ nhiệm vụ hết sức nặng nề và vẻ vang, nêu cao truyền thống kiên cường, bất khuất của dân tộc, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu dũng cảm và liên tục, giành thắng lợi ngày càng to lớn, tiến tới thắng lợi hoàn toàn”[29].

Thắng lợi quân sự trên cả hai miền đất nước, lực lượng vũ trang lớn mạnh, khối đoàn kết dân tộc được mở rộng, uy tín của Mặt trận dân tộc giải phónh miền Nam Việt Nam đối với trong nước và quốc tế được nâng cao, vùng giải phóng rộng lớn đã tạo ra những điều kiện thuận lợi mới và yêu cầu cấp bách để thành lập chính quyền cách mạng Trung ương ở miền Nam Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 1-1968 nêu rõ: phải nhanh chóng tổ chức chính quyền cách mạng của nhân dân. Ở bên trên phải kịp thời thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc rộng rãi có thể tập hợp được tất cả các lực lượng chống Mỹ và tay sai... Vì thế, ngày 6-6-1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam đã họp gồm đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam cùng đại biểu của các lực lượng yêu nước khác ở miền Nam. Đại hội tuyên bố lập chính thể Cộng hòa miền Nam Việt Nam, bầu Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, bầu Hội đồng Cố vấn bên cạnh Chính phủ.

 

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam:

Chủ tịch Chính phủ

Huỳnh Tuấn Phát

Phó Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ:

Phùng Văn Cung

Phó Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng

Bộ Giáo dục - Thanh niên:

Nguyễn Văn Kiết

Phó Chủ tịch Chính phủ:

Nguyễn Đóa

Bộ trưởng Phủ Chủ tịch:

Trần Bửu Kiếm

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng:

Trần Nam Trung

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao:

Nguyễn Thị Bình

Bộ trưởng Bộ Kinh tế - Tài chính:

 Cao Văn Bổn[30]

Bộ trưởng Bộ Thông tin, Văn hóa:

Lưu Hữu Phước

Bộ trưởng Bộ Y tế, Xã hội và Thương binh:

Dương Quỳnh Hoa

Bộ trưởng Bộ Tư pháp:

Trương Như Tảng[31]

Thứ trưởng Phủ Chủ tịch:

Ung Ngọc Ky

Thứ trưởng Bộ nội vụ:

Nguyễn Ngọc Thưởng

Thứ trưởng Bộ Quốc phòng:

Đồng Văn Cống

Thứ trưởng Bộ Quốc phòng:

Nguyễn Chánh

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao:

Lê Quang Chánh

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao:

Hoàng Bích Sơn

Thứ trưởng Bộ Kinh tế - Tài chính:

Nguyễn Văn Triệu

Thứ trưởng Bộ Thông tin, Văn hóa:

Thanh Nghị

Thứ trưởng Bộ Thông tin, Văn hóa:

Lữ Phương

Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Thanh niên:

Lê Văn Chí

Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Thanh niên:

Hồ Hữu Nhựt

Thứ trưởng Bộ Y tế, Xã hội và Thương binh:

 Hồ Văn Huê

Thứ trưởng Bộ Y tế, Xã hội và Thương binh:

Bùi Thị Mè

Thứ trưởng Bộ Tư pháp:

Lê Văn Thả

 

Hội đồng cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa
 miền Nam Việt Nam gồm có:

Chủ tịch

Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam

Phó Chủ tịch

Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam.

Uỷ viên

A BihAlêô, đại diện các dân tộc Tây Nguyên

Uỷ viên

Huỳnh Cương, đại diện dân tộc Khmer

Ủy viên

Hòa thượng Thích Đôn Hậu, đại diện Phật giáo

Ủy viên

Huỳnh Văn Trí, đại diện lực lượng yêu nước trong Phật giáo Hòa Hảo.

Ủy viên

Nguyễn Công Phương, nhân sĩ Trung Trung Bộ.

Ủy viên

Lâm Văn Tết, Phú Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam.

Ủy viên

Võ Oanh, nhà báo lão thành cách mạng.

Ủy viên

Lê Văn Giáp Chủ tịch Ủy ban Liên minh các Lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Đặc khu Sài Gòn - Gia Định.

Ủy viên

Huỳnh Thanh Mừng, đại diện lực lượng yêu nước đạo Cao Đài phái Tây Ninh.

Ủy viên

Phạm Ngọc Hùng, nhân sĩ trí thức Thiên Chúa giáo.

Ủy viên

Nguyễn Đình Chi, Phó Chủ tịch Ủy ban Liên minh các Lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Thừa Thiên - Huế.

     

 

Ngày 10-6-1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đề ra chương trình hành động gồm các chính sách lớn nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, thực hiện hòa hợp dân tộc, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, thi hành các quyền tự do dân chủ.

Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại, đánh dấu một bước phát triển mới và tất yếu của cuộc đấu tranh cách mạng miền Nam.

Ngày 12-6-1969, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra lời tuyên bố về việc thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Lời tuyên bố có đoạn viết: “Việc Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam họp với sự có mặt đông đủ đại biểu của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, của Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam, của các chính đảng, của các đoàn thể, các dân tộc, các tôn giáo, các lực lượng kháng chiến và các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam, của kiều bào nước ngoài, đã thể hiện rõ rệt tính chất đại diện đầy đủ nhất và cao nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam”[32].

Những thắng lợi to lớn của ta trên cả hai miền đất nước, nhất là thắng lợi trên chiến trường miền Nam buộc Tổng thống Giôn xơn phải rút lui, Đảng dân chủ thua cuộc trong tuyển cử Tổng thống và R.Nich xơn đã thắng cử.

Từ khi lên cầm quyền, R.Ních xơn đã thực hiện chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam nước ta, ngang nhiên tiến công vào Campuchia, mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương, biến Đông Dương thành một chiến trường. “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam thực chất là kéo dài và tăng cường chiến tranh bằng mọi thủ đoạn, gây thêm nhiều tội ác mới, nhất là kế hoạch gọi là “bình định” nông thôn. Quân và dân Việt Nam vẫn kiên trì cuộc chiến đấu, quyết chiến và quyết thắng. Báo cáo chính trị của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc tại kỳ họp thứ 6 (ngày 31-5 đến 5-6-1970) và tại kỳ họp thứ 7 (1-3 đến 4-3-1971) của Quốc hội đã khẳng định ý chí của quân và dân ta quyết đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của R.Ních xơn. Quốc hội đã nhất trí tán thành báo cáo của Chính phủ về nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong tình hình  mới. Đảng, Quốc hội, Chính phủ cũng như toàn dân ta tiếp tục cuộc chiến đấu, quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn... Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”[33].

Ngày 5-6-1970, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra lời tuyên bố, trong đó có đoạn nói rõ: “Chính quyền Ních xơn miệng nói “Tìm kiếm hòa bình”, “Chấm dứt chiến tranh”, nhưng thực tế đang kéo dài chiến tranh bằng cách “Việt Nam hóa chiến tranh”, làm cho Hội nghị Pari bế tắc, tăng cường quân ngụy, củng cố ngụy quyền, xúc tiến kế hoạch “bình định”, hằng ngày phạm thêm nhiều tội ác man rợ đối với đồng bào ta ở miền Nam, tiếp tục xâm phạm chủ quyền và an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đẩy mạnh cuộc chiến tranh đặc biệt ở Lào, xâm lược Campuchia... đang thực hiện cái gọi là “học thuyết mới” của Ních xơn... hòng nô dịch nhân dân ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào bằng chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, phục vụ chiến lược toàn cầu của Mỹ ở Đông Nam Á.

Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kêu gọi toàn quân và toàn dân Việt Nam tăng cường đoàn kết, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến, đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược và ngụy quyền..., giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà, ra sức ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân Khơ me và nhân dân Lào anh em chống đế quốc Mỹ và tay sai, vì độc lập, tự do thật sự của các dân tộc Đông Dương, vì hòa bình ở Châu Á và thế giới”[34].

Bão táp của chiến tranh nhân dân đã diễn ra mạnh mẽ trên các chiến trường của cả ba nước Đông Dương. Những thắng lợi về chính trị và quân sự của nhân dân ba nước Đông Dương trong những năm 1969 và 1970, nhất là thắng lợi về quân sự ở đường 9 Nam Lào và Đông Bắc Campuchia vào đầu năm 1971 đã làm phá sản bước đầu quan trọng của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mỹ, mở ra một khả năng thực tế làm phá sản hoàn toàn chiến lược đó.

Cùng với việc đẩy mạnh đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động và tích cực mở mặt trận đấu tranh ngoại giao, thương lượng với Mỹ khi có điều kiện thích hợp.

Kết hợp với đấu tranh quân sự và chính trị trên chiến trường chính, đấu tranh ngoại giao với Mỹ đã được coi là một mặt trận từ năm 1967 theo chủ trương của Ban chấp hành Trung ương Đảng đề ra tại Hội nghị lần thứ 13 (1-1967). Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao đi đến thương lượng với Mỹ dựa trên nguyên tắc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được thể hiện rõ ở lập trường 4 điểm của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tuyên bố 5 điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân (1968), ngày 31-3-1968 Tổng thống Johnson tuyên bố đình chỉ các hoạt động của không quân, hải quân chống Bắc Việt Nam, từ khu vực giáp khu phi quân sự, khước từ việc ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ mới và lại đề nghị sẵn sàng thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 3-4-1968, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện của Mỹ để xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện.

Ngày 13-5-1968 đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Xuân Thủy làm trưởng đoàn và đoàn đại biểu Mỹ do A.Hariman cầm đầu bắt đầu tiếp xúc với nhau tại hội trường các Hội nghị Quốc tế ở đại lộ Klêbe (Pháp) đánh dấu bước phát triển mới trong cuộc đọ sức trên mặt trận ngoại giao giữa ta và Mỹ. Từ đó trở đi, dựa trên thắng lợi ngày càng lớn trên mặt trận đấu tranh quân sự và chính trị trên chiến trường, với nghệ thuật đấu tranh ngoại giao tích cực, chủ động và linh hoạt của ta, cuộc đấu tranh thương lượng với Mỹ từng bước được mở rộng để đi vào giải quyết các vấn đề cơ bản và chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

Bộ trưởng Ngoại giao, trưởng đoàn đại diện Việt Nam tại cuộc thương lượng với Mỹ đã nhiều lần báo cáo về diễn tiến của cuộc đàm phán đó với ủy ban Thường vụ Quốc hội. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhất trí tán thành chủ trương và từng bước theo dõi cuộc đấu tranh của Chính phủ trên mặt trận ngoại giao, thương lượng với Mỹ tại Paris.

 

IV. ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI, TRANH THỦ SỰ  ĐỒNG TÌNH, ỦNG HỘ CỦA QUỐC TẾ  ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC

 

Để góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi, bảo vệ và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không ngừng mở rộng hoạt động đối ngoại, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ quốc tế về cả tinh thần và vật chất.

Quan hệ quốc tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày càng mở rộng, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế, một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ đã hình thành và phát triển rộng rãi. Mặt trận đó bao gồm phe xã hội chủ nghĩa, mặt trận nhân dân Đông Dương, phong trào giải phóng dân tộc, giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, nhân dân tiến bộ Mỹ và tất cả những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới. Báo cáo của Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh tại kỳ họp thứ 6 của Quốc hội đã nói rõ: “ý nghĩa sâu sắc của sự hình thành mặt trận đó ở chỗ đó là hậu thuẫn, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với nhân dân ta, ở chỗ nó đẩy mạnh phong trào ủng hộ Việt Nam trong từng nước, từng tổ chức, đẩy mạnh phong trào chống đế quốc Mỹ trên phạm vi quốc tế”[35].

Quan hệ của Quốc hội Việt Nam với Quốc hội nhiều nước trên thế giới ngày càng mở rộng. Nhiều đoàn đại biểu Quốc hội nước ta đã lần lượt đi thăm các nước trên thế giới.

Tháng 8-1964, Đoàn đại biểu Quốc hội nước ta do Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh dẫn đầu đã sang thăm và dự lễ kỷ niệm lần thứ 19 ngày quốc khánh của Inđônêsia.

Đầu năm 1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam đã đón Đoàn đại biểu Liên Xô do Côxưghin, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô dẫn đầu sang thăm nước ta nhằm góp phần tăng cường đoàn kết giữa Liên Xô và Việt Nam chống Mỹ, bảo vệ phe xã hội chủ nghĩa và hòa bình thế giới.

Tháng 7-1965, Đoàn đại biểu Quốc hội do Phó Chủ tịch Hoàng Văn Hoan dẫn đầu đã đi thăm hữu nghị Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa nhân dân Mông Cổ, Liên Xô, nhằm củng cố và phát triển tình hữu nghị và tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ của các nước đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Đoàn đại biểu Quốc hội nước ta đã giới thiệu với Đảng, Chính phủ, Quốc hội và nhân dân các nước về tình hình đấu tranh anh dũng và quyết tâm chống Mỹ, cứu nước cho đến thắng lợi cuối cùng. Đảng, Quốc hội, Chính phủ các nước đã đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ về tinh thần và vật chất nhằm tăng cường sức mạnh chiến đấu của nhân dân ta.

Năm 1967, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cử Phó Chủ tịch Hoàng Văn Hoan tham gia Đoàn đại biểu Đảng, Quốc hội, Chính phủ đi dự lễ quốc khánh nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1-10) và Phó Chủ tịch Quốc hội Chu Văn Tấn tham gia Đoàn đại biểu Việt Nam dự lễ kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng tháng Mười vĩ đại tại Liên Xô (7-11).

Tháng 2-1970, Ủy viên thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trần Đình Tri dẫn đầu Đoàn đại biểu Quốc hội nước ta đi dự Hội nghị quốc tế các nghị sĩ về cuộc khủng hoảng ở Trung Đông họp ở Cairô. Đoàn đại biểu Quốc hội ta đã nói rõ lập trường của Việt Nam là đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Palextin và nhân dân các nước Arập khác nhằm bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, giành lại những quyền dân tộc cơ bản của mình - sau hội nghị Đoàn cũng đã thăm hữu nghị nước Cộng hòa Ả rập thống nhất theo lời mời của Quốc hội nước này.

Tiếp đến từ ngày 23-6 đến 12-8-1970, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Hoàng Văn Hoan dẫn đầu Đoàn đại biểu Quốc hội nước ta đi thăm các nước Cộng hòa nhân dân Bungari, Cộng hòa dân chủ Đức, Cộng hòa nhân dân Anbani và Cộng hòa nhân dân Hungari. Cuộc đi thăm này tiếp tục thắt chặt hơn nữa quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Quốc hội ta với Quốc hội các nước anh em, giới thiệu tình hình đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, của nhân dân cả ba nước trên bán đảo Đông Dương, quyết tâm đoàn kết chiến đấu để đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược.

Hoạt động đối ngoại của Quốc hội nước ta trong giai đoạn này có ý nghĩa chiến lược quan trọng đã phối hợp với mặt trận quân sự và mặt trận chính trị tạo thành một sức mạnh tổng hợp để đánh thắng Mỹ xâm lược. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội trong nhiệm kỳ thứ III đã góp phần nêu cao lập trường sáng ngời chính nghĩa của cuộc kháng chiến của dân tộc ta, đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ ngày càng to lớn của Quốc hội, Chính phủ và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, các nước yêu chuộng hòa bình trên thế giới.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được các nước tiếp tục kiến lập quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ. Đó là, Cộng hòa Cônggô (16-7-1964), Cộng hòa Inđônêxia (10-8-1964), Cộng hòa thống nhất Tandania (14-2-1965), Cộng hòa Hồi giáo Môritani (15-3-1965), Cộng hòa Ghana (25-3-1965), Cộng hòa Arập Xyri (21-7-1966), Vương quốc Campuchia (24-6-1967), Cộng hòa Irắc (10-7-1968), Cộng hòa Xuđăng (26-8-1968), Vương quốc Thụy Điển (11-1-1969), Cộng hòa Xênêgan (29-12-1969), Công hòa Dân chủ Xômali (7-6-1970), Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Dân chủ Xri Lanca (21-7-1970).

 

V. CHUẨN BỊ BẦU CỬ QUỐC HỘI KHÓA IV

 

Quốc hội khóa III được bầu ra ngày 26-4-1964, lẽ ra hết nhiệm kỳ từ ngày 26-4-1968. Song, do đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh trên cả hai miền Nam - Bắc, cả nước phải dồn sức vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước nên việc chuẩn bị và bầu cử Quốc hội ở miền Bắc gặp những trở ngại lớn. Trước tình hình đó, căn cứ vào Điều 45 của Hiến pháp, Quốc hội đã ra Nghị quyết ngày 2-5-1968, “kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội khóa III và giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IV khi nào tình hình cho phép”[36].

Đến Kỳ họp thứ 7 (3-1971), nhiệm kỳ Quốc hội khóa III đã kéo dài gần 7 năm. Lúc này tuy cả nước vẫn ở trong tình thế có chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ đã phải chấm dứt chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Để đời sống chính trị của miền Bắc dần dần trở lại bình thường và bảo đảm đầy đủ sinh hoạt dân chủ của nhân dân khi đã có điều kiện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội khóa IV vào ngày chủ nhật 11-4-1971. Để ấn định số đại biểu được bầu vào Quốc hội khóa IV, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã trình Quốc hội xem xét vấn đề lưu nhiệm đại biểu miền Nam (khóa I). Các đại biểu được nhân dân miền Nam bầu ra từ ngày 6-1-1946, đã được kéo dài nhiệm kỳ theo quyết định ngày 31-12-1959 tại kỳ họp thứ II, Quốc hội khóa I. Hoạt động trong Quốc hội khóa II và III cũng như trên cương vị khác của mình, các đại biểu miền Nam đã phát huy truyền thống đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đến nay cách mạng miền Nam đã có những bước phát triển mới.

Ngày 6-6-1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam đã bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng Cố vấn bên cạnh Chính phủ.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng Cố vấn bên cạnh Chính phủ là tổ chức có tính chất đại diện đầy đủ và cao nhất của nhân dân miền Nam, đã được hàng chục nước trên thế giới công nhận. Vì vậy, việc tiếp tục lưu nhiệm các đại biểu miền Nam trong Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là không phù hợp nữa. Do đó, sau khi xem xét tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 4-3-1971, Quốc hội đã thông qua quyết nghị nhiệm kỳ của các đại biểu Quốc hội đã được nhân dân miền Nam bầu ra ngày 6-1-1946 sẽ chấm dứt cùng với nhiệm kỳ Quốc hội khóa III.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ấn định số đại biểu sẽ được bầu vào Quốc hội khóa IV là 420 người, trong đó có số đại biểu dành cho các dân tộc thiểu số bằng 1/7 số đại biểu Quốc hội. Để phụ trách việc bầu cử Quốc hội khóa IV, Ủy ban bầu cử đã quyết định thành lập Hội đồng bầu cử gồm 25 người do Trường Chinh làm Chủ tịch.

Thực hiện kế hoạch bầu cử Quốc hội khóa IV của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhân dân miền Bắc đã sôi nổi hưởng ứng, tích cực chuẩn bị tham gia bầu cử.

*

*        *

Chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người dân Việt Nam yêu nước. Do hoàn cảnh chiến tranh nên nhiệm kỳ hày của Quốc hội kéo dài đến quý I năm 1971. Trong bảy năm ấy, Quốc hội đã họp bảy kỳ và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội  đã họp 95 lần, thông qua hơn một nghìn nghị quyết về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, về tổ chức hành chính, về nhân sự phục vụ sự nghiệp xây dựng miền Bắc, phục vụ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Năm 1965, đế quốc Mỹ đã mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Trước tình hình khẩn trương đó, tại phiên họp ngày 10-4-1965, Quốc hội đã giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội  thêm một số quyền hạn trong trường hợp Quốc hội không có điều kiện thuận tiện họp để quyết định thông qua kế hoạch Nhà nước, ngân sách, nhân sự cấp cao, tổ chức hành chính, v.v....

Căn cứ vào đường lối, chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ chuyển hướng kinh tế theo thời chiến, thông qua kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế hai năm 1966-1967, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua các kế hoạch kinh tế nhà nước năm 1968, kế hoạch năm 1969, kế hoạch năm 1970, đã thông qua các dự toán ngân sách và tổng quyết toán ngân sách Nhà nước hàng năm. Thành tựu của các kế hoạch kinh tế đó đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản của nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong thời chiến, giữ vững sự ổn định về đời sống của cán bộ, quân đội và các tầng lớp nhân dân trong điều kiện thời chiến đồng thời tích cực chi viện ngày càng lớn cho miền Nam tiền tuyến lớn.

Hoạt động trong hoàn cảnh chiến tranh diễn ra ngày càng ác liệt, mọi yêu cầu nhiệm vụ quân sự, chính trị, kinh tế.... đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời. Vì thế quan hệ giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội với Chính phủ càng phải được chặt chẽ và thường xuyên. Những chủ trương, chính sách, những nhiệm vụ công tác lớn về chống Mỹ, cứu nước, về các chính sách kinh tế thời chiến, về đấu tranh thống nhất, về đối ngoại đều được Chính phủ kịp thời báo cáo trước Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và đã được Quốc hội phê chuẩn nhanh chóng. Sự thống nhất giữa Quốc hội và Chính phủ là một truyền thống tốt đẹp, là điều kiện quan trọng bảo đảm động viên kịp thời yêu cầu của chiến tranh. Quốc hội và Chính phủ đã động viên quân và dân miền Bắc nêu cao Chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua mọi hy sinh gian khổ, tích cực xây dựng và bảo vệ miền Bắc đánh bại các bước leo thang chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc, hết lòng hết sức chi viện kịp thời và ngày càng lớn cho miền Nam, đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ và bước đầu đánh bại chiến lược chiến tranh “Việt Nam hóa” của đế quốc Mỹ.

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đã có những quyết định về điều chỉnh các tổ chức của bộ máy Chính phủ, điều động bố trí các cán bộ cấp cao của Chính phủ, của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và bổ nhiệm nhiều vị đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở nước ngoài, đáp ứng yêu cầu khẩn trương của nhiệm vụ công tác đối nội và đối ngoại của sự nghiệp kháng chiến cứu nước. Quốc hội cũng đã thông qua các quyết định về điều chỉnh địa giới, sáp nhập nhiều tỉnh nhỏ thành các tỉnh lớn và cũng đã thông qua một số văn bản về luật pháp. Các nghị quyết, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đều được Quốc hội nhất trí phê chuẩn.

Thực hiện quyền giám sát của mình, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đã thường xuyên nghe Chính phủ báo cáo về các vấn đề kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo về chủ trương biện pháp cần thiết để tăng cường quản lý về mặt Nhà nước, giữ gìn trật tự an ninh xã hội. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đã quan tâm chỉ đạo các cơ quan hữu quan giải quyết các đơn khiếu nại, tố giác của nhân dân, bảo đảm quyền dân chủ và các quyền lợi kinh tế, chính trị xã hội của công dân. Quốc hội đã hết sức coi trọng và kịp thời đáp ứng những đòi hỏi khẩn trương của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Song song với việc quyết định chi viện, sức người, sức của cho miền Nam ngày càng lớn, Quốc hội cũng đã kiên quyết và kịp thời lên án cuộc chiến tranh xâm lược và những tội ác lớn của chúng đối với nhân dân ta trên cả hai miền đất nước. Quốc hội đã thực hiện liên hệ ngày càng chặt chẽ với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, với Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, hoàn toàn tán thành các giải pháp chính trị của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Những nghị quyết, tuyên bố của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, những tham luận của các Đại biểu Quốc hội về vấn đề giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của Mỹ và chính quyền tay sai là những đòn tiến công chính trị mạnh mẽ giáng vào bọn cướp nước và bán nước, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam ruột thịt trong cuộc chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa III là Quốc hội xây dựng đất nước thời chiến, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, tích cực chi viện cho cuộc kháng chiến của quân và dân ta đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ trên chiến trường miền Nam và tích cực làm nghĩa vụ quốc tế với cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân Campuchia và nhân dân Lào.

“Quốc hội khóa III - như Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã nêu rõ - là Quốc hội đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và trong điều kiện chiến tranh, bảo đảm cho miền Bắc làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.

“Quốc hội ta thật xứng đáng là đại biểu của nhân dân Việt Nam anh hùng. Chúng ta rất vinh hạnh được làm đại biểu của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quang vinh.

“Trong công lao và thành tích của Quốc hội ta, có phần đóng góp xứng đáng của các đại biểu được đồng bào miền Nam bầu ra ngày 6-1-1946 trong điều kiện gay go, gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Nhân dân cả nước ta luôn luôn ghi nhớ những cống hiến của các vị đại biểu miền Nam”[37].

 


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 2002, t11, tr..234.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập Sđd, t.11, tr.247.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.281.

[4] Hồ Chí Minh: toàn tập, Sđd, 2002,  t.11, tr.280-282

[5] Hồ Chí Minh: toàn tập, Sđd, 2002,  t.11, tr.280-282

[6] Hồ Chí Minh: toàn tập, Sđd, 2002,  t.11, tr.280-282

[7] Hồ Chí Minh: toàn tập, Sđd, 2002,  t.11, tr.280-282

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t.26, tr.108.

[9] Đảng cộng sản Việt Nam: Sđd, t..26, tr.110.

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr.434-435

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr. 434 – 435

[12] Nguyễn Côn được bổ nhiệm giữ chức Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước trong kỳ họp ngày 11-10-1965 của ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[13] Các văn kiện của Kỳ họp thứ 3, khóa III từ 15 đến 25-4-1966, tr.90

[14] Các văn kiện của Kỳ họp thứ 3, khóa III (từ 15 đến 22-4-1966); Lưu trừ Văn phòng Quốc hội, tr.93

[15] Nguyễn Côn được bổ nhiệm giữ chức Phó Thủ tướng tại phiên họp ngày 30-10-1967 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

[16]  Các văn kiện của Kỳ họp thứ 6, Từ 31-5 đến 5-6-1970, Lưu trữ Văn phòng Quốc hội, Tr. 62.

[17] Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa III. Các văn kiện của kỳ họp thứ 7, tr 59.

[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.515

[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.516

[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.519

[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.520

[22] Xem  Trường Chinh: Diễn văn đọc trong buổi họp của Quốc hội  truy điệu Hồ Chủ tịch ngày 23 - 9 - 1969, Quốc hội nước VNDCCH khóa III,  Các văn kiện của Kỳ họp thứ V, Tr. 18

[23] Quốc hội nước VNDCCH khóa III,  Các văn kiện của Kỳ họp thứ V (22,23 - 9 - 1969) tại Hà Nội,  Tr. 47

 

[24] Các văn kiện Quốc hội khóa III, Kỳ họp thứ 3, Lưu trữ Văn phòng Quốc hội, tr.53.

[25] Các văn kiện Quốc hội khóa III, Lưu trữ Văn phòng Quốc hội Tr. 74

[26] Các văn kiện Quốc hội khóa III, Lưu trữ Văn phòng Quốc hội Tr. 74

[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12,  Tr. 108, 109

[28] Xem: Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập III, 1945-1995, NXB.GD, HN. 1997, Tr.220.

[29] Quốc hội nước VNDCCH khóa III, Các văn kiện của Kỳ họp thứ IV (19đến 22-5-1968), Tr. 295

[30] Năm 1971, kỹ sư Cao Văn Bổn bị bệnh mất. Năm 1975, ông Dương Kỳ Hiệp được cử quyền Bộ trưởng Bộ Kinh tế

[31] Trương Như Tảng về sau đã bỏ nhiệm vụ đi ra nước ngoài

[32] Quốc hội nước VNDCCH Khóa III, Các văn kiện của Kỳ họp thứ VII từ tháng 1 đến tháng 3-1971, Tr. 67, 68

[33] Hồ Chí Minh:  Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 12,  Tr. 499

[34] Các văn kiện của Kỳ họp thứ VI, Lưu trữ Văn phòng Quốc hội, Tr. 265, 268.

[35] Các văn viện của kỳ họp thứ VI. Lưu trữ Văn phòng Quốc hội, tr 78

[36] Điều 45 của Hiến pháp nước VNDCCH năm 1959 quy định: “Nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội  là 4 năm Trong trường hợp xảy ra chiến tranh hoặc các trường hợp bất thường khác, Quốc hội có thể quyết định kéo dài nhiệm kỳ của mình và những biện pháp cần thiết để bảo đảm sự hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội”

[37] Các văn kiện của Kỳ họp thứ 7, khóa III; Lưu trữ Văn phòng Quốc hội, Tr.161.